Giáo Trình Tâm Lý Học Đại Cương- Pgs. Nguyễn Quang Uẩn - 123doc

- Phần thứ nhất: Những vấn đề chung của tâm lý học- Phần thứ hai: Nhận thức và sự học - Phần thứ ba: Nhân cách và sự hình thành nhân cách - Phần thứ tư: Sự sai lệch hành vi cá nhân và hì

Trang 1

GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Tác giả: PGS NGUYỄN QUANG UẨN (Chủ biên) PGS TRẦN HỮU LUYẾN – TS TRẦN QUỐC THÀNH

LỜI NÓI ĐẦU

Từ nhiều năm nay “Tâm lý học đại cương” không chỉ được giảng dạy và học tập ở các trường đại học, cao đẳng và trung học sư phạm mà còn ở một

số trường đại học như: đại học tổng hợp, pháp lý, y khoa, tuyên giáo, nghệ thuật, thể thao… các trường đại học quân sự, cảnh sát, an ninh, ở hệ thống các trường Đảng, một số học viện, viện nghiên cứu

Việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện không ngừng tài liệu, giáo trình về tâm lý học đại cương là một nhu cầu cấp thiết của thực tế giảng dạy, học tập

và nghiên cứu về tâm lý học

Tài liệu “Tâm lý học đại cương này được biên soạn theo chương trình chi tiết của học phần “Tâm lý học đại cương” thuộc chương trình giáo dục cốt lõi chuyên nghiệp, đã được “Chương trình giáo trình đại học” của Bộ nghiệm thu và gửi về các trường, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường thực hiện tốt quyết định 2677/GD-ĐT đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 3/12/1993

Cùng với việc tiếp tục, kế thừa có chọn lọc các tài liệu đã có trong và ngoài nước về tâm lý học đại cương, tập tài liệu này đã có thêm một số nội dung mới như: vấn đề di truyền và tâm lý, cơ sở xã hội của tâm lý, nhận thức

về sự học, kiểu loại nhân cách, sự sai lệch hành vi…

Nội dung tài liệu “Tâm lý học đại cương” bao gồm 4 phần trong khung thời gian 3 đvht

Trang 2

- Phần thứ nhất: Những vấn đề chung của tâm lý học

- Phần thứ hai: Nhận thức và sự học

- Phần thứ ba: Nhân cách và sự hình thành nhân cách

- Phần thứ tư: Sự sai lệch hành vi cá nhân và hình vi xã hội

Tập thể các tác giả đã cố gắng nêu lên những kiến thức cơ bản, hiện đại, hệ thống về tâm lý học đại cương, với hy vọng cuốn sách được dùng làm tài liệu tham khảo cho CBGD và là một trong các tài liệu học tập của sinh viên Song chắc chắn tài liệu không tránh khỏi những tồn tại và khiếm khuyết Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu, chân tình của các bạn đồng nghiệp và độc giả để có thể sửa chữa, bổ sung nhằm đạt được

sự hoàn thiện hơn

CÁC TÁC GIẢ

Phần 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC

Chương I TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

Thế giới tâm lý của con người vô cùng diệu kỳ và phong phú, được loài người quan tâm nghiên cứu cùng với lịch sử hình thành và phát triển nhân loại Từ những tư tưởng đầu tiên sơ khai về hiện tượng tâm lý, tâm lý học đã hình thành, phát triển không ngừng và ngày càng giữ một vị trí quan trọng trong nhóm các khoa học về con người Đây là một khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội

I ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC

Là một khoa học, tâm lý có đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu xác định Song trước hết cần phải hiểu tâm lý là gì để từ đó bàn

về khoa học tâm lý (tâm lý học)

1 Tâm lý học là gì?

Trang 3

Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người vẫn thường sử dụng từ tâm lý

để nói về cách cư xử của con người như: “Anh A rất tâm lý”, “chị B chuyện trò tâm tình, cởi mở”… Với ý nghĩa là ở anh A, chị B,… có hiểu biết về lòng người, về tâm tư, nguyện vọng, tính tình… của con người Đó là cách hiểu

