Giải Thoát Đạo Luận Quyển Thứ Tư - KinhVan 1648 GiaiThoatLuan ...

Quyển Thứ Tư

- Ngài A La Hán Ưu Bà Đề Sa tạo luận bằng chữ Phạn

- Đời nhà Lương, người nước Phù Nam, Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samgha-Pala) dịch từ chữ Phạn ra tiếng Hán.

- Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt ngày 21 tháng 12 năm 2005, nhân lần nhập thất thử tại Tu Viện Đa Bảo Sydney, Úc Đại Lợi.

Phẩm Hành Môn Thứ 8 - Phần một

Hỏi rằng: Vì sao gọi là địa nhứt thiết nhập? Tu môn gì? Tướng gì? Vị gì? Xứ gì? Công đức gì? Nhứt thiết nhập là nghĩa gì? Có bao nhiêu loại địa và địa nào chấp tướng? Vì sao làm pháp Mạn Đà La? Tu theo pháp địa gì?

Đáp rằng: Tâm nầy nương vào tướng của địa mà sanh. Đây gọi là địa nhứt thiết nhập. Trụ tâm chẳng loạn gọi tên là tu. Lành vui tưởng đến địa, lấy làm tướng. Bất xả là vị. Ý chẳng khác niệm lấy làm xứ. Công đức ở đây có nghĩa là 12 công đức từ địa nhứt thiết nhập, đây là tướng dễ được. Đối với btất cả lúc, đối với tất cả hành, tâm hành chẳng nghi, như ý thần thông. Đi trên nước hay ở hư không cũng giống như ở trên đất, thọ nhận nhiều loại biện tài. Đầu tiên là nhớ nghĩ đến túc mệnh và thiên nhĩ giới biện tài. Tùy theo việc làm lành và cam bồ làm biên giới.

Hỏi rằng: Nhứt thiết nhập nghĩa gì?

Đáp rằng: Đó là phổ cập nhứt thiết nhập. Như Phật đã nói kệ rằng:

Nếu người niệm Phật đức Sanh vui khắp cùng thân Quán địa nhứt thiết nhập Khắp cùng Diêm Phù Đề Chỉ quán nương địa sanh

Tâm vui cũng như vậy.

Tu như thế nầy, thấy Mạn Đà La biến nhứt thiết nhập.

Hỏi rằng: Địa có bao nhiêu loại? Địa nào chấp tướng mà có thể tu?

Đáp rằng: Địa có 2 loại. Một là tự tướng địa; hai là tạo tác địa. Cứng là tự tướng của đất. Đây nghĩa là tự tướng địa. Nếu lấy tay tự mình đào rồi bảo người khác đào, tạo tác được thành; gọi đây là tác địa. Thành 4 loại màu. Đó là trắng, đen, đỏ và màu sáng suốt. Đối với người ngồi thiền, đối với tự tướng địa. Từ đây chẳng khởi tướng từng phần kia. Nếu chấp vào màu trắng, đen, đỏ thành ra tu sắc nhứt thiết nhập. Vì sao vậy?

Quán tự tướng của đất, lìa trắng đen đỏ. Hoặc làm hoặc chẳng làm, sẽ giữ cái tướng nầy. Như minh tướng hiện sẽ chấp tướng nầy.

Hỏi rằng: Vì sao gọi là bất tác địa?

Đáp rằng: Nơi nơi đều bằng phẳng, không có cỏ đá và không có các loại gốc cây. Đối với cảnh của mắt nầy sẽ làm cho tâm khởi. Đây có tên gọi là địa tưởng. Đây nghĩa là bất tác địa.

Nếu xưa tọa thiền tùy đó mà vui hay chẳng vui, tức là thấy được phần địa tướng kia, trụ ở nơi bất thối. Kẻ mới học thiền chấp vào tướng của tác địa và tạo ra Mạc Đà La. Chẳng quán, chẳng tác địa.

Hỏi rằng: Vì sao lại tạo Mạn Đà La?

