Ethiopia – Wikipedia Tiếng Việt

Bài chi tiết: Lịch sử Ethiopia

Cổ đại

sửa

Cuối thế kỷ I TCN, trên bờ Hồng Hải châu Phi xuất hiện vương quốc Aksum của dân tộc Sabae (tiếng Do Thái cổ là Sheba). Quốc gia do dòng họ Solomon cai quản, họ gọi mình là dòng dõi trực tiếp của thánh đế Solomon và hoàng hậu Saba (Sheba). Kitô giáo trở thành giáo hội quốc gia của vương quốc Aksum vào thế kỷ thứ IV dưới thời vua 'Ezana, khiến đây là nơi thứ 3 trên thế giới công nhận Kitô giáo là quốc giáo, sau Armenia và Gruzia. Từ thế kỷ VII, vương quốc dần dần mất đi sự hùng mạnh và ảnh hưởng của mình, đồng thời mất cả lãnh thổ.

Đầu thế kỷ X, dòng họ Solomon bị triều đại Zagve lật đổ, đó là những người cai quản vùng Lasta cũng trên cao nguyên Ethiopia. Khoảng năm 1260, dòng họ Solomon giành được quyền lực trên phần lớn Ethiopia, nhưng các tín đồ Hồi giáo vẫn kiểm soát vùng bờ biển và miền đông nam. Trong thời gian thống trị của Zara Jacob (năm 1434 – 1468) việc quản lý giáo hội Ethiopia được cải tổ. Lúc đó đã xuất hiện hệ thống chính trị đặc trưng cho quyền lực của tuyệt đối của quốc vương, những nét căn bản của hệ thống này được gìn giữ cho đến giữa thế kỷ 20.

Khi những tín đồ Hồi giáo Harera xâm nhập vào Ethiopia (năm 1527), hoàng đế, giờ đây các nhà cầm quyền bắt đầu gọi như vậy, cầu cứu những người Tây Ban Nha. Nhờ sự giúp đỡ của họ, Ethiopia giành được quyền chiến thắng vào năm 1542, sự cố gắng của nhà truyền giáo dòng Tên định hướng hoàng đế theo Công giáo Rôma đã không thành công.

Vài thế kỷ tiếp theo (thế kỷ 17 – 19), được đánh dấu là những thời kỳ thịnh vượng của nền văn hóa dân tộc. Trong đó, những truyền thống Hồi giáo và Kitô giáo kết hợp một cách đáng ngạc nhiên. Có những thời kỳ dài bất ổn định và phân tán, trong những năm nặng nề này, giáo hội là sức mạnh liên kết chủ yếu.

Thời kỳ đế quốc (1855–1916)

sửa

Trong những năm 1870 của thế kỷ 19, kẻ thù chính của đế quốc (lúc này là các nhóm quốc gia bán độc lập) là Ai Cập. Năm 1875 Ai Cập và những tín đồ Hồi giáo Harera cùng tấn công Ethiopia từ phía bắc và phía đông. Cuộc tấn công bị chặn lại nhưng Ai Cập vẫn tiếp tục chiếm đóng các cảng ở Hồng Hải và ở Somalia, gây khó khăn trong việc cung cấp cho quân đội Ethiopia và cả dân thường. Năm 1898 hoàng đế Joan IV mất trong một cuộc xung đột quân sự với Sudan. Hoàng đế mới là Menelic đã sáp nhập vào Ethiopia những lãnh thổ mới và thành lập thủ đô mới Addis Ababa.

Cùng với sự khai mở kênh đào Suez, năm 1869 các thủ lĩnh châu Âu chú ý đến bờ dải Hồng Hải. Năm 1872, Ý chiếm cảng Aseb và năm 1885 chiếm Massau. Năm 1895, giữa Ý và Ethiopia nổ ra cuộc chiến tranh, kết cuộc là Ý thất bại vào năm sau ở Adua.

