Em Hiểu Thế Nào Là Nền Văn Hóa Tiên Tiến đậm đà Bản Sắc Dân Tộc

Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Luận Văn - Báo Cáo
  4. >>
  5. Lý luận chính trị
Em hiểu thế nào là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.21 KB, 14 trang )

ĐỀ BÀIEM HIỂU THẾ NÀO LÀ NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN ĐẬMĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘCBÀI LÀMNgày này, không ai còn có thể phủ nhận được vai trò của vănhoá đối với sự phát triển mỗi dân tộc cũng như đối với sự pháttriển nhân loại. Ở Việt Nam, chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hộitrong điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế, giao lưu văn hoá vớinước ngoài và trong hoàn cảnh thế giới đã có những biến đổi to lớnvề mọi mặt. Những điều kiện trên đưa tới nhiều yếu tố tích cực,đồng thời cũng đưa tới nhiều ảnh hưởng tiêu cực, đặc biệt là trongvăn hoá. Khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mụctiêu xuyên suốt của tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta cũngtrực tiếp khẳng định các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà“Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là một bộ phậncấu thành. Bởi vậy, xây dựng và phát triển “nền văn hoá tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc” đã và đang là một nhiệm vụ chiến lượcđòi hỏi Đảng, toàn dân và toàn quân vưa phải tiến hành các hoạtđộng thực tiễn để văn hoá có thể góp phần tốt nhất bảo đảm chodân tộc vững bước trên con đường của sự lựa chọn xã hội chủnghĩa.Văn hoá là nền tảng làm nên những nét khu biệt của một dântộc, một cộng đồng tộc người này với những dân tộc - cộng đồngtộc người khác. Như vậy rõ ràng, văn hoá Việt có những điểm độcđáo riêng tạo nên tính cách, lối sống, tâm lý ... của người ViệtNam.Người ta thường nói "Văn hoá là tất cả những giá trị vật chấtvà tinh thần mà con người đạt được tiến trình phát triển của lịchsử", tức là: tất cả những gì con người tạo ra và đạt được trong quá1trình tương tác với tự nhiên và xã hội là văn hoá. Và theo đó, cácnhà nghiên cứu đã chia văn hoá thành 2 lĩnh vực là: văn hoá vậtchất và văn hoá tinh thần. Và khi đã chia ra như vậy thì không thểbao hàm hết những giá trị văn hoá mà con người đạt được trongquá trình phát triển của lịch sử.Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trịbền vững, những tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấutranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc củacộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Xét về bảnchất, lịch sử dân tộc ta ngay từ thời dựng nước là lịch sử khôngngừng đấu tranh chống ngoại xâm để dành và giữ nền độc lập, tạonên phẩm chất cao cả và thiêng liêng nhất của bản sắc văn hoá dântộc, đó là tinh thần yêu nước thương nòi. Chủ nghĩa yêu nước củavăn hoá dân tộc ta không chỉ biểu lộ ở lòng dũng cảm, đức hy sinhmà còn ở tinh thần đoàn kết, nhân ái, yêu thương con người, ý thứcbảo vệ nhân phẩm, giữ gìn đạo lý.Bản sắc văn hoá dân tộc khôngphải là cái ngưng đọng, bất biến mà luôn phát triển một cách biệnchứng theo xu hướng tích lũ, thu nạp những điều tốt đẹp, tiến bộ,sa thải cái xấu, cái lạc hậu không phù hợp với thời đại. Trải quahàng ngàn năm lịch sử văn hoá Việt Nam đã vượt qua thế bị độngđể tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm giàu thêm bản sắc củamình.Xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là một khẩuhiệu chính trị, giống như trước đây có khẩu hiệu dân tộc-khoa họcđại chúng được biến thành chủ trương và chính sách đường lối ápdụng vào công tác quản lý văn nghệ, thậm chí nhiều