Đáp rằng: Nếu người tọa thiền muốn ở nơi địa tạo Mạn Đà La thì đầu tiên từ chỗ quán tịch tĩnh; hoặc ở nơi chùa, phòng hoặc ở trong động đá; hoặc ở dưới gốc cây. Chẳng ở nơi tối không có ánh sáng, không người qua lại. Đối với những nơi như thế đều xa một khoảng cách. Rửa quét cho sạch rồi làm cho đất bằng và nơi đó lúc minh tướng hiện, lấy đất màu xử dụng cùng đất để tạo nên thành tướng. Lần lượt thích nghi, oai nghi cung kính rồi lấy đồ trộn nước vào đất. Lấy cỏ cây, đất cát và phẩn trộn lộn, rồi lấy vải đựng bùn ấy, đoạn lấy đất sạch, ngồi nơi chỗ khuất, đừng cho ánh sáng vào và an trí nơi đó để tọa thiền. Chẳng gần chẳng xa rồi viên tròn lại. Viên thật khéo cho đều, sau đó lấy bột đất có nhiều màu và phân ra từng màu một, chẳng tạp rồi cho vào đất. Cho đến đầy đủ che khắp, giữ gìn. Đến khi khô ráo lấy màu khác cho vào bên ngoài. Hoặc lớn như hột lúa; hoặc lớn như cái thanh la; hoặc tròn hoặc cạnh; hoặc tam giác tứ giác; nên rõ phân biệt. Đức Bổn Sư đã dạc rằng:

Làm Mạn Đà La là công việc tối thắng. Hoặc nơi vải, hoặc nơi gỗ, hoặc nơi tuờng, đều có thể làm Mạn Đà La. Đối với địa tối thắng. Như thế người xưa đã nói.

Hỏi rằng: Vì sao tu địa pháp?

Đáp rằng: Nếu người tọa thiền muốn tu địa nhứt thiết nhập; đầu tiên nên quán về dục quá hoạn. Lại nên quán ra khỏi công đức.

Hỏi rằng: Vì sao nên quán dục quá hoạn?

Đáp rằng: Dục là khí vị ít mà nhiều ưa khổ. Đối với việc nầy nhiều quá hoạn. Dục cũng giống như xương, dụ cho khí vị ít. Dục cũng giống như thịt tan nát ra, lấy sự lệ thuộc vậy. Dục giống như lửa nghịch gió, thiêu cháy vậy. Dục giống như củi than lớn nhỏ. Dục giống như giấc mộng, chẳng có thật vậy. Dục cũng như chứa đồ vật dụ cho sức bền chắc chẳng dài lâu. Dục cũng giống như trái cây vì người bẻ đi vậy. Dục cũng giống như con dao dùng để chặt đốn cây. Dục cũng giống như một lưỡi giáo, dùng để cắt vậy. Dục cũng giống như đầu rắn độc. Có thể tạo sự sợ hãi vậy. Dục cũng giống như gió thổi bông, chẳng thể giữ lại được. Dục cũng giống như điều huyễn mộng mà người si ngờ vực. Dục chính là chỗ tối tăm, chẳng thể thấy được. Dục chính là sự chướng ngại làm ngăn trở những pháp lành vậy. Dục chính là si mê làm mất chánh niệm. Dục chính là ngọn lửa nung cháy vậy. Dục chính là việc cột vào giới tướng. Dục chính là ăn cắp công đức vậy. Dục chính là oan gia khởi lên việc đấu tranh

vậy. Dục chính là khổ, tạo ra những quá hoạn vậy. Như thế đã rõ dục là quá hoạn rồi; nên quán lìa xa công đức. Gọi sự xuất ly nầy là sơ thiền đối với người mới xuất gia tu những việc lành. Đây gọi tâm là xuất ly.

Hỏi rằng: Vì sao gọi là xuất ly công đức?

