EQ | Smart Science Wikia - Wiki Index | | Fandom

EqImages

Chỉ số trí tuệ cảm xúc (EQ) là khả năng nhận biết, đánh giá và kiểm soát cảm xúc của bản thân cũng như thấu hiểu và chế ngự cảm xúc. EQ bắt đầu xuất hiện từ thập niên 80 của thế kỉ trước và dần trở nên phổ biến sau khi cuốn sách “Emotional Intelligence” của Daniel Goleman được xuất bản.Người có EQ cao có khả năng nhận biết, đánh giá và điều tiết cảm xúc của bản thân và mọi người rất tốt, do vậy thường trở thành những nhà lãnh đạo giỏi.

Trí thông minh cảm xúc hay gọi tắt là EI là khả năng nhận biết, đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính bạn, của những người xung quanh bạn và của các nhóm người. Và cũng giống chỉ số IQ, chỉ số cảm xúc EQ được đo thông qua các bài Test EQ – kiểm tra EQ.

Người ta thường nói “Với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn”. Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất. EQ thể hiện khả năng của một người hiểu rõ chính bản thân mình cũng như thấu hiểu người khác ít nhiều giống với khái niệm mà Gardner gọi là trí thông minh trong người và thông minh giữa người. Hơn thế, nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc. Người có EQ cao do vậy dễ thích nghi, luôn tìm được sự hòa hợp trong một tập thể, dễ dàng nhận được sự hợp tác hơn những “thiên tài đơn độc” (mà trong thời đại hiện nay, tính tập thể trong làm việc việc hết sức quan trọng).

EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới.

Các dạng test[]

Nhiều mô hình và định nghĩa về chỉ số EQ đã được đưa ra nhưng chỉ có mô hình cảm xúc Năng Lực (ability EI model) và mô hình cảm xúc Đặc Điểm (trait EI model) là được chấp nhận rộng rãi nhất trong những tài liệu khoa học. Vì thế các bài trắc nghiệm EQ cũng chủ yếu dựa trên 2 dạng này.

Mô hình EI Năng Lực thường được đo bằng việc sử dụng tối đa các bài Test EQ về hành vi, trong khi mô hình EI Đặc Điểm thường đánh giá chỉ số EI bằng việc sử dụng các bài Eq test với câu hỏi tự trả lời, do đó có mối liên hệ mật thiết với tính cách của bạn.

Một người sở hữu chỉ số EQ cao là một người luôn biết tự đánh giá bản thân, biết điểm mạnh, điểm yếu của chính mình và của người khác, có khả năng đồng cảm và thấu hiểu cảm xúc người khác. Luôn biết cách giữ được sự bình tĩnh và lạc quan trong cuộc sống ngay cả trong những thử thách khó khan nhất.

Qua đó, ta thấy được rằng, người có chỉ số EQ cao tự nhiên sẽ có đủ mọi tố chất để trở thành người lãnh đạo. Chính vì thế không có gì ngạc nhiên khi ngày nay bài Test EQ – trắc nghiệm EQ được đánh giá quan trọng không kém Test IQ.

Vấn đề là, người ta thường chỉ giỏi một trong hai. Hoặc Test EQ, hoặc Test IQ. Hiếm có người nào cùng lúc giỏi cả hai thứ, tuy nhiên nếu có, bạn sẽ cảm thấy rất thú vị với những gì người đó có thể làm đấy!

Test thử :

  • http://testiq.vn/test-eq.html
  • http://www.vietcv.net/2015/01/bai-test-chi-so-tri-tue-cam-xuc-eq/
  • http://viettelstudy.vn/trac-nghiem-EQ.html

Nguồn gốc[]

Nguồn gốc sâu xa nhất của trí tuệ cảm xúc có thể truy ngược về việc Darwin nghiên cứu về tầm quan trọng của sự diễn đạt cảm xúc của các cá thể trong quá trình chọn lọc tự nhiên và các thay đổi thích nghi Vào những năm 1900, mặc dù các định nghĩa truyền thống về trí tuệ nhấn mạnh tới yếu tố nhận thức như là trí nhớ và khả năng giải quyết vấn đề, nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng trong lĩnh vực trí nghiên cứu trí tuệ đã bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của khía cạnh "ngoài nhận thức" (non-cognitive). Ví dụ như ngay từ những năm 1920, E. L. Thorndike, đã sử dụng khái niệm "hiểu biết xã hội" để miêu tả kỹ năng hiểu và quản lý người khác.

Tương tự, năm 1940 David Wechsler đã miêu tả ảnh hưởng của yếu tố không hiểu biết tới các ứng xử thông minh, và chứng tỏ xa hơn rằng các mô hình của chúng ta về sự thông minh vẫn chưa hoàn thiện cho tới khi chúng ta có thể miêu tả thích đáng các yếu tố này. Năm 1983, trong cuốn Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences (Những cơ cấu của nhận thức: Lý thuyết về thông minh bội) [4] của Howard Gardner đã giới thiệu về ý tưởng về những thông minh bội mà trong đó bao gồm "Trí tuệ giữa các cá nhân" (khả năng hiểu những ý định, động cơ và mong muốn của người khác) và "Trí tuệ trong cá nhân" (khả năng hiểu ai đó, tán đồng cảm nhận của người đó, cảm giác sợ hãi và động cơ thúc đẩy). Trong quan sát của Gardner, các kiểu trí tuệ truyền thống như IQ, không thể giải thích một cách đầy đủ khả năng nhận thức của con người. Vì vậy thậm chí với những tên cho trước đến những khái niệm biến đổi, đều có một tin tưởng chung rằng những định nghĩa truyền thống về trí tuệ đang thiếu khả năng giải thích những kết quả trước đó.

Wayne Payne là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Trí tuệ xúc cảm (TTXC) trong luận văn tiến sĩ của anh: "Nghiên cứu về xúc cảm: Phát triển trí tuệ xúc cảm" vào năm 1985.Tuy nhiên, thuật ngữ gần tương tự đã xuất hiện trước đó Leuner (1966). Greenspan (1989) cũng đồng thời đề xuất mô hình TTXC này năm 1985, nối tiếp bởi Salovey và Mayer (1990), và Goleman (1995).

Từ khóa » Eq Là Gì Wikipedia