lúc người tacòn muốn cụ thể hóa vào phương pháp sáng tác của mỗi tác giả,tác phẩm. Thực tế chứng minh rằng không tác giả nào có thểchuyển hóa khẩu hiệu đó vào tác phẩm mà không thất bại. Các tácphẩm, tác giả thành công thì thường từng "vướng", "chệch","không bám sát" khẩu hiệu đó: Kịch của Tào Mạt, Nguyễn Đình2Thi, Lưu Quang Vũ... thơ Hoàng Cầm, Lê Đạt, Bùi Giáng... tranhNguyễn Sáng, Bùi xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm..., nhạc VănCao, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn... và văn của nhiều người... Đơngiản vì thời thế thay đổi thì khẩu hiệu chính trị phải thay đổi.Chính trị cần có chủ trương đường lối văn hóa văn nghệ của mìnhđể định hướng và quản lý cụ thể đời sống văn hóa, sự "tiêu dùng"văn nghệ của dân. Còn văn nghệ có quy luật sáng tạo độc lậptương đối của nó. Nếu trước đây có các tác giả muốn tác phẩm cụthể của mình đạt chuẩn dân tộc-khoa học -đại chúng thì hiện naykhông ai "quyết chí", nhăm nhăm làm cho tác phẩm của mình"đậm đà bản sắc dân tộc" cả. Đó là vì sáng tác bây giờ là tự do cánhân và chính trị bây giờ cũng không muốn áp đặt công thức nàocho sáng tác nữa. Đó là một sự tiến bộ của xã hội hơn là của vănnghệ. Cũng không thể phủ nhận trong lịch sử xã hội luôn có dòngvăn nghệ dấn thân, nhiều nhà văn nghệ làm chính trị và ngược lại.Họ có thể gặp những vinh quang và cay đắng đương thời nhưngnói chung thời gian rất công bằng. Các giá trị văn nghệ và cácthành công chính trị lại được tách bạch và đánh giá đúng lại. Vậybản sắc dân tộc trong khẩu hiệu đó là gì, và thế nào là đậm đà vớitư cách là hai phạm trù chính trị? Các nhà chính trị cho chúng mộtnội hàm và cụ thể hóa chúng trong lập pháp và hành pháp.Bản sắc văn hóa quốc gia, vùng miền nằm trong chiến lượcđa dạng văn hóa toàn cầu, như đa dạng sinh học, là khái niệm đượccác nhà văn hóa học và các nhà hoạt động văn hóa quốc tế nêu ra,được Liên Hiệp quốc ủng hộ. Nó là sản phẩm hậu hiện đại đề caoyếu tố địa phương, bản địa. Nội dung chủ yếu là sự khác biệt, tínhđộc đáo, thậm chí là viễn dị của văn hóa du lịch, văn hóa đại chúngcùng sự đề cao những di sản độc đáo của mỗi nước, mỗi vùngmiền. Nguy cơ bị "nô dịch văn hóa" của các nước nghèo, sự đạichúng hoá toàn cầu các biểu hiện và thành tựu văn hóa các nướcgiàu có nguy cơ xóa nhòa, bào mòn đa dạng văn hóa trên trái đất.Với người dân nó bao gồm cả các thói quen ứng xử, tập tục, vănnghệ dân gian, lễ hội... Với các chính phủ là các chính sách biệnpháp bảo vệ di sản, bảo hộ văn hóa, văn nghệ trong nước từ điện3ảnh, truyền hình, sân khấu truyền thống tới các dòng nhạc bản địahay các môn mỹ thuật dân gian, làng nghề thủ công... Khái niệmnày cũng khích lệ sự giao lưu văn hóa có nhấn mạnh các nét độcđáo bản địa. Sự phát triển kinh tế trong bối ảnh toàn cầu hóa,chuyển giao công nghệ nhanh chóng và sự dư thừa sản phẩm cũngđòi hỏi hàng hóa có bản sắc quốc gia vùng miền để dễ bán hơn.Đối với một cộng đồng người- nguồn nhân lực thì bản sắc dântộc có lẽ là những đặc điểm tính cách, phẩm chất đã cố kết tronglịch sử, qua lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia được đúc kết và kháiquát hóa để khơi dậy hay triệt tiêu đi trước nhu cầu tiến hóa, pháttriển của đương thời. Thường những đặc điểm này không hoặc khóđược định lượng mà chỉ "chung chung" song lại có giá trị như một"thương hiệu" và rất có hiệu quả khi xây dựng lòng tự hào dân tộc.Nó cũng được các chuyên gia nghiên cứu để ứng dụng trong cácchiến lược phát triển nguồn nhân lực (thí dụ như ta hay nói: ngườiĐức chính xác và kỷ luật, người Hoa thực dụng và khôn khéo,người Nhật đoàn kết và trung