Vương triều Selassie (1916–1974)

sửa
 
Hoàng đế Haile Selassie

Năm 1930, Tafari Maconnen lên ngôi, tuyên bố mình là hoàng đế Haile Selassie I. Đồng thời phát xít Ý chuẩn bị cuộc xâm lược mới. Ông đã tiến hành hiện đại hóa Ethiopia từ năm 1916, từ thời Zewditu nắm quyền và sau này khi đã trở thành nhà lãnh đạo trên thực tế của đế quốc Ethiopia. Sau cái chết của Zewditu, ông đã được lên ngôi Hoàng đế ngày 2 tháng 11 năm 1930.

Sự độc lập của Ethiopia bị gián đoạn bởi Chiến tranh Ý - Abyssinian lần thứ hai và sự xâm lược của Ý (1936-1941).[32] Trong thời gian này, Haile Selassie kêu gọi Liên Hợp Quốc hỗ trợ mình vào năm 1935. Sau khi Ý tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ hai, các lực lượng của Đế quốc Anh, cùng với những người yêu nước Ethiopia, đã chính thức giải phóng Ethiopia trong chiến dịch Đông Phi năm 1941. Một chiến dịch du kích Ý vẫn tiếp tục cho đến năm 1943. Tiếp theo đó là sự công nhận đầy đủ chủ quyền của Anh đối với Ethiopia (tức là không có bất kỳ ưu đãi đặc biệt của Anh), với việc ký kết Hiệp định Anh-Ethiopia vào tháng 12 năm 1944.[33] Ngày 26 tháng 8 năm 1942, Haile Selassie đã đưa ra một tuyên bố bãi bỏ chế độ nô lệ ở nước này.[34] Ethiopia có từ hai đến bốn triệu người nô lệ trong những năm đầu thế kỷ 20, trong tổng dân số khoảng mười một triệu.[35]

Ngày 24 tháng 10 năm 1945, Ethiopia trở thành một thành viên sáng lập của Liên Hợp Quốc. Năm 1952, Ethiopia thành lập một liên bang với Eritrea. Năm 1962, Hoàng đế Haile Selassie giải tán liên bang và sáp nhập Eritrea vào Ethiopia, châm ngòi Chiến tranh giành độc lập Eritrea.[36] Haile Selassie cũng đóng vai trò chính trong việc thành lập Tổ chức châu Phi Thống nhất.[37] Sau khủng hoảng dầu mỏ 1973, giá xăng dầu tại Ethiopia tăng mạnh từ ngày 13 tháng 2 năm 1974, dẫn tới các cuộc biểu tình của sinh viên và công nhân.[38] Nội các của Aklilu Habte-Wold đổ và Endelkachew Makonnen được bổ nhiệm làm thủ tướng mới.[39]

Thời kì Derg (1974–1991)

sửa
 
Mengistu Haile Mariam bị kết án tử hình vắng mặt vì những tội ác của ông trong thời gian cầm quyền.

Ngày 12 tháng 9 năm 1974, Haile Selassie bị một ủy ban gồm các sĩ quan quân đội, cảnh sát tên là Derg lật đổ trong một cuộc đảo chính.[40] Sau khi hành quyết 60 quan chức, sĩ quan quân đội,[41] Hội đồng hành chính quân sự lâm thời phế bỏ chế độ quân chủ vào tháng 3 năm 1975 và thành lập một nhà nước cộng sản.[42] Chế độ mới tiến hành chính sách bãi bỏ phong kiến, phổ cập giáo dục, quốc hữu hóa nền kinh tế và cải cách ruộng đất, bao gồm tái định cử và nông thôn hóa dân cư từ Cao nguyên Ethiopia.[43]

Hội đồng Quân sự Hành chính Lâm thời công bố bản "Hiến pháp", theo đó Ethiopia theo chủ nghĩa xã hội và thời kì 1974 đến 1987, thế giới quen gọi Ethiopia là nước Ethiopia xã hội chủ nghĩa. Năm 1987, Ethiopia đổi tên là Cộng hòa Dân chủ nhân dân Ethiopia và thay đổi về hệ thống chính trị với cương vị lãnh đạo nhà nước là Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Ethiopia nhưng cương vị này đến khi bị bãi bỏ vẫn do Nguyên Chủ tịch Hội đồng Quân chính lâm thời nắm giữ.

