Giai Tầng Xã Hội Dựa Trên Thu Nhập ở Việt Nam - PHÂN TÍCH KINH TẾ

GIAI TẦNG XÃ HỘI DỰA TRÊN THU NHẬP Ở VIỆT NAM, 1998-2018

Bùi Thế Cường[*]

Trương Sĩ Ánh[**]

Bùi Thế Cường
Trương Sĩ Ánh
Tóm tắt: Dựa trên số liệu khảo sát mức sống dân cư Tổng cục Thống kê thực hiện trong hai thập niên qua, bài viết phân tích cơ cấu giai tầng xã hội dựa trên thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 1998-2018. Hệ số chênh lệch thu nhập giữa các giai tầng xã hội ngày càng tăng trong giai đoạn này. Mức chênh lệch đặc biệt rõ ở tầng lớp trung lưu trên và giai tầng trên. Mức chênh lệch thay đổi chậm trong thập niên 2000, nhưng nhanh hơn trong thập niên 2010. Có tiến hóa đáng kể về hình dạng phân tầng hai thập niên qua. Năm 1998 cơ cấu giai tầng còn ở dạng tháp, nhưng 2018 trở nên dạng thoi. Cơ cấu giai tầng ở nông thôn tiến hóa chậm hơn khoảng mười năm, nhưng trong thập niên 2010 đã chuyển biến mang tính bước ngoặt.

Từ khóa: cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, giai tầng xã hội, giai cấp xã hội, Việt Nam, khảo sát mức sống dân cư.

1. Mở đầu

Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội là lĩnh vực nghiên cứu được quan tâm ở Việt Nam từ nhiều thập niên (Bùi Thế Cường, 2015c, 2016, 2019b). Trong hướng này, nhiều tác giả xây dựng sơ đồ phân loại giai cấp và/hoặc tầng lớp xã hội, để nhận diện bộ khung lõi của cơ cấu xã hội.

Bài viết đề xuất một khung phân loại giai tầng xã hội dựa trên thu nhập, dùng nó xử lý dữ liệu ba cuộc khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê, để nhận diện cơ cấu giai tầng xã hội ở Việt Nam giai đoạn 1998-2018. Bài viết là sản phẩm của Đề tài “Cơ cấu giai tầng xã hội vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2010-2020” do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phê duyệt và tài trợ.

Bài viết năm phần. Sau mở đầu, phần hai thảo luận khái niệm, tình hình nghiên cứu và khung phân tích. Phần ba đề cập phương pháp và nguồn số liệu. Phần bốn trình bày kết quả phân tích. Phần cuối tóm tắt kết quả chính.

2. Tình hình nghiên cứu và khung phân tích

Heinz-Herbert Noll (1949-)

Giai cấp xã hội hay giai tầng xã hội, tầng xã hội hay phạm trù xã hội hay nhóm xã hội? Đây là chuyện thuyết dài trong lịch sử xã hội học thế giới, Việt Nam không ngoại lệ. Tùy tác giả, quốc gia và thời đại, những thuật ngữ trên hoặc được coi có tính chất khác hẳn nhau hoặc ngược lại được chấp nhận thay thế nhau dễ dàng. Chẳng hạn, theo Heinz-Herbert Noll (1997:105): “Trong văn liệu Mỹ, khái niệm “giai cấp” [class] và “giai tầng” [strata] thường sử dụng như nhau. Trong khi ở Đức có khác biệt rõ ràng giữa “giai cấp” [Klassen] và “giai tầng” [Schichten] cả trong xã hội học lẫn đời thường. Nhìn chung, người ta cho rằng thuật ngữ “Schicht” có nghĩa trung tính hơn, thậm chí nghĩa khẳng định hơn, so với thuật ngữ “Klasse” liên hệ đến quan điểm có tính phê phán hơn, một quan điểm nhấn mạnh vào xung đột của xã hội. Trong đời thường cũng thế, ý tưởng của thuật ngữ “class” thường đi liền với xuất xứ và nghĩa mang tính Marxist”[1]. Tương tự, ở Anh thuật ngữ “giai cấp” [class] cũng dùng và hiểu đa nghĩa cả trong văn bản chính thức, học thuật lẫn đời thường. Một mặt, nhiều người dùng và hiểu theo nghĩa gần với quan điểm marxist hay quan điểm xung đột giai cấp. Mặt khác, cũng nhiều người dùng theo nghĩa không có gì khác nhau và do đó có thể thay thế nhau giữa các thuật ngữ “classes” (như là sự phân lớp, kết quả của hành động “classification”), “grades”, “gradings”, “socio-economic groups”.