“tâm lý” ở cấp độ nhận thức thông thường Đời sống tâm lý của con người bao hàm nhiều hiện tượng tâm lý phong phú, đa dạng, phức tạp từ cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng đến tình cảm, ý chí, tính khí, năng lực, lý tưởng, niềm tin,

Trong tiếng Việt thuật ngữ “tâm lý”, ”tâm hồn” đã có từ lâu Từ điển Tiếng Việt (1988) định nghĩa một cách tổng quát: “tâm lý” là ý nghĩ, tình cảm,

…làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người

Theo nghĩa đời thường chữ “tâm” thường dùng với các cụm từ “nhân tâm”, “tâm đắc”, “tâm địa”, “tâm can”… thường có nghĩa như chữ “lòng”, thiên

về tình cảm, còn chữ “hồn” thường để diễn đạt tư tưởng, tinh thần, ý thức, ý chí… của con người “Tâm hồn”, tinh thần” luôn gắn với “thể xác”…

Trong lịch sử xa xưa của nhân loại, trong tiếng La tinh: “Psyche” là “linh hồn”, “tinh thần” và “logos” là học thuyết, là “khoa học”, vì thế “tâm lý học” (Psychologie) là khoa học về tâm hồn Nói một cách khái quát chung nhất: tâm lý bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động của con người Các hiện tượng tâm lý đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống của con người, trong quan hệ giữa con người với con người và cả xã hội loài người

Tâm lý học là khoa học về các hiện tượng tâm lý, nhưng trước khi tâm

lý học ra đời với tư cách một khoa học độc lập, những tư tưởng tâm lý học đã

có từ xa xưa gắn liền với lịch sử loài người Vì thế trước khi bàn về đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học, chúng ta cần điểm qua vài nét lịch sử hình thành và phát triển lĩnh vực khoa học này

2 Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển tâm lý học

a Những tư tưởng tâm lý học thời cổ đại

Trang 4

– Loài người ra đời trên trái đất này mới được khoảng 10 vạn năm – con người có trí khôn, có một cuộc sống có lý trí, tuy buổi đầu còn rất sơ khai, mông muội

Trong các di chỉ của người nguyên thủy đã thấy những bằng cứ chứng

tỏ đã có quan niệm về cuộc sống của “hồn”, “phách” sau cái chết của thể xác Trong các bản văn tự đầu tiên từ thời cổ đại, trong các kinh ở Ấn Độ đã có những nhận xét về tính chất của hồn, đã có những ý tưởng tiền khoa học về tâm lý

– Khổng Tử (551 – 479 TCN) nói đến chữ “tâm” của con người là

“nhân, trí, dũng”, về sau học trò của Khổng Tử nêu thành “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”

– Nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại là Xôcrat (469 – 399 TCN) đã tuyên bố câu châm ngôn nổi tiếng: “Hãy tự biết mình” Đây là một định hướng có giá trị

to lớn cho tâm lý học: con người có thể và cần phải tự hiểu biết mình, tự nhận thức, tự ý thức về cái ta

– Người đầu tiên “bàn về tâm hồn” là Arixtốt (384 – 322 TCN) Ông là một trong những người có quan điểm duy vật về tâm hồn con người Arixtốt cho rằng: tâm hồn gắn liền với thể xác, tâm hồn có ba loạl:

+ Tâm hồn thực vật có chung ở người và động vật làm chức năng dinh dưỡng, (còn gọi là “tâm hồn dinh dưỡng”)

+ Tâm hồn động vật có chung ở người và động vật làm chức năng cảm giác, vận động (còn gọi là “tâm hồn cảm giác)

+ Tâm hồn trí tuệ chỉ có ở người (còn gọi là “tâm hồn suy nghĩ”)

Quan điểm của Arixtốt đối lập với quan điểm của nhà triết học duy tâm

cổ đại Platông (428-348 TCN) cho rằng tâm hồn là cái có trước, thực tại có sau, tâm hồn do thượng đế sinh ra Tâm hồn trí tuệ nằm ở trong đầu, chỉ có ở giai cấp chủ nô; tâm hồn dũng cảm nằm ở ngực và chỉ có ở tầng lớp quý tộc, tâm hồn khát vọng nằm ở bụng và chỉ có ở tầng lớp nô lệ