thành, người Tây Ban Nha cuồngnhiệt và nghệ sĩ...) Có hai luồng song song khi nghiên cứu các đặctính này: Một là đề cao các bản tính tốt như nói người Việt thôngminh, cần cù, giỏi biến hóa, ứng biến, hiếu hòa, dễ tha thứ... Hai làvạch ra các thói hư tật xấu để "chừa" dần đi như háo danh, thiểncận, hay đố kị, không đoàn kết trong kinh doanh, không chịu họcđến nơi đến chốn, kém khả năng tư biện trừu tượng hóa... Và cái lýthú là thường một đặc tính "tốt" (tức hợp với thời thế cụ thể)thường đi liền với một đặc tính "xấu" (không hợp thời). Kỷ luậtquá thì giáo điều, giỏi ứng biến quá thì thiếu triết học và chiếnlược, học lỏm giỏi, học thi giỏi thì dễ tự vừa lòng và thiếu sáng tạobất ngờ, đột phá, hiếu hòa quá thì dễ xuê xoa... Cá nhân tôi vẫn chorằng các đặc tính, bản tính của người Việt tùy thuộc và thể hiện ởcác mẫu người Việt đã hình thành trong lịch sử cụ thể mà tôi đãtrình bày: Người Làng- Người lính -Người mở đất. Các mẫu ngườinày quy tụ cả các đặc tình "tốt" lẫn "xấu" tùy theo thời thế cụ thể(Bởi bản thân bản tính không có tốt - xấu). Trong cách mạng có thểphát huy bản tính này mà triệt tiêu bản tính kia, trong chiến tranh4có khác đi và nay trong hòa bình xây dựng xã hội công nghiệp, đôthị hóa, toàn cầu hóa thì lại càng phải khác. Cái "tốt" cái "xấu"cũng thay đổi. Cái cần phát huy, cái cần triệt tiêu cũng khác đi.Nếu không tùy thời mà dùng thì sẽ phạm sai lầm. Ta từng đưa cáctướng tá quân đội, các nhà thơ sang làm kinh tế, quản lý vì họ cónhững "bản tính rất tốt" của thời chiến song đã thất bại.Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc bền. Đầu tiênlà ăn, "có thực mới vực được đạo", "trời đánh còn tránh bữa ăn".Cơ cấu ăn thiên về thực vật, cơm rau là chính cộng thêm thuỷ sản.Luộc là cách nấu ăn đặc sắc của Việt Nam. Nhưng cách thức chếbiến món ăn lại giầu tính tổng hợp, kết hợp nhiều chất liệu và giavị. Ngày nay có nhiều thịt cá, vẫn không quên vị dưa cà.Người Việt hay dùng các chất liệu vải có nguồn gốc thực vật,mỏng, nhẹ, thóang, phù hợp xứ nóng, với các sắc màu nâu, chàm,đen. Trang phục nam giới phát triển từ đóng khố ở trần đến áocánh, quần ta (quần Tàu cải biến). Nữ giới xưa phổ biến mặc yếm,váy, áo tứ thân sau này đổi thành chiếc áo dài hiện đại. Nói chung,phụ nữ Việt Nam làm đẹp một cách tế nhị, kín đáo trong một xãhội "cái nết đánh chết cái đẹp". Trang phục cũ cũng chú ý đếnkhăn, nón, thắt lưng.Ngôi nhà Việt Nam xưa gắn liền với môi trường sông nước(nhà sàn, mái cong). Sau đó là nhà tranh vách đất, lợp rạ, vật liệuchủ yếu là tre gỗ, không cao quá để chống gió bão, quan trọng nhấtlà hướng nhà thường quay về phía Nam chống nóng, tránh rét. Nhàcũng không rộng quá để nhường diện tích cho sân, ao, vườn cây.Vả lại, người Việt Nam quan niệm "rộng nhà không bằng rộngbụng". Các kiến trúc cổ bề thế thường ẩn mình và hoà với thiênnhiên.Phương tiện đi lại cổ truyền chủ yếu là đường thuỷ. Con thuyềncác loại là hình ảnh thân quen của cảnh quan địa lý-nhân văn ViệtNam, cùng với dòng sông, bến nước.5Các phong tục hôn nhân, tang ma, lễ tết, lễ hội của Việt Namđều gắn với tính cộng đồng làng xã. Hôn nhân xưa không chỉ lànhu cầu đôi lứa mà còn phải đáp ứng quyền lợi của gia tộc, giađình, làng xã, nên kén người rất kỹ, chọn ngày lành tháng tốt, trảiqua nhiều lễ từ giạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu đến tơ hồng, hợp cẩn, lạimặt, và phải nộp cheo để chính thức được thừa nhận là thành viêncủa làng xóm. Tục lễ tang cũng rất tỉ mỉ, thể hiện thương xót vàtiễn đưa người thân qua bên kia thế giới, không chỉ do gia đình lomà hàng xóm láng giềng tận tình giúp đỡ.Việt Nam