Trong bài viết này, nhóm tác giả dùng “giai tầng xã hội” như một khái niệm làm việc để phân tích thống kê, tạm gác sang bên khía cạnh lý thuyết của vấn đề. “Giai tầng xã hội” tạm hiểu là một lối kết hợp ý nghĩa của “giai cấp” và “tầng lớp xã hội”.

Nói về nghiên cứu phân tầng xã hội dù chỉ ở Việt Nam đương đại thôi, cũng cần nhiều trang viết. Ở đây, chỉ đề cập sơ lược và tập trung hơn vào hướng phân loại giai tầng theo thu nhập hay chi tiêu, hướng mà bài viết sẽ đi theo trong khung phân tích của mình.

Ở Việt Nam sau 1975 đến nay liên tục xuất hiện cố gắng đưa ra những phân loại lý thuyết hay thực nghiệm đối với cơ cấu xã hội. Thập niên 1980, một số tác giả phân loại dựa trên tiếp cận marxist, dùng tiêu chí quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, như Hồng Giao, Thanh-Giang, Trần Hữu Quang, Lê Minh Ngọc, Đỗ Thái Đồng (một tổng quan về các tác giả này trong thập niên 1980, xem: Bùi Thế Cường, 2019b). Sang những thập niên sau, một số tác giả mở rộng khung phân tích, kết hợp quan hệ sở hữu và tiêu chí nghề (Đỗ Nguyên Phương, 1993, 1994; Tạ Ngọc Tấn, 2013).

Đỗ Thiên Kính

Trần Hữu Quang
Một số tác giả khác phân loại dựa trên nghề (Đỗ Thiên Kính, 2012, 2015, 2018; Bùi Thế Cường và Lê Thanh Sang, 2010; Lê Thanh Sang và Nguyễn Thị Minh Châu, 2013; Bui, 2015a; Bùi Thế Cường và Phạm Thị Dung, 2016; Bùi Thế Cường, 2017; Bùi Thế Cường và Vũ Mạnh Lợi, 2017a, 2017b).

Bên cạnh đó, có hướng phân loại dựa trên mức sống (thu nhập hoặc chi tiêu). Thập niên 1980 có Phạm Văn Phú, Tô Duy Hợp, Chu Hữu Quý (xem Bùi Thế Cường, 2019b). Đầu thập niên 1990, Trịnh Duy Luân (1992) dùng mức sống để phân tầng xã hội ở Hà Nội. Nhiều công trình của Đỗ Thiên Kính nửa cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000 sử dụng mức sống để phân tầng xã hội (1995a, 1995b, 1995c, 1996, 1999, 2000, 2003). Lưu Hồng Minh (2001) phân tầng xã hội theo mức sống, áp dụng cho số liệu Đồng bằng sông Hồng.

Tiến hành Khảo sát Mức sống Dân cư (VLSS) đầu tiên ở Việt Nam năm 1992-1993, Ngân hàng Thế giới giới thiệu (có lẽ lần đầu tiên ở Việt Nam) cách xử lý dữ liệu theo phân loại ngũ vị phân [quintile] thu nhập hay chi tiêu (Ngân hàng Thế giới, 1995). Kể từ đó đến cuối thập niên 2000, Ngân hàng Thế giới thường xuyên dùng phân loại ngũ vị phân làm công cụ chính để xem xét mức độ và xu hướng phân tầng xã hội ở Việt Nam (World Bank, 1999, 2003, 2007). Còn Tổng cục Thống kê dùng làm kỹ thuật phân loại chính trong mọi báo cáo về khảo sát mức sống dân cư cho đến nay (Tổng cục Thống kê, 1994, 1999, 2000, 2004, 2006, 2007, 2010, 2011, 2012, 2016). Theo sau khởi đầu ấy của Ngân hàng Thế giới, nhiều tác giả cũng dùng ngũ vị phân làm khung phân tích, chẳng hạn Đỗ Thiên Kính (2003), Lê Hữu Nghĩa và cộng sự (2010), Lê Văn Toàn (2012), Nguyen Tran Lam và Nguyen Viet Cuong (2017).