Đáp rằng: Đó là cái tâm vô tận ở nơi tự tại và thường vui tịch tĩnh. Kham nhẫn việc khổ vui, ở nơi chẳng quên mất. Rộng độ các việc, được chỗ đất lớn, kham thọ cúng dường. Làm lợi lạc cho 2 nơi. Đây là đại trí huệ; đây là tất cả thiện xứ; đây gọi tên là siêu tam giới. Lại nữa gọi đây là xuất ly. Sự rời khỏi sự ham muốn về dân, là sự tịch tĩnh các sự che đậy, là niềm vui chẳng dơ. Đây là nơi tối thắng địa. Đây là con đường được tối thắng. Đây là chỗ thanh tịnh của tâm dơ. Đây là công đức tu hành đã tạo. Đây là niềm vui bên trong của việc tu hành. Dục là thô; ra khỏi là thắng diệu. Dục chính là phiền não; ra khỏi chính là chẳng phiền não. Dục là thấp hèn; ra khỏi đó chính là cao thượng. Dục chính là sân nhuế; ra khỏi đó chính là vô sân nhuế. Dục chính là quả chẳng dễ thương; ra khỏi đó chính là quả dễ thương. Dục chính là sự sợ hãi; ra khỏi đó chính là sự không sợ hãi. Như thế đã quán về sự dâm dục quá hoạn rồi, lại quán xuất ly công đức. Nương vào xuất ly sanh ra dục lạc. Tâm sanh lòng tin, sanh sự cung kính. Quán việc có thể làm và không thể làm. Nương vào sự tiết chế ăn uống, chỗ để y bát; thân chẳng mỏi mệt, tâm chẳng giải đãi; nên đi dạo và dạo xong rồi, nên rửa tay chân; nên niện Phật; niệm Bồ Đề, niệm Pháp Tăng. Tu hạnh lành, niệm rồi, sẽ tạo ra hoan hỷ. Ta có thể như thế mà được đầy đủ. Nếu ta chẳng được xuất ly, lại chẳng an ổn tinh tấn lâu dài; do vậy nên siêng năng hơn. Với Mạn Đà La chẳng gần chẳng xa. Như các ách chẳng rời xa; nên ở yên nơi chỗ ngồi và ngồi kiết già đối diện với Mạn Đà La, làm cho thân ngay ngắn lại. Trong tâm khởi niệm, mở mắt nho nhỏ để trừ thân tâm loạn, nhiếp tất cả tâm thành một. Tâm được mở rồi, phảng phất làm cho quán Mạn Đà La và người ngồi thiền kia hiện quán hình Mạn Đà La, lấy 3 hình chấp tướng, lấy đẳng quán làm phương tiện để lìa sự loạn động.

Hỏi rằng: Vì sao lấy đẳng quán?

Đáp rằng: Người tọa thiền hiện đang quán về Mạn Đà La chẳng mở mắt lớn chẳng đóng mắt lại. Như thế mà quán.

Vì sao vậy?

Nếu mở mắt lớn thì mắt nầy sẽ mỏi. Mạn Đà La tự tánh hiện thấy tự tánh, tưởng về phần khác chẳng khởi lên. Nếu đóng chặt mắt hết lại, thấy Mạn Đà La trong bóng tối. Lại chẳng thấy được tướng kia, liền sanh giải đãi. Cho nên phải lìa việc mở hết hoặc nhắm mắt hoàn toàn. Chỉ chuyên tâm trụ vào nơi Mạn Đà La. Vì tâm trụ rồi sẽ quán như người xem ảnh mình nơi kiếng thấy hình. Nương vào kiếng ấy thấy mặt mình và mặt ấy từ kiếng mà sanh ra. Người tọa thiền kia quán Mạn Đà La thấy được tướng định nầy rồi nương vào Mạn Đà La mà khởi. Cho nên sẽ quán đẳng quán giữ làm tướng, làm cho tâm ở yên vậy. Như thế lấy đẳngquán giữ lại làm tướng.

Hỏi rằng: Vì sao lấy phương tiện?

Đáp rằng: Lấy 4 tác ý làm phương tiện. Một là bên trong ngăn cách; hai là mãn phương (đầy đủ), ba là thay đổi và bốn là biến khắp. Đây là thấy tướng tan khắp không ngăn cách. Lúc ấy nên tạo tác ý cho sự ngăn cách bên trong. Khi đó sẽ thấy tướng nhỏ; hoặc thấy nửa Mạn Đà La. Bấy giờ làm cho xong Mạn Đà La rồi, tác ý làm cho sung mãn. Lúc ấy tâm tán loạn và tâm lười biếng. Lúc ấy nên khóa lại như khóa cửa nhà. Lúc ấy nếu tâm được ở yên, thì nên làm cho thấy Mạn Đà La đầy khắp, chẳng vui rồi quán xả. Như thế lấy phương tiện có thể biết được.