Trang 5

– Đối lập với quan điểm duy tâm thời cổ đại về tâm hồn là quan điểm củạ các nhà triết học duy tâm như: Talet (thế kỷ thứ VII – VI TCN) Anaximen (thế kỷ V TCN) Hêraclit (thế kỷ VI - V TCN) cho rằng tâm lý, tâm hồn cũng như vạn vật đều được cấu tạo từ vật chất như: nước, lửa, không khí, đất Còn Đêmôcrit (460 – 370 TCN) cho rằng tâm hồn do nguyên tử cấu tạo thành, trong đó “nguyên tử lửa” là nhân lõi tạo nên tâm lý Thuyết ngũ hành coi kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tạo nên vạn vật, trong đó có cả tâm hồn.

Các quan điểm duy vật và duy tâm luôn đấu tranh mãnh liệt xung quanh mối quan hệ vật chất và tinh thần, tâm lý và vật chất

b Những tư tưởng tâm lý học từ nửa đầu thế kỷ XIX trở về trước

– Thuyết nhị nguyên: R Đêcac (1596 – 1650) đại điện cho phái “nhị

nguyên luận” cho rằng vật chất và linh hồn là hai thực thể song song tồn tại Đêcac coi cơ thể con người phản xạ như một chiếc máy Còn bản thể tinh thần, tâm lý của con người thì không thể biết được Song Đêcac cũng đã đặt

cơ sở đầu tiên cho việc tìm ra cơ chế phản xạ trong hoạt động tâm lý

– Sang thế kỷ XVIII, tâm lý học bắt đầu có tên gọi Nhà triết học Đức Vôn Phơ đã chia nhân chủng học (nhân học) ra thành hai thứ khoa học: một

là khoa học về cơ thể; hai là tâm lý học Năm 1732 ông xuất bản cuốn “Tâm lý học kinh nghiệm” Sau đó 2 năm (1734) ra đời cuốn “Tâm lý học lý trí” Thế là

do đâu? Hium cho rằng con người không thể biết Vì thế người ta vẫn coi Hium thuộc vào phái bất khả tri

Trang 6

Học thuyết duy tâm phát triển tới mức độ cao thể hiện ở “ý niệm tuyệt đối” của Hêghen

+ Thế kỷ XVII – XVIII – XIX các nhà triết học và tâm lý học phương Tây

đã phát triển chủ nghĩa duy vật lên một bước cao hơn: Spinôda (1632 – 1667) coi tất cả vật chất đều có tư duy, Lametri (1709 – 1751) một trong các nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật Pháp thừa nhận chỉ có cơ thể mới có cảm giác Còn Canbanic (1757 – 1808) cho rằng não tiết ra tư tưởng, giống như gan tiết

ra mật

L Phơbach (1804 – 1872) nhà duy vật lỗi lạc bậc nhất trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, khẳng định: tinh thần, tâm lý không thể tách rời khỏi não người, nó là sản vật của thứ vật chất phát triển tới mức độ cao là bộ não

Đến nửa đầu thế kỷ XIX có rất nhiều điều kiện để tâm lý học trưởng thành, tự tách ra khỏi mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ của tâm lý học vào triết học với tư cách tâm lý học là một bộ phận, một chuyên ngành của triết học

c Tâm lý học trở thành một khoa học độc lập

– Từ đầu thế kỷ XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, tạo điều kiện cho tâm lý học trở thành một khoa học độc lập Trong đó phải kể tới thành tựu của các ngành khoa học có liên quan như: Thuyết tiến hóa của S.Đacuyn (1809–1882) nhà duy vật Anh; thuyến tâm sinh lý học giác quan của Hemhôn (1821 – 1894) người Đức; thuyết tâm vật lý học của Phecsne (1801 – 1887) và Vê-Be (1795 – 1878) cả hai đều là người Đức; tâm lý học phát sinh của Gantôn (1822 – 1911) người Anh và các công trình nghiên cứu

về tâm thần học của bác sĩ Saccô (1875 – 1893) người Pháp…

– Thành tựu của chính khoa học tâm lý lúc bấy giờ, cùng với thành tựu của các lĩnh vực khoa học nói trên là điều kiện cần thiết giúp cho tâm lý học