Về một số chính sách của Ban lãnh đạo Nhà nước đã xây dựng những trại định cư cho nhân dân ở những nơi có nguồn nước và đặc biệt hơn cả là chống lại sự xâm lược của quân Somalia. Nhưng những vấn đề về nông nghiệp vẫn không được Nhà nước chú ý và quan tâm đúng mức. Từ năm 1983 đến 1985, ở Ethiopia đã xảy ra nạn đói làm khoảng 1 triệu người chết.

Trong Cách mạng 1989, các nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Năm 1990, Liên Xô ngừng viện trợ cho Ethiopia.[44][45][46] Mặt trận Dân chủ Cách mạng Nhân dân Ethiopia tiến vào Addis Ababa vào tháng 5 năm 1991. Mengistu trốn ra nước ngoài và được cho tị nạn tại Zimbabwe.[47][48]

Cộng hòa Dân chủ Liên bang (1991 – hiện tại)

sửa
 
Tình hình Nội chiến Ethiopia tính đến tháng 9 năm 2023[a]

Tháng 7 năm 1991, Mặt trận Dân chủ Cách mạng Nhân dân Ethiopia triệu tập Hội nghị toàn quốc để thành lập Chính phủ lâm thời Ethiopia và ban hành hiến pháp lâm thời. Cơ quan chính của Chính phủ lâm thời là Hội đồng Đại biểu gồm 87 thành viên.[49] Năm 1994, hiến pháp mới được ban hành, thành lập nhà nước Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ethiopia với thể chế cộng hòa đại nghị.[50]

Tháng 4 năm 1993, Eritrea giành độc lập từ Ethiopia sau một cuộc trưng cầu ý dân toàn quốc.[51] Xung đột biên giới giữa Eritrea và Ethiopia châm ngòi Chiến tranh Eritrea–Ethiopia vào tháng 5 năm 1998. Chiến sự kéo dài đến tháng 6 năm 2000 và gây thiệt hại ước tính một triệu đô la Mỹ mỗi ngày cho cả hai nước,[52] tác động tiêu cực đến nền kinh tế Ethiopia. Xung đột biên giới giữa hai nước chấm dứt vào năm 2018.[53][54]

Xung đột sắc tộc gia tăng vào cuối thập niên 2010 và đầu thập niên 2020,[55][56] buộc hàng triệu người Ethiopia phải di tản.[57][58][59] Năm 2020, chính quyền liên bang quyết định dời lại cuộc tổng tuyển cử đến năm 2021 vì đại dịch COVID-19.[60] Tuy nhiên, Mặt trận Giải phóng Nhân dân Tigray tại Vùng Tigray phản đối quyết định này và tự tổ chức bầu cử vào ngày 9 tháng 9 năm 2020.[61][62] Quan hệ giữa chính quyền liên bang và Tigray xấu đi nhanh chóng.[63] Tháng 11 năm 2020, chính quyền liên bang tiến hành một chiến dịch tại Tigray nhằm đáp trả các cuộc tấn công đơn vị quân đội đóng tại khu vực. châm ngòi Chiến tranh Tigray.[64][65] Tính đến tháng 3 năm 2022, 500.000 người đã thiệt mạng vì bạo lực và đói kém.[66][67][68] Sau nhiều nỗ lực hòa giải, hòa đàm, chính quyền liên bang và phiến quân Tigray đạt được một thỏa thuận đình chỉ chiến sự vào ngày 2 tháng 11 năm 2022.[69] Sau đó, quan hệ giữa chính quyền liên bang và đồng minh là dân quân Fano xấu đi vào giữa năm 2023, dẫn tới Chiến tranh Amhara. Theo báo cáo của Ủy ban Nhân quyền Ethiopia, Lực lượng Quốc phòng Ethiopia đã vi phạm nhân quyền trên diện rộng tại Amhara, bao gồm khám xét từng nhà, hành quyết, thảm sát và giam giữ trái luật. Đầu năm 2024, 50 đến 100 người tại thị trấn Merawi ở Amhara bị thảm sát.[70][71]

Từ khóa » Bản đồ Nước Ethiopia