là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùaxuân, nông nhàn. Các tết chính là tết Nguyên đán, tết Rằm thángGiêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trungthu, tết Ông táo... Mỗi vùng thường có lễ hội riêng, quan trọngnhất là các lễ hội nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm mới...),các lễ hội nghề nghiệp (đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe...).Ngoài ra là các lễ hội kỉ niệm các bậc anh hùng có công vớinước, các lễ hội tôn giáo và văn hóa (hội chùa). Lễ hội có 2 phần,phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn và phần hội là sinh hoạt vănhóa cộng đồng gồm nhiều trò chơi, cuộc thi dân gian.Về nghệ thuật,bản sắc dân tộc là sự khác biệt độc đáo của mộtcá nhân nghệ sĩ, thể hiện trong tác phẩm. Câu hỏi mà họa sĩ cácnước nghèo gặp phải khi đối diện với văn nghệ các nước giàu là:Bản sắc hội họa nước bạn là gì? Và hình như bạn chịu ảnh hưởngcủa họa sĩ A,B,C nổi tiếng của Phương Tây? Khi Picasso chéptượng châu Phi, Matisse vẽ như tranh nhà Phật, Van Gogh chéptranh Nhật thì họ được coi là sáng tạo. Khi họa sĩ nước nghèo cónét giống Picasso, Matisse hay Van Gogh anh ta lập tức bị chê làquay cóp, ăn phải bả Tây . Tuy nhiên khi gặp một họa sĩ có nhữngsáng tác độc đáo nhà phê bình không ngần ngại nói Tôi thấy tranhcủa bạn rất Việt Nam, rất Thái Lan... Song làm cho ý kiến xác6đáng đó thành phổ quát, có trọng lượng trên thị trường tranh thếgiới thì cần cả một nền văn hóa và nền kinh tế hùng mạnh của quốcgia để tựa lưng. Sự độc đoán, lũng đoạn của phương Tây và cácnước giàu trong thẩm định và quảng bá văn nghệ là quá lớn và bấtcông. Tất nhiên Trung Hoa và Ấn Độ là hai nền văn hóa khổng lồnên con cháu của họ không dễ bắt nạt như vậy và nếu độc đáo họcó lợi thế được công nhận hơn các nghệ sĩ các thuộc các nền vănhóa "nhỏ, ngoại vi". Văn nghệ phương Tây (được gọi luôn là thếgiới) sẵn sàng ưu ái văn nghệ các nước nghèo với tư cách văn nghệdu lịch, bản địa, thổ dân, thiểu số hay văn nghệ vùng biên. Câuchuyện trên cũng chứng tỏ một biện chứng cưỡng bức là chỉ cógiao lưu, trao đổi sống chung với văn nghệ quốc tế ta mới có bảnsắc cá nhân, từ thời thực dân -cuộc toàn cầu hóa I -văn nghệphương Tây đã lấy hiểu biết và cảm hứng từ các xứ sở khác làmthức ăn cho cuộc tiến hóa của mình. Ta không thể bảo vệ thụ độngbản sắc mà chỉ hòa nhập cọ sát và biến đổi bản sắc mới xuất hiệnvà chói sáng. Truyện Kiều, thơ Nôm hay Điêu khắc Chăm, Việt,tranh khắc gỗ dân gian, tuồng chèo, nhạc Cung Đình Huế, Quan họhay Ca trù... chứa đựng bản sắc dân tộc vì từng là sự giao thoa, cọsát, khai thác lẫn nhau của các dòng văn nghệ, văn hóa khác nhau.Gần đây thì cái áo dài, cái nón tới tranh sơn mài, lụa, sơn dầu từĐông Dương tới Đổi mới, Thơ Mới, tiểu thuyết, kiến trúc "ĐôngDương", cải lương... đều là những suối nguồn, và "kho chứa" củabản sắc dân tộc. Nó trừu tượng song không chung chung mà nằm ởcác tác phẩm cụ thể của các tác giả cụ thể. Nếu có những nghiêncứu nhận dạng được những nét chung nào đó của các tác phẩm, tácgiả đó thì ta có thể mơ hồ gọi tên "bản sắc dân tộc" ta. Ở dạng rútgọn thì lịch sử văn nghệ là lịch sử của các tác giả độc đáo và cáctác phẩm xuất chúng.Nước chúng ta, sự kiểm soát của công nhân được chế địnhthành luật pháp, nhưng nó chỉ vừa mới bắt đầu thấm vào đời sống,thậm chí vừa mới bắt đầu thấm vào ý thức của đông đảo quầnchúng vô sản mà thôi. Trong công tác cổ động, chúng ta chưa nóiđầy đủ, mà những công nhân và nông dân tiên tiến cũng không suy7nghĩ, không nói đầy đủ đến điều sau đây: không có chế độ kế toánvà kiểm soát trong sự sản xuất và