đã đến lúc trở thành khoa học độc lập Đặc biệt trong lịch sử tâm lý học, một

sự kiện không thể không nhắc tới vào năm 1879 nhà Tâm lý học Đức V Vuntơ (1832 – 1920) đã sáng lập ra phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên trên

Trang 7

thế giới tại thành phố Laixic Và một năm sau nó trở thành viện tâm lý học đầu trên của thế giới, xuất bản các tạp chí tâm lý học Từ vương quốc của chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức chủ quan là đối tượng của tâm lý học và con đường nghiên cứu ý thức là các phương pháp nội quan, tự quan sát, Vuntơ đã bắt đầu chuyển sang nghiên cứu tâm lý ý thức một cách khách quan bằng quan sát, thực nghiệm, đo đạc…

– Để góp phần tấn công vào chủ nghĩa duy tâm, đầu thế kỷ XX các dòng phái tâm lý học khách quan ra đời đó là: tâm lý học hành vi, tâm lý học Gestalt, phân tâm học Trong thế kỷ XX còn có những dòng phái tâm lý học khác có vai trò nhất định trong lịch sử phát triển khoa học tâm lý học hiện đại như: dòng phái tâm lý học nhân văn, tâm lý học nhận thức Và nhất là sau Cách mạng tháng Mười 1917 thành công ở Nga, dòng phái tâm lý học hoạt động do các nhà tâm lý học Xô Viết đã đem lại những bước ngoặt lịch sử đáng kể trong tâm lý học

3 Các quan điểm cơ bản trong tâm lý học hiện đại

a Tâm lý học hành vi

Chủ nghĩa hành vi do nhà tâm lý học Mỹ J Oatsơn (1878 – 1958) sáng lập J.Oatsơn cho rằng tâm lý học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể Ở con người, cũng như ở động vật hành vi được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích nào đó Toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và động vật phản ánh bằng công thức:

S – R(Stimulant – Reaction) Kích thích – Phản ứngVới công thức trên, J.Oatsơn đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lý học: coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan Từ đó có thể điều khiển hành

vi theo phương pháp “thử – sai” Nhưng chủ nghĩa hành vi đã quan niệm một

Trang 8

cách cơ học, máy móc về hành vi, đem đánh đồng hành vi của con người với hành vi của con vật, hành vi chỉ còn là những phản ứng máy móc nhằm đáp ứng kích thích, giúp cho cơ thể thích nghi với môi trường xung quanh Chủ nghĩa hành vi đồng nhất phản ứng với nội dung tâm lý bên trong, làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lý con người, đồng nhất tâm lý con người với tâm

lý động vật, con người chỉ hành vi, phản ứng trong thế giới một cách cơ học, máy móc Đây là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, phi lịch sử và thực dụng

Về sau này các đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như: Tônmen, Hulơ, Skinơ,… đã đưa vào công thức S – R những “biến số” trung gian bao hàm một số yếu tố như: nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống của con người hoặc hành vi tạo tác “operant” nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho

cơ thể, thì về cơ bản chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, thực dụng của chủ nghĩa hành vi cổ điển Oatsơn

b Tâm lý học Gestalt (còn gọi là tâm lý học cấu trúc)

Dòng phái này ra đời ở Đức, gắn liền với tên tuổi các nhà tâm lý học: Vecthaimơ (1880–1943), Côlơ (1887 – 1967), Côpca (1886-1947) Họ đi sâu nghiên cứu các quy luật về tính ổn định và tính trọn vẹn của tri giác, quy luật