Khi Việt Nam thoát khỏi nhóm nước nghèo bước lên nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp, để khảo cứu những chuyển biến cập nhật của Việt Nam, Ngân hàng Thế giới dùng hai phân loại mới. Trong “Việt Nam 2035 Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng, và dân chủ” (World Bank Group and Vietnam Ministry of Planning and Investment, 2016: 302)[2], Ngân hàng Thế giới dùng bảng phân tích bốn giai cấp: trung lưu thế giới (chi tiêu >15 USD/người/ngày theo sức mua tương đương PPP), người tiêu dùng mới nổi (5,5-15 USD/người/ngày), người cận nghèo (3,1-5,5 USD/người/ngày), và người nghèo thế giới (<3,1 USD/người/ngày). Trong Báo cáo phát triển Việt Nam 2019, Ngân hàng Thế giới (2020:53) dùng khung “năm giai cấp kinh tế” dựa trên thu nhập theo sức mua tương đương PPP: người nghèo cùng cực, mức sống dưới 1,90 dollar/người/ngày; người nghèo vừa phải, mức tiêu dùng dao động từ 1,90 đến 3,20 dollar/người/ngày; người dễ bị tổn thương kinh tế, tiêu dùng 3,20-5,50 dollar/người/ngày; nhóm an toàn về kinh tế, tiêu dùng 5,50-15 dollar/người/ngày; giai cấp trung lưu toàn cầu, mức sống hơn 15 dollar/người/ngày. Ít dùng ngũ vị phân hơn cho các báo cáo về Việt Nam sau khi “nâng cấp” nước này trên thang phân loại các quốc gia theo thu nhập, có lẽ Ngân hàng Thế giới muốn gợi ý bên cạnh kỹ thuật ngũ vị phân đã đến lúc cần chú ý đến những phân loại thu nhập khác, mang tính xã hội học hơn so với lối chia đều dân cư thành năm nhóm bằng nhau trong kỹ thuật ngũ vị phân.

Tổng quan sơ lược trên cho thấy phân loại giai tầng xã hội dựa trên thu nhập là một trong nhiều kiểu phân loại, dùng khá phổ biến và luôn có ý nghĩa nhất định trong nhận thức xã hội học và chính sách công.

Tan Ern Ser

Bài viết của chúng tôi cũng dựa trên tiếp cận phân loại xã hội theo thu nhập nhưng không theo thang ngũ vị phân mà tham khảo công trình của Tan Ern Ser (2015) về phân tầng xã hội ở Singapore và hướng phân loại giai cấp mới của Ngân hàng Thế giới nói ở trên. Dựa vào 14 phạm trù thu nhập hộ của cơ quan thống kê chính phủ, Tan gộp thành sáu giai cấp xã hội dựa trên thu nhập [class category based on household income], gồm giai cấp trên, trung lưu trên, trung lưu giữa, trung lưu dưới, giai cấp dưới trên, giai cấp dưới dưới [upper, upper middle, middle middle, lower middle, upper lower, lower lower]. Trong phân loại của Tan, các giai cấp trung lưu dựa trên thu nhập là những phạm trù xã hội ở trên ngưỡng trung bình thu nhập hộ (Tan, 2015:18-19)[3].

Cách phân loại thành năm hay sáu giai cấp xã hội (dựa trên nghề hoặc tiêu chí xã hội khác) có lịch sử lâu đời và khá phổ biến. Từ nửa sau thế kỷ 19 ở các nước Âu-Mỹ có quan niệm thông dụng chia dân cư thành ba giai cấp: trên, trung, và dưới [upper, middle, lower class]. Nhưng các phân loại chính thức từ đầu thế kỷ 20 thường bao gồm năm hay sáu giai cấp dựa trên nghề (Szreter, 1993; Bùi Thế Cường, 2019a:56). Khi nghiên cứu phân tầng xã hội ở các thị trấn Hoa Kỳ thập niên 1940 và sau đó, Lloyd G. Warner và cộng sự (2001) đưa ra khung phân loại sáu giai cấp xã hội: thượng lưu trên, thượng lưu dưới, trung lưu trên, trung lưu dưới, hạ lưu trên, hạ lưu dưới [upper-upper, lower-upper, upper-middle, lower-middle, upper-lower, lower-lower][4].