phân phối sản phẩm, thì nhữngmầm mống của chủ nghĩa xã hội sẽ bị tiêu diệt, thì có nghĩa là ăncắp quốc khố (vì tất cả của cải đều thuộc về quốc khố mà quốc khốđây lại chính là Chính quyền xô-viết, chính quyền của đa số nhữngngười lao động); cẩu thả đối với việc kiểm kê và kiểm soát là trựctiếp giúp sức cho bọn Coóc-ni-lốp Đức và Nga, là những kê chỉ cóthể lật đổ chính quyền của những người lao động, nếu chúng takhông giải quyết được nhiệm vụ kiểm kê và kiểm soát; bọn chúngđược sự giúp đỡ của toàn bộ giai cấp tư sản mu-gích, của bọn dânchủ - lập hiến, của bọn men-sê-vích và bọn xã hội chủ nghĩa - cáchmạng cánh hữu, đang "rình" chúng ta, đang chờ thời cơ thuận lợi.Mà chừng nào sự kiểm soát của công nhân chưa trở thành sự thậthẳn hoi, chừng nào những công nhân tiên tiến chưa tổ chức vàchưa tiến hành một cuộc tấn công thắng lợi không khoan nhượngchống tất cả những kẻ vi phạm sự kiểm soát ấy, hoặc những kẻ tỏra thờ ơ về mặt đó, thì chừng đó sẽ không thể nào tiến từ bước thứnhất (thực hiện việc kiểm soát của công nhân) lên bước thứ haitrên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, tức là bước chuyển sangviệc công nhân điều tiết sản xuất.Nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời dưới hình thức mộthệ thống những công xã sản xuất và tiêu dùng biết tính toán mộtcách thật thà sự sản xuất và tiêu dùng của mình, biết tiết kiệm laođộng, không ngừng tăng năng suất và do đó tạo điều kiện giảmngày lao động xuống bảy giờ, sáu giờ hay ít hơn thế nữa. Tronglĩnh vực đó, người ta sẽ không thể nào không dùng đến sự kiểm kêvà kiểm soát chặt chẽ nhất và toàn diện nhất của toàn dân đối vớilúa mì và việc sản xuất lúa mì (rồi đến tất cả những sản phẩm cầnthiết khác). Chủ nghĩa tư bản đã để lại cho chúng ta những tổ chứcquần chúng có thể làm giảm nhẹ việc chuyển sang kiểm kê vàkiểm soát một cách rộng rãi sự phân phối các sản phẩm: đó lànhững hội tiêu dùng. ở Nga, những hội này phát triển kém hơn ởcác nước tiên tiến, nhưng dù sao cũng có được hơn 10 triệu hội8viên. Sắc lệnh về các hội tiêu dùng 67 vừa được công bố là hiệntượng hết sức tiêu biểu: nó cho ta thấy rõ hiện nay đặc điểm củatình hình và nhiệm vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô-viếtlà như thế nào. Vănhoá là nền tảng làm nên những nét khu biệt củamột dân tộc (peoples),một cộng đồng tộc người (ethnic groups)này với những dân tộc - cộng đồng tộc người khác. Như vậy rõràng, văn hoá Việt có những điểm độc đáo riêng tạo nên tính cách,lối sống, tâm lý ... của người Việt Nam.Người ta thường nói "Văn hoá là tất cả những giá trị vật chất vàtinhthần mà con người đạt được tiến trình phát triển của lịch sử",tức là:tất cả những gì con người tạo ra và đạt được trong quá trìnhtương tácvới tự nhiên và xã hội là văn hoá. Và theo đó, các nhànghiên cứu đã chia văn hoá thành 2 lĩnh vực là: văn hoá vật chất vàvăn hoá tinhthần. Và khi đã chia ra như vậy thì không thể bao hàmhết những giá trị văn hoá mà con người đạt được trong quá trìnhphát triển của lịch sử.Ví dụ ngôi nhà chẳng hạn! Bản thân ngôi nhà thuộc về văn hoávật chất nhưng khi sử dụng ngôi nhà đó như thế nào, bài trí ra sao,vào mục đích gì (làm nhà thờ, làm bếp, làm nơi ở, làm lớp học, hộitrường...) thì nó đòi hỏi con người chúng ta phải có những hành viđối xử phủ hợp vớichức năng của nó. Vậy ngôi nhà không cònthuộc về văn hoá vật chất một cách đơn thuần mà nó đã bao gồmnhững giá trị văn hoá tinh thần rồi.Cũng trong ngôi nhà đó, con người chúng ta thực hiện những hànhvi ứngxử hàng ngày giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tậpthể... vậy thì những giá trị đó