“bừng sáng” của tư duy Trên cơ sở thực nghiệm các nhà tâm lý học Gestalt khẳng định các quy luật của tri giác, tư duy và tâm lý của con người do các cấu trúc tiền định của não quyết định Các nhà tâm lý học Gestalt ít chú ý đến vai trò của vốn kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử

c Phân tâm học

Thuyết phân tâm do S.Phrơt (1859 – 1939) bác sĩ người Áo xây dựng nên Luận điểm cơ bản của Phrơt tách con người thành ba khối: cái ấy (cái vô thức), cái tôi và cái siêu tôi Cái ấy bao gồm các bản năng vô thức: ăn uống, tình dục, tự vệ, trong đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ đời sống tâm lý và hành vi của con người, cái ấy tồn tại theo nguyên tắc thỏa mãn và đòi hỏi Cái tôi – con người thường ngày, con người có ý thức, tồn tại theo nguyên tắc hiện thực Cái tôi có ý thức theo Phrơt là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài của cái nhân lõi bên trong là “cái ấy”; cái siêu tôi là

Trang 9

cái siêu phàm, “cái tôi lý tưởng” không bao giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép Như vậy phân tâm học đã đề cao quá đáng cái bản năng vô thức dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất xã hội, lịch

sử của tâm lý con người, đồng nhất tâm lý của con người với tâm lý loài vật Học thuyết Phrơt là cơ sở ban đầu của chủ nghĩa hiện sinh, thể hiện quan điểm sinh vật hóa tâm lý con người

Tóm lại, ba dòng phái tâm lý học nói trên ra đời ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX góp phần tấn công vào dòng phái chủ quan trong tâm lý học, đưa tâm lý học đi theo hướng khách quan Nhưng do những giới hạn lịch sử, ở họ

có những hạn chế nhất định như: thể hiện xu thế cơ học hóa, sinh vật hóa tâm lý con người, bỏ qua bản chất xã hội lịch sử và tính chủ thể của đời sống tâm lý con người

d Tâm lý học nhân văn

Dòng phái tâm lý học nhân văn do C Rôgiơ (1902 – 1987) và H Maxlâu sáng lập Các nhà tâm lý học nhân văn quan niệm rằng: bản chất con người vốn tốt đẹp, con người có lòng vị tha, có tiềm năng kỳ diệu

Maxlâu đã nêu lên 5 mức độ nhu cầu cơ bản của con người xếp thứ tự

từ thấp đến cao:

– Nhu cầu sinh lý cơ bản

– Nhu cầu an toàn

– Nhu cầu về quan hệ xã hội

– Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ…

– Nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt

C Rôgiơ cho rằng con người ta cần phải đối xử với nhau một cách tế nhị, cởi mở, biết lắng nghe và chờ đợi, cảm thông với nhau Tâm lý học cần phải giúp cho con người tìm được bản ngã đích thực của mình, để có thể sống một cách thoải mái, cởi mở, hồn nhiên và sáng tạo Tuy nhiên, tâm lý học nhân văn đề cao những điều cảm nghiệm, thể nghiệm chủ quan của bản

Trang 10

thân mỗi người, tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội, chú ý tới mặt nhân văn trừu tượng trong con người, vì thế thiếu vắng con người trong hoạt động thực tiễn.

e Tâm lý học nhận thức

Hai đại biểu nổi tiếng của tâm lý học nhận thức là G.Piagiê (Thụy Sĩ) và Brunơ (trước ở Mỹ, sau đó ở Anh) Tâm lý học nhận thức coi hoạt động nhận thức là đối tượng nghiên cứu của mình Đặc điểm tiến bộ nổi bật của dòng phái tâm lý học này là nghiên cứu tâm lý con người, nhận thức của con người trong mối quan hệ với môi trường, với cơ thể và với não bộ Vì thế họ đã phát hiện ra nhiều sự kiện khoa học có giá trị trong các vấn đề tri giác, trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ… làm cho các lĩnh vực nghiên cứu nói trên đạt tới một trình độ mới Đồng thời họ cũng đã xây dựng được nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể đóng góp cho khoa học tâm lý ở những năm 50 – 60 của thế kỷ XX này Tuy nhiên dòng phái này cũng có những hạn chế: họ coi nhận thức của con người như là sự nỗ lực của ý chí, để đưa đến sự thay đổi vốn kinh nghiệm, vốn tri thức của chủ thể nhằm thích nghi, cân bằng với thế giới, chưa thấy hết

ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn của hoạt động nhận thức

Tất cả những dòng phái tâm lý học nói trên đều có những đóng góp nhất định cho sự hình thành và phát triển của khoa học tâm lý Song do những hạn chế lịch sử, họ vẫn chưa có quan điểm đầy đủ và đúng đắn về con người, về hoạt động tâm lý của con người do thiếu một cơ sở phương pháp luận khoa học biện chứng Sự ra đời của tâm lý học Macxit hay còn gọi là tâm

lý học hoạt động đã góp phần đáng kể vào việc khắc phục hạn chế nói trên và tiếp tục đưa tâm lý học lên đỉnh cao của sự phát triển

g Tâm lý học hoạt động

Dòng phái tâm lý học này do các nhà tâm lý học Xô Viết sáng lập như L.X Vưgôtxki (1896–1934) X.L Rubinstêin (1902–1960) A N Lêônchiev (1903– 1979) A.R Luria (1902 – 1977)… Dòng phái tâm lý học này lấy triết học Mác–Lênin làm cơ sở lý luận và phương pháp luận, xây dựng nền tâm lý học lịch sử người: coi tâm lý học là sự phản ánh thế giới khách quan vào não,

Trang 11

thông qua hoạt động Tâm lý người mang tính chủ thể, có bản chất xã hội, tâm

lý người được hình thành phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã hội Chính vì thế tâm lý học macxit được gọi là “tâm lý học hoạt động”

4 Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học

a Đối tượng của tâm lý học

Trong tác phẩm “Phép biện chứng của tự nhiên” F.Ănghen đã chỉ rõ thế giới luôn luôn vận động, mỗi một khoa học nghiên cứu một dạng vận động của thế giới Các khoa học phân tích các dạng vận động của thế giới tự nhiên thuộc nhóm khoa học tự nhiên Các khoa học phân tích các dạng vận động của xã hội thuộc nhóm các khoa học xã hội Các khoa học nghiên cứu các dạng vận động chuyển tiếp trung gian từ dạng vận động này sang dạng vận động kia được gọi là các khoa học trung gian, chẳng hạn lý sinh học, hóa sinh học, tâm lý học… Trong đó tâm lý học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp

từ vận động sinh vật sang vận động xã hội, từ thế giới khách quan vào mỗi con người sinh ra hiện tượng tâm lý – với tư cách một hiện tượng tinh thần

Như vậy đối tượng của tâm lý học là các hiện tượng tâm lý vớl tư cách

là một hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người sinh ra, gọi chung là các hoạt động tâm lý Tâm lý học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của hoạt động tâm lý

b Nhiệm vụ của tâm lý học

* Nhiệm vụ cơ bản của tâm lý học là nghiên cứu bản chất hoạt động của tâm lý, các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lý, cơ chế diễn biến và thể hiện tâm lý, quy luật về mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý, cụ thể là nghiên cứu:

+ Những yếu tố khách quan, chủ quan nào đã tạo ra tâm lý người

+ Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lý

+ Tâm lý của con người hoạt động như thế nào

Trang 12

+ Chức năng, vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người.

* Có thể nêu lên các nhiệm vụ cụ thể của tâm lý học như sau:

+ Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lý cả về mặt số lượng và chất lượng

+ Phát hiện các quy luật hình thành phát triển tâm lý

+ Tìm ra cơ chế của các hiện tượng tâm lý

Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lý học đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lý, sử dụng tâm lý trong nhân tố con người có hiệu quả nhất Để thực hiện các nhiệm vụ nói trên, tâm

lý học phải liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhiều khoa học khác

II BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ

1 Bản chất của tâm lý người

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lý người có bản chất xã hội – lịch sử

a Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua chủ thể

* Tâm lý ngườl không phải do thượng đế, do trời sinh ra, cũng không phải do não tiết ra như gan tiết ra mật, tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan và não con người thông qua “lăng kinh chủ quan”

