Giá Trị Khoa Học Làm Nên Sức Sống Trường Tồn Của Triết Học Mác
Có thể bạn quan tâm
Vượt lên trên và thể hiện sự khác hẳn về chất so với các học thuyết triết học trong lịch sử, triết học Mác - Lênin đã chứng minh giá trị khoa học và cách mạng của mình trước sự kiểm nghiệm nghiêm ngặt của thực tiễn. Nó không những không mất đi như “mong muốn” và sự áp đặt của những người hoài nghi và những kẻ thù chủ nghĩa Mác. Trái lại, triết học Mác - Lênin ngày càng “thâm nhập sâu vào quần chúng”, chuyển hóa thành lực lượng vật chất to lớn và thể hiện sức sống mãnh liệt với hoạt động nhận thức, cải tạo thế giới của con người, nhất là với giai cấp công nhân trong tiến trình cải tạo xã hội để đi đến một xã hội không giai cấp - xã hội xã hội chủ nghĩa - xã hội tiến bộ đỉnh cao trong tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của nhân loại.
Triết học Mác - Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin, do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX; được V.I.Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện lịch sử mới. Ngay sau khi ra đời và trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh, nó đã trực tiếp đi vào đời sống xã hội, lan truyền nhanh chóng từ các quốc gia thuộc châu Âu rồi sang toàn thế giới; trở thành vũ khí lý luận sắc bén, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng cho giai cấp công nhân trong công cuộc thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình - cải tạo một cách toàn diện các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội; xóa bỏ triệt để mọi áp bức, bóc lột, bất công để xây dựng chế độ xã hội mới, tốt đẹp - xã hội Xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa. Sự trường tồn của triết học Mác - Lênin cũng chính bởi giá trị khoa học, cách mạng và hết sức nhân văn ấy. Nó không chỉ là công cụ để “nhận thức thế giới”; mà quan trọng hơn là hướng vào “cải tạo thế giới”, được biểu hiện trên những nội dung cơ bản:
Thứ nhất, trên cơ sở kế thừa một cách chọn lọc và có phê phán những thành tựu của tư duy tư tưởng triết học nhân loại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã sáng tạo nên một hệ thống triết học mới hoàn toàn về chất; có tính hoàn bị và triệt để nhất. Trong đó, đã thể hiện sự thống nhất cao giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng; giữa quan niệm duy vật về tự nhiên với quan niệm duy vật về đời sống xã hội; giữa việc giải thích hiện thực về mặt triết học với cung cấp phương pháp luận khoa học cho giai cấp công nhân và chính đảng cuả nó trong cuộc đấu tranh cải tạo hiện thực xã hội. Trước khi triết học Mác - Lênin xuất hiện, các học thuyết triết học cũng đã chứa đựng không ít những luận điểm thể hiện tinh thần biện chứng. Song, do hạn chế của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan nhất định, nên chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng không có sự liên kết chặt chẽ, mà trái lại luôn tách rời nhau. Theo Mác: “khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc - là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, của thực tiễn” [2, tr.232].
Khắc phục những nhược điểm của chủ nghĩa duy vật trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật triết học chân chính khoa học bằng cách xuất phát từ con người hiện thực - con người hoạt động thực tiễn mà trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất và thực tiễn đấu tranh chính trị - xã hội. Nói cách khác, chủ nghĩa duy vật cũ là chủ nghĩa duy vật bị “cầm tù” trong cách nhìn chật hẹp, phiến diện của phép siêu hình và duy tâm về xã hội. Trong khi đó, phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ duy tâm thần bí của một số đại biểu triết học cổ điển Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra cơ sở duy tâm của triết học Hêghen, vạch ra mâu thuẫn chủ yếu giữa hệ thống triết học bảo thủ, giáo điều với phương pháp biện chứng, cách mạng. Nếu như ở hệ thống triết học của Hêghen đã coi thường nội dung đời sống thực tế và xuyên tạc bức tranh khoa học hiện thực; phép biện chứng duy tâm của Hêghen đã bất lực trước sự phân tích thực tiễn, phân tích sự phát triển của nền sản xuất vật chất và đặc biệt là bất lực trước sự phân tích các sự kiện chính trị. Trái lại, bằng việc kết hợp một cách tài tình giữa việc giải phóng chủ nghĩa duy vật khỏi tính chất trực quan, máy móc siêu hình và giải phóng phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí, các nhà kinh điển triết học Mác - Lênin lần đầu tiên trong lịch sử đã sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội và mở rộng vào nghiên cứu một lĩnh vực đặc thù của thế giới vật chất là sự tồn tại có hoạt động của con người, tồn tại trong sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Từ đó, đã “làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học” [5, tr.49-50].
Thứ hai, triết học Mác - Lênin giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn; đồng thời luôn thể hiện tính mở, tính phát triển trong toàn hệ thống lý luận. triết học Mác - Lênin là hệ thống lý luận lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại xác định đúng đắn vị trí, vai trò của thực tiễn, coi thực tiễn là “tính thứ nhất”, lấy thực tiễn làm điểm xuất phát và là mục đích của mọi lý luận. Từ đó, làm cho Triết học luôn phản ánh được “hơi thở của thực tiễn”; đồng thời đã khám phá ra bản chất, vai trò của thực tiễn; thực hiện gắn bó một cách hữu cơ giữa quá trình phát triển lí luận với thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động. Coi việc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là vấn đề có tính nguyên tắc trong mọi luận điểm đề xuất. Chính điều này đã làm cho vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của nó trong hệ thống tri thức khoa học của nhân loại có sự biến đổi rất căn bản. Giờ đây, triết học không chỉ có chức năng giải thích thế giới, mà luôn đặt mục tiêu là ngọn nến soi đường, dẫn dắt, hướng vào cải tạo thế giới bằng bởi “phương pháp luận” khoa học, biện chứng và cách mạng. Như lời khẳng định của C.Mác: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới” [2, tr.53].