thuộc về văn hoá vật chất hay vănhoá tinh thần???Như vậy rõ ràng việc chia văn hoá ra thành hai hệ thống giá trị trênchưa bao quát được hết những gì có ở văn hoá. Những mối quan hệcủa cá nhân với cá nhân, cá nhân với gia đình - dòng tộc, cá nhânvới cộng đồng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng để hình thànhnhững giá trịvăn hoá. Như thế có nghĩa là, văn hoá còn bao gồm hệ9thống những giá trị quy định trong giao tiếp, đó là văn hoá xã hộihay gọi là văn hoá tổ chức quan hệ xã hội.Vấn đề đặt ra ở đây là, dân tộc Việt Nam chúng ta có lịch sử 4000nămvăn hiến theo cách nói dân gian nhưng cái gì làm nên bề dàyvăn hoáViệt chúng ta? Những giá trị văn hoá Việt Nam là gì?Khi nói đến châu Á thì đa số mọi người trên thế giới đều nghĩ ngayđến Trung Quốc với lịch sử vĩ đại hàng nghìn năm, một trongnhững nền văn hoá lớn của thế giới đã đem ảnh hưởng của mìnhđến với các nước lân cận cũng như trên toàn thế giới. Vì vậy cókhá nhiều người ngạc nhiên khi biết rằng Việt Nam, một nước nhỏbé ngay sát Trung Quốc và từng bị Trung Quốc đô hộ trong 1000năm lại có một hệ thống ngôn ngữ, chữ viết cũng như những phongtục tập quán… khác với Trung Quốc. Vậy đâu là cơ sở để tạo nênmột nền văn hoá Việt Nam với những bản sắc riêng của nó?Có khá nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá nhưng một cáchđơn giản tacó thể hiểu: văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểutượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thựctại ít nhiều đã bị cá nhân hay tộc người này mô hình hoá theo cáimô hình trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất cho mối quan hệnày, đó là văn hoá dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thànhmột sự lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựachọn của các cá nhân hay tộc người khác.Nói đến bản sắc văn hoá tức là ta nói đến cái mặt bất biến của vănhoátrong suốt quá trình phát triển của lịch sử. Đối với văn hoá ViệtNam thì chúng ta có thể nhận thấy một số đặc điểm riêng biệtchính như vềTổ quốc, gia đình - làng xã, thân phận, diện mạo.* Đối với con người Việt Nam thì Tổ quốc là lớn hơn tất cả. Chínhvìvậy mà sự tiếp thu các nền văn hoá khác, đặc biệt là văn hoáTrungQuốc, đều bị điều chỉnh qua cái lăng kính Tổ quốc đó.Người Việt Nam chỉ tiếp thu những cái cần thiết của văn hoá10Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền dân tộc chứ không bắt chước mộtcách máy móc.Đạo Lão với những quan điểm chống lại chính trị không tìm đượccho mình chỗ đứng ở Việt Nam. Đạo Nho được truyền vào ViệtNam và được lấy làm cơ sở cho thi cử, nhưng văn học chữ Hán củaViệt Nam từ đầu đến cuối đều là văn học yêu nước, của người dânđất Việt tự hào về truyền thống giữ gìn độc lập dân tộc.Ngay cả tôn giáo luôn có xu hướng phủ định chính trị, phủ định đấtnướcđể mở rộng tầm ảnh hưởng và độc chiếm tư tưởng của tín đồ,thì khi du nhập vào Việt Nam như đạo Phật, đạo Thiên chúa, hayđược sinh ra như đạo Cao Đài đều phải có thay đổi phù hợp để cóthể tồn tại được ở Việt Nam.Vì đất nước Việt Nam được hình thành dựa trên một biển cáccông xã tựquản, nên con người Việt Nam trước hết là con ngườicủa gia đình, củalàng xã. Chế độ quân chủ của Việt Nam ngày xưavì thế mà mang tính nướcđôi. Làng xã giúp chính quyền trungương trong việc quản lí, thu thuế,tuyển quân… nhưng nó cũng lạibảo vệ những con người sống trong đó. Nói như thế tưởng chừnglại có sự mâu thuẫn giữa lợi ích của gia đình, làngxã với lợi ích củađất nước. Nhưng không phải như vậy, truyền thống văn hoá ViệtNam không bao giờ xem quyền lợi gia đình đối lập lại với quyềnlợi Tổ quốc. Cũng chính vì thế mà các ông vua Việt Nam khôngthể làm cỏ cả một khu vực hay tập trung sức dân để xây đắp nhữngcông trình quy mô như vua chúa Trung Quốc và các nước ĐNAkhác.