3. Phương pháp và nguồn số liệu

Phương pháp chính của bài viết là phân tích dữ liệu từ ba cuộc Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) năm 1998, 2008, và 2018 của Tổng cục Thống kê.

Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng kỹ thuật phân nhóm k-means để hướng tới một phân loại phù hợp nhất. Hộ gia đình trong mẫu khảo sát được xếp vào các phạm trù thu nhập bình quân đầu người tháng, từ không có thu nhập đến mức thu nhập cao nhất. Số lượng và quãng cách giữa các phạm trù thu nhập được phần mềm SPSS tự động thử qua một chu trình với những phương án khác nhau, sao cho phát hiện ra những cụm [cluster] có tính tập trung bên trong và khác biệt rõ rệt với nhau[5].

Kết quả, từ các phạm trù thu nhập hình thành do quá trình phân tích k-means cluster, chúng tôi tạo nên một thang sáu giai tầng xã hội (dựa trên thu nhập), đặt tên là: giai tầng trên, giữa trên, giữa giữa, giữa dưới, dưới trên, và dưới dưới [upper, upper middle, middle middle, lower middle, upper lower, lower lower class]. Khi phân tích, sáu giai tầng xã hội cũng được gom thành ba tầng xã hội: tầng trên (gồm giai tầng trên và giữa trên), tầng giữa (gồm giai tầng giữa giữa và giữa dưới), và tầng dưới (gồm giai tầng dưới trên và dưới dưới). Đôi khi, chúng tôi cũng sử dụng thuật ngữ tầng lớp (hay giai cấp) trung lưu cho các giai tầng giữa (trung lưu trên, trung lưu giữa, và trung lưu dưới).

4. Kết quả phân tích

Bảng 1 thể hiện thu nhập trung bình và hệ số chênh lệch thu nhập giữa các giai tầng xã hội theo thành thị-nông thôn giai đoạn 1998-2018. Thu nhập trung bình xấp xỉ ở khoảng chia đôi sáu giai tầng xã hội. Năm 1998, thu nhập bình quân tháng đầu người của toàn mẫu là 265.000 VND, còn của giai tầng giữa dưới thì cao hơn: 308.000 VND. Nhưng 2008, hai con số này lần lượt là 1.117.000 VND và 919.000 VND. Và năm 2018 là 3.837.000 VND và 2.702.000 VND. Phân loại của Tan Ern Ser, các giai cấp trung lưu dựa trên thu nhập nằm trên ngưỡng trung bình thu nhập hộ (Tan, 2015:18-19). Nhóm nghiên cứu của Lê Kim Sa lấy mức thu nhập gấp đôi ngưỡng nghèo làm ngưỡng dưới để xác định tầng lớp trung lưu (Lê Kim Sa và Vũ Hoàng Đạt, 2014:71; Lê Kim Sa, 2016:26-27). Rakesh Kochhar xác định ngưỡng của giai cấp trung lưu như sau: “Trong phân tích của chúng tôi, người Mỹ ‘thu nhập trung bình’ là người mà thu nhập hộ gia đình năm bằng 2/3 cho đến gấp đôi mức trung bình quốc gia, sau khi thu nhập đã được điều chỉnh theo quy mô hộ” (Kochhar, 2018)[6]. Như vậy, phân loại của các tác giả trên và của chúng tôi có những tương đồng nhất định.

Xét về khác biệt thu nhập, Bảng 1 cho thấy hệ số chênh lệch thu nhập của giai tầng trên so với giai tầng dưới dưới rất cao: 30,3 năm 1998, 35,0 năm 2008, và 36,8 năm 2018[7]. Mức chênh lệch đặc biệt rõ từ giai tầng giữa trên, nhưng khác biệt giữa giai tầng giữa trên và giai tầng trên cũng rất cao.

Từ khóa » Giai Tầng Xã Hội ở Việt Nam Hiện Nay