Cùng với việc giải quyết một cách thuyết phục những “đòi hỏi của lịch sử” trong xã hội đương thời mà Mác, Ăngghen, Lênin cống hiến, sáng tạo thì sức sống của triết học Mác - Lênin còn được quy định sâu sắc ở tính mở, tính phát triển trong toàn hệ thống. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ xem hệ thống lý luận của mình là “nhất thành bất biến, đóng khung và tuyệt đích”; trái lại, các ông luôn hiểu rõ “là sản phẩm của thời đại của mình”, chịu sự quy định của bối cảnh đương thời nên không thể khái quát, dự báo toàn diện khi thời cuộc thay đổi. Ph.Ăngghen khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc” [4, tr.796]. Tính mở và tính phát triển của triết học Mác - Lênin được thể hiện ở chỗ luôn hướng về thực tiễn - xã hội và lịch sử (phát triển sản xuất, cải tạo xã hội, phát triển khoa học - công nghệ,...), hướng về thời đại, về tương lai, chứ tuyệt nhiên không phải là thứ lý luận khép kín kiểu thư phòng và kinh viện. V.I.Lênin từng nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm” [5, tr.593]. Triết học Mác - Lênin luôn hướng vào giải quyết những vấn đề cơ bản và thiết thực do thực tiễn đặt ra, đồng thời nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận và dự báo tương lai. Hệ thống ấy vì thế mà có khả năng hấp thụ “sinh khí thực tiễn”, được thực tiễn lịch sử “phản biện”, kiểm nghiệm, chứng minh, làm giàu để luôn “tự đổi mới và không ngừng phát triển”; vươn lên tầm cao mới, phù hợp với bối cảnh, điều kiện thực tiễn mới.
Thứ ba, triết học Mác - Lênin thực sự đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và tính khoa học. Với thế giới quan và phương pháp luận khoa học, Triết học Mác - Lênin giữ vai trò là ngọn đuốc sáng cho con người đi trong đêm tối, hướng vào cải tạo hiện thực mọi mặt đời sống xã hội của con người. Đồng thời, do gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản - giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất trong xã hội hiện đại, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và sự phát triển xã hội nên khác hẳn với mọi học thuyết triết học trong lịch sử, triết học Mác - Lênin luôn công khai tính đảng, thấy được nguồn sức mạnh vật chất của xã hội và biến triết học của mình thành vũ khí tinh thần của lực lượng vật chất ấy - Giai cấp vô sản với tinh thần: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình” [1, tr.12].
Bên cạnh việc công khai tính đảng, triết học Mác - Lênin ra đời với tính khoa học triệt để đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học muốn biến triết học thành “khoa học của mọi khoa học”, đứng trên mọi khoa học. Các nhà kinh điển của triết học Mác - Lênin đã xác lập đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với khoa học cụ thể. Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng: “dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó” [3, tr.796]. Trên thực tế, Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng lí luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng, mỗi lần có phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi cả nội dung và hình thức biểu hiện của nó. Ở chiều hướng ngược lại, triết học Mác - Lênin ra đời đã cung cấp thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung, cần thiết cho sự phát triển của các ngành khoa học cụ thể./.
Tài liệu tham khảo
- C.Mác và Ph.Ăngghentoàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
- C.Mác và Ph.Ăngghentoàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- C.Mác và Ph.Ăngghentoàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- V.I.Lênin toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- V.I.Lênin toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Từ khóa » Thuyết Khả Tri Duy Vật Là Gì
-
Thuyết Bất Khả Tri – Wikipedia Tiếng Việt
-
Thuyết Không Thể Biết (bất Khả Tri) - Cửu Dương Thần Công . Com
-
[PDF] Bài Giảng Triết Học Mác - Lênin
-
Thuyết Bất Khả Tri Là Gì? Quan Niệm Về Thuyết Bất Khả Tri?
-
Những Nguyên Lý Cơ Bản Chủ Nghĩa Mác-Lênin - Luận Văn
-
Quan điểm Của Thuyết Khả Tri Về Mặt Thứ Hai Của Vấn đề Cơ Bản Của ...
-
Thuyết Bất Khả Tri Là Gì | Triết Học+
-
Thuyết Khả Tri Và Thuyết Bất Khả Tri - YouTube
-
ĐỀ CƯƠNG CHUYÊN ĐỀ 1 – CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
-
Thuyết Bất Khả Tri Là Gì?
-
Quan điểm Của VI Lênin Về Vật Chất Trong Tác Phẩm “chủ Nghĩa Duy ...
-
[PDF] Vật Chất Là Một Phạm Trù Nền Tảng Của Chủ Nghĩa Duy Vật Triết
-
Về Vấn đề Tính Khoa Học Của Triết Học, Một Hình Thái ý Thức Xã Hội
-
Giá Trị Bền Vững Và ý Nghĩa Thời đại Của Chủ Nghĩa Mác - Lênin