Ông vua Việt Nam chỉ có thể huy động sức dân mà dân vẫn theovào haiviệc vì nó liên quan trực tiếp đến đời sống người dân, đó là:chống giặc ngoại xâm và đắp đê điều. Do đó hai kiến trúc vĩ đạinhất của nềnvăn hoá Việt Nam chính là hệ thống đê điều và hệthống kênh mương.11* Trước khi bị Pháp xâm lược thì con người Việt Nam có một thânphận riêng, không phải ai muốn làm gì anh ta cũng được. Ngườidân hoàn toàn không bị lệ thuộc vào kinh tế hay chính trị của kẻmạnh.Người dân được che chở đặc biệt và đảm bảo sống yên ổn nếu nhưngười đó sống lương thiện và đạo đức. Nhìn sang châu Âu trướcphong trào dân tộcthì người nông nô, người nô lệ không có thânphận, người dân trong mộtcông quốc cũng không có thân phận vìhọ thuộc vào một công quốc nào đó là tuỳ vào ý thích của ông chủ.Khi các nước bị chia cắt với nhau nhưthế thì người dân chỉ biết đếnlãnh chúa của họ chứ họ không quan tâm tới thân phận riêng củahọ như là một người dân.Trung Quốc dưới thời kì quân chủ, người dân cũng không có thânphận khi vua chúa với sức mạnh của bạo lực quân sự có thể giếtsạch dân một vùng hay tru di tam tộc, cửu tộc một dòng họ nào đó.Do bắt chiếc Trung Quốc, thỉnh thoảng ở Việt Nam cũng cóchuyện tru ditam tộc hay giết người hàng loạt như nghi án vườn LệChi hay nghi ánHoa Lâm. Những nghi án này đều được viết lại,truyền lại với thái độ chê trách của những nhà viết sử và của nhândân.* Nếu như con người sinh ra đã có Tổ quốc và gia đình thì thânphận và diện mạo là thuộc tính xã hội cấp cho anh ta. Trong xã hộicổ xưa thì con người có thân phận nhưng hầu hết không có ý thứcvề diện mạo của mình. Ví dụ như người là chủ nô, người là nô lệđược xếp vào theo đẳng cấp của họ nhưng họ không có ý thức vềdiện mạo.Trong xã hội còn mang tính chất cổ xưa như người Êđê, Giarai ởTây Nguyên, hình phạt nặng nhất đối với con người để trừng trịkhông phải là cái chết. Vì họ quan niệm khi người đó chết đi thì sẽđầu thai trởlại bộ tộc của chính mình. Hình phạt nặng nhất đó là bị12đuổi ra khỏi cộng đồng, vì như vậy người đó mất đi thân phận củamình.Xã hội Trung Quốc cũng phân ra quân tử với tiểu nhân nhưng cũnglà theothân phận chứ không phải là theo diện mạo. Con người có ýthức về diện mạo mình nhất đó là các ẩn sĩ, các hoà thượng. Họtìm thấy giá trị cá nhân của họ trong một sự đối lập với tập tục, vàchấp nhận những thiệt thòi về mình để có được một niềm sungsướng mới: ý thức về diện mạo.Xã hội Việt Nam được xây dựng trên cơ sở là những làng xã, ýthức vềdiện mạo xuất hiện khi người dân cố gắng tách ra khỏi cộngđồng ở mộtmặt nào đó. Khi ở nông thôn có nhiều tổ chức khácnhau cùng tồn tại thìdiện mạo được hình thành trong cương vị đảmnhiệm ở từng tổ chức một.Một quy chế phổ biến ở các làng Việt Nam là phải góp một số tiềnlớn đểcử vào hội đồng hào mục của làng. Vì thế trong làng có cácchức sắc,các chức sắc này chỉ có giá trị trong nội bộ làng nhưng rấthấp dẫn đốivới dân làng. Các làng còn có tục khao vọng cho cácchức sắc mới. Khaovọng chỉ có mục đích khẳng định diện mạomới của con người ăn khao và từ nay mọi người phải đối xử vớianh ta theo diện mạo mới.Ta có thể nhận thấy qua các bộ sách từ xưa để lại, trong tâm thứccácnhà Nho trước đây các thành tố “Tổ quốc, gia đình – làng xã,thân phậnvà diện mạo” đều hiện diện rất rõ ràng. Nó thiếu các yếutố cơ bản của văn hoá thế giới hiện đại như: tính toàn nhân loại,tính duy lí, tự do cá nhân và sự quan tâm tới lợi ích vật chất.Các hoạt động thực tiễn, từ công