Hỏi rằng: Vì sao lấy ly loạn?

Đáp rằng: Ly loạn có 4 loại. Một là quá mau, tạo ra siêng năng; hai là quá trì trệ, tạo ra siêng năng; ba là quá cao; bốn là quá thấp.

Hỏi rằng: Sao löại nói quá mau, tạo ra siêng năng?

Đáp rằng: Tật mau tác ý, chẳng chờ thời tiết; sáng ngồi tối ngồi cho đến khi thân mệt. Đây gọi là tốc tác.

Hỏi rằng: Sao gọi là trì trệ, tạo ra siêng năng?

Đáp rằng: Lìa tác ý làm phương tiện. Tuy thấy Mạn Đà La, chẳng cung kính tác ý; lúc tỉnh lúc buồn ngủ. Nếu mau siêng năng, tức thành thân mệt, tâm thoái. Tâm ra ngoại duyên, khởi lên các việc hí luận. Nếu trì trệ tạo ra siêng năng, thân tâm thành ỷ lại giải đãi, khởi lên sự buồn ngủ. Chỗ quá cao thì tâm nầy thoái, khởi lên một việc loạn. Đối với chỗ hành xứ, thành ra chẳng vui. Hoặc đối với việc đầu tiên hay nói cưới hí luận. Chỉ vì tâm dục cao ngạo.

Lại nữa nếu được các tướng hành là do hỉ lạc, tâm dục thành cao. Tối thấp nghĩa là thoái đi các duyên. Đối với nghiệp xứ thành chẳng vui. Nếu chẳng vui nơi sơ hành xứ lại tạo ra chỗ sân xứ. Do tâm sân nhuế, trở thành thấp.

Lại nữa nếu mệt mà lại quán thì từ tốt sẽ làm cho tâm rơi vào chỗ xấu. Do ưu ái mà tâm thành ra thấp. Người tọa thiền nầy, nếu tâm mau làm thoái đọa thì niệm căn, định căn nhiếp phục, làm cho xả bỏ. Nếu tâm tiến đến làm thoái đọa chuyện giải đãi thì lấy niệm tinh tấn câu nhiếp phục và làm cho mất đi sự giải đãi. Nếu cao tâm thoái đọa dục xứ, thành hiện biết, làm cho xả dục. Nếu hạ tâm thoái đọa nơi sân nhuế, thành hiện trí, làm cho xả sân nhuế.

Đây là 4 xứ thành tâm thanh tịnh, thành chuyên một tâm. Đây là cái nhơn sáng của 3 việc định tâm mà tùy theo ý để được thấy hình Mạn Đà La. Nếu chuyên nhứt tâm chuyển thành gọi là tướng khởi và có 2 loại. Nghĩa là thủ tướng.

Phần tướng kia vì sao gọi là thủ tướng? Nếu người tọa thiền kia chẳng tán tâm và hiện quán Mạn Đà La thì từ Mạn Đà La ấy khởi tướng, như đối với hư không mà thấy; hoặc lúc xa, hoặc lúc gần; hoặc lúc trái, hoặc lúc phải; hoặc lúc lớn, hoặc lúc nhỏ; hoặc lúc xấu, hoặc lúc tốt; hoặc lúc nhiều, hoặc lúc ít, chẳng lấy mắt để quán Mạn Đà La. Lấy tác ý phương tiện, giữ tướng khởi. Đây gọi là thủ tướng. Từ việc làm nhiều kia, phần tướng kia khởi, gọi là bỉ phần tướng. Nếu lúc tác ý, tùy theo tâm liền hiện. Chẳng thấy Mạn Đà La, sau đó sanh tâm niệm; liền làm cho tâm đóng mắt lại như chỗ quán đầu tiên. Hoặc xa tác ý lại liền thấy xa; hoặc gần trái phải trước sau, trong ngoài trên dưới, lại cũng như thế. Tùy tâm liền hiện. Đây gọi là bỉ phần tướng.

Tướng ấy nghĩa là gì?