tác tổ chức, từ việc làm, từphát huy dân chủ để tìm hiểu, phát hiện cái mới để đổi mới cáchnghĩ, cách làm với các giải pháp sát, đúng, hiệu quả thiết thực.,13đồng thời tham mưu, kiến nghị đề xuất có các cơ chế, chính sáchthích ứng nhằm phát huy sáng tạo cho sự phát triển kinh tế xã hội ởmức cao nhất. Cốt lõi ở chỗ là tạo được sự thống nhất, đảm bảotính khách quan, giữa lời nói và việc làm vì lợi ích chung, niềm tinvà sức mạnh đoàn kết từ đó hình thành, phát triển. Tất cả đềuhướng tới ý chí, hoài bão, dẫy lên phong trào đầu tư sản xuất, kinhdoanh, làm giàu chính đáng, tôn vinh gương người tốt, việc tốt, tônvinh quê hương, đất nước vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xãhội công bằng, dân chủ, văn minh". Đó là cơ sở tốt nhất để chúngta bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, dân tộc, thực hiện thắnglợi công cuộc đổi mới của Đảng trong sự nghiệp phát triển, chấnhưng đất nước. Với tinh thần làm giàu từ tri thức nhân loại đượcđúc kết, bằng bản lĩnh và cốt cách con người Việt Nam, từ bản sắcvăn hoá của con dân Đất Việt để vóc dáng Việt Nam của thế kỷ 21được tô thắm thêm trong trang sử 4000 năm Văn hiến vẻ vang.14

Tài liệu liên quan

  • Tìm hiểu hoạt động xây dựng nền Văn Hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trên địa bản tỉnh Nam Định Tìm hiểu hoạt động xây dựng nền Văn Hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trên địa bản tỉnh Nam Định
    • 25
    • 3
    • 11
  • Nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc Nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc
    • 10
    • 28
    • 314
  • Nền văn hóa việt nam đậm đà bản sắc dân tộc Nền văn hóa việt nam đậm đà bản sắc dân tộc
    • 18
    • 4
    • 10
  • Báo cáo khoa học: Về một nền văn hóa Sơn La tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc pptx Báo cáo khoa học: Về một nền văn hóa Sơn La tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc pptx
    • 3
    • 712
    • 0
  • tiếp tục xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nền tảng tinh thần, coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội tiếp tục xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nền tảng tinh thần, coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội
    • 48
    • 2
    • 1
  • Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc . ppt Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc . ppt
    • 6
    • 2
    • 18
  • Đề tài Đề tài "Nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc" ppt
    • 12
    • 4
    • 9
  • thảo luận đường lối HCM .vcu đề tài Vận dụng quan điểm phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng trong thời kì đổi mới trong việc xây dựng văn hoá thảo luận đường lối HCM .vcu đề tài Vận dụng quan điểm phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng trong thời kì đổi mới trong việc xây dựng văn hoá
    • 11
    • 962
    • 0
  • Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc từ năm 1986 đến năm 2001 Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc từ năm 1986 đến năm 2001
    • 84
    • 925
    • 2
  • ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA VIỆT NAM ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI MỚI ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA VIỆT NAM ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI MỚI
    • 15
    • 2
    • 12

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

(105.5 KB - 14 trang) - Em hiểu thế nào là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Tải bản đầy đủ ngay ×

Từ khóa » Em Hiểu Thế Nào Là Văn Hoá Dân Tộc