Đó là nghĩa nhơn và nghĩa tướng. Như Phật dạy các vị Tỳ Kheo rằng: Những điều ác kia chẳng phải là những pháp lành. Có tướng khởi là nghĩa của nhơn duyên. Lại nói nghĩa của trí, nghĩa của tướng. Như Phật đã dạy lấy tác tưởng mà xả. Đây là nghĩa của trí.

Lại nói về nghĩa hình ảnh và nghĩa của tướng. Như thấy chính mắt của mình và nghĩ về hình ảnh ấy. Phần kia không khác nghĩa. Lúc ấy được tướng; người tọa thiền đối với Thầy nầy khởi tâm cung kính, giữ nơi tướng tốt và sanh ra việc bảo hộ. Hoặc chẳng bảo hộ thì liền mất đi.

Hỏi rằng: Vì sao lại nên thủ hộ?

Đáp rằng: Lấy 3 chủng hạnh, nên tướng thủ hộ. Như vậy lấy lìa việc ác, lấy sự tu hành lnàh, lấy chỗ thường làm vậy.

Vì sao lìa chẳng thiện?

Vui ở nơi công việc. Vui nói nhiều lời hí luận; vui ngủ nghỉ, vui tụ hội, vui nhờn tục tĩu. Chẳng giữ gìn các căn; chẳng giảm bớt việc ăn uống. Đầu đêm cuối đêm chẳng dậy ngồi thiền. Chẳng kính chỗ học; nhiều bạn xấu, chẳng tu hành gì. Nên xa lìa việc chẳng tốt, giảm ăn, nằm ngồi chăng? Đổ đối trị với kia thì những việc lành phải hay thường làm.

Đáp rằng: Người tọa thiền kia lành giữ tướng nầy, thường hay quán công đức nầy, như nhớ đến trân châu, thường hoan hỷ làm, thường tu hay tu; hoặc ngày đêm tu hành nhiều; hoặc vui với ngồi nằm và tâm vui phan (?) duyên. Nơi nơi đều phóng tâm; chấp tướng giữ lấy; giữ rồi làm cho khởi lên; khởi lên rồi quá theo; quán rồi tu, tu có lúc quán Mạn Đà La. Như thế thường tác thấy tướng. Kia như thế hiện tướng thủ hộ, thành được tự tại. Nếu tướng theo tâm được thiền ngoại hành; hoặc ngoại hành từ tâm. Do đây được an.

Hỏi rằng: Thế nào là thiền ngoại hành?

Đáp rằng: Đây là việc từ tâm, tác ý chẳng loạn; lấy phục làm chỗ che, thường cầu tu hành giác quán, hỉ lạc một tâm và tin vào nơi ngũ căn.Tuy được định lực, niệm niện dụ khởi. Đây gọi là thiền ngoại hành. Kẻ yên ổn, từ ngoại hành nầy, đây là pháp do tâm, được lực tu hành, là giác tín các pháp, đối với việc chẳng động. Đây gọi là an.

Hỏi rằng: Ngoại hành và an là gì? Có gì khác nhau?

Đáp rằng: Nếu có ngũ cái tức là ngoại hành, lấy che lên 5 loại nầy liền yên; lấy thiền ngoại hành làm chỗ thắng định. Nếu được thắng định, gọi tên là an; hoặc lấy thân tâm chưa được tịch tịnh; đối với ngoại định, tâm động; như thuyền trên sóng. Hoặc nơi thân tâm đã được tịch tĩnh rồi, xứ yên chẳng động như thuyền chỉ có gió nằm trên nước. Các căn chẳng có lực. Đối với chỗ làm ngoại thiền hành nầy chẳng lâu dài, như đồng tử nhỏ, các căn mạnh khỏe, mọi việc an tịnh dài lâu, như có lực người, tu bất tự tại cho nên thiền ngoại hành thành chẳng hòa hợp. Như người tụng kinh lâu dài thêm mỏi, quên đi việc tu tự tại nên thành yên ổn hòa hợp. Như người tụng kinh hằng luyện chẳng quên. Nếu chẳng được lành che thì giống như người mù; đối với thiền ngoại hành thành mù mờ. Như thế chẳng thanh tịnh. Nếu lành

Từ khóa » Giải Thoát đạo Luận