* Thế giới khách quan tồn tại bằng các thuộc tính không gian, thời gian

và luôn vận động Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sư vật, hiện tượng đang vận động Nói một cách chung nhất: phản ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống khác, kết quả để lại dấu vết (hình ảnh), tác động ở cả hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác động, chẳng hạn:

Viên phấn được dùng để viết lên bảng đen để lại vết phấn trên bảng và ngược lại bảng đen làm mòn (để lại vết) trên viên phấn (phản ánh cơ học)

Trang 13

Hệ thống khí hyđrô tác động qua lại với hệ thống khí oxi, đó là phản ánh (phản ứng hóa học) để lại một vết chung của hai hệ thống là nước (H + O

= HO)

Phản ánh diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hóa lẫn nhau: từ phản ánh cơ, vật lý, hóa đến phản ánh sinh vật và phản ánh xã hội, trong đó có phản ánh tâm lý

* Phản ánh tâm lý là một loại phản ánh đặc biệt:

+ Đó là sự tác động của hiện thực khách quan vào con người, vào hệ thần kinh, bộ não người – tổ chức cao nhất của vật chất Chỉ có hệ thần kinh

và bộ não người mới có khả năng nhận tác động của hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinh thần (tâm lý) chứa đựng trong vết vật chất, đó là các quá trình sinh lý, sinh hóa ở trong hệ thần kinh và não bộ C.Mác nói: tinh thần, tư tưởng, tâm lý chẳng qua là vật chất được chuyển vào trong đầu óc, biến đổi trong đó mà có

+ Phán ánh tâm lý tạo ra “hình ảnh tâm lý” (bản “sao chép”, “bản chụp”)

về thế giới Hình ảnh tâm lý là kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào não Song hình ảnh tâm lý khác về chất so với các hình ảnh cơ, vật

lý, sinh vật ở chỗ:

Hình ảnh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo, thí dụ: hình ảnh tâm lý

về cuốn sách trong đầu một con người biết chữ, khác xa về chất với hình ảnh vật lý có tính chất “chết cứng”, hình ảnh vật chất của chính cuốn sách đó có ở trong gương

Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân (hay nhóm người) mang hình ảnh tâm lý đó, hay nói cách khác, hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách quan Tính chủ thể của hình ảnh tâm lý thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (về nhu cầu, xu hướng, tính khí, năng lực)… vào trong hình ảnh đó làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan

Trang 14

Hay nói khác đi, con người phản ánh thế giới bằng hình ảnh tâm lý thông qua “lăng kính chủ quan” của mình.

* Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiện ở chỗ:

– Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan, nhưng ở những chủ thể khác nhau cho ra những hình ảnh tâm lý với những mức độ sắc thái khác nhau

– Cũng có khi cùng một hiện thực khách quan tác động đến một chủ thể duy nhất nhưng vào những thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau, với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh thần khác nhau, có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và các sắc thái tâm lý khác nhau ở chủ thể ấy

– Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận, cảm nghiệm

và thể hiện nó rõ nhất Cuối cùng thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau mà một chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác nhau đối với hiện thực

Do đâu mà tâm lý người này khác tâm lý người kia về thế giới?

Điều đó do nhiều yếu tố chi phối, trước hết, do mỗi con người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh và não bộ Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục không như nhau và đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong cuộc sống Vì thế tâm lý người này khác tâm lý người kia

Từ luận điểm nói trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận thực tiễn:– Tâm lý có nguồn gốc là thế giới khách quan, vì thế khi nghiên cứu, cũng như khi hình thành, cải tạo tâm lý người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt động

– Tâm lý người mang tính chủ thể, vì thế trong dạy học giáo dục cũng như trong quan hệ ứng xử phải chú ý nguyen tắc sát đối tượng, (chú ý đến cái riêng trong tâm lý mỗi người)

Trang 15

– Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu hình thành và phát triển tâm lý con người.

b Bản chất xã hội của tâm lý người

Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan, là chức năng của não, là kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành cái riêng của một người Tâm lý con người khác xa với tâm lý của một số loài động vật cao cấp ở chỗ: tâm lý người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử

* Bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lý người thể hiện như sau:+ Tâm lý người có nguồn gốc là thế giới khách quan (thế giới tự nhiên

và xã hội, trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định (quyết định luận xã hội) Ngay cả phần tự nhiên trong thế giới cũng được xã hội hóa Phần xã hội hóa thế giới quyết định tâm lý người thể hiện qua: các quan hệ kinh tế xã hội, các mối quan hệ đạo đức, pháp quyền, các mối quan hệ con người – con người

từ quan hệ gia đình, làng xóm, quê hương, khu phố cho đến các quan hệ nhóm, các quan hệ cộng đồng,… Các mối quan hệ trên quyết định bản chất tâm lý người (bản chất con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội) Trên thực tế, con người thoát ly khỏi các quan hệ xã hội, quan hệ người – người, đều làm cho tâm lý người mất bản tính người (những trường hợp trẻ con người do động vật nuôi từ bé, tâm lý của các trẻ này không hơn hẳn tâm

lý loài vật):

+ Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người trong các mối quan hệ xã hội Con người là một thực thể tự nhiên và điều chủ yếu là một thực thể xã hội Phần tự nhiên ở con người (như đặc điểm cơ thể, giác quan, thần kinh, bộ não) được xã hội hóa ở mức cao nhất Là một thực thể xã hội, con người là chủ thể của nhận thức, chủ thể của hoạt động, giao tiếp với tư cách một chủ thể tích cực, chủ động sáng tạo, tâm lý của con người là sản phẩm của con người với tư cách là chủ thể xã hội, vì thế tâm lý người mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử của con người

Trang 16

+ Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hội, nền văn hóa xã hội, thông qua hoạt động và giao tiếp (hoạt động vui chơi, học tập, lao động công tác xã hội), trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo, hoạt động của con người và mối quan hệ giao tiếp của con người trong xã hội, có tính quyết định.

+ Tâm lý của mỗi con người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với

sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng Tâm lý của mỗi con người chịu sự chế ước bởi lịch sử của cá nhân và của cộng đồng

Tóm lại, tâm lý người có nguồn gốc xã hội, vì thế phải nghiên cứu môi trường xã hội, nền văn hóa xã hội, các quan hệ xã hội trong đó con người sống và hoạt động Cần phải tổ chức có hiệu quả các hoạt động dạy học và giáo dục, cũng như các hoạt động chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau để hình thành, phát triển tâm lý con người…

2 Chức năng của tâm lý

Hiện thực khách quan quyết định tâm lý con người, nhưng chính tâm lý con người lại tác động trở lại hiện thực bằng tính năng động sáng tạo của nó thông qua hoạt động, hành động, hành vi Mỗi hành động, hoạt động của con người đều do “cái tâm lý” điều hành Sự điều hành ấy biểu hiện qua những mặt sau:

– Tâm lý có chức năng chung là định hướng cho hoạt động, ở đây muốn nói tới vai trò động cơ, mục đích của hoạt động Động cơ có thể là một nhu cầu được nhận thức, hứng thú, lý tưởng, niềm tin, lương tâm, danh vọng…

– Tâm lý là động lực thôi thúc, lôi cuốn con người hoạt động, khắc phục mọi khó khăn vươn tới mục đích đã đề ra

– Tâm lý điều khiển, kiểm tra quá trình hoạt động bằng chương trình, kế hoạch, phương pháp, phương thức tiến hành hoạt động, làm cho hoạt động của con người trở nên có ý thức, đem lại hiệu quả nhất định

Trang 17

– Cuối cùng, tâm lý giúp con người điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với mục tiêu đã xác định, đồng thời phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực

tế cho phép

Nhờ có các chức năng định hướng, điều khiển, điều chỉnh nói trên mà tâm lý giúp con người không chỉ thích ứng với hoàn cảnh khách quan, mà còn nhận thức, cải tạo và sáng tạo ra thế giới, và chính trong quá trình đó con người nhận thức, cải tạo chính bản thân mình

Nhờ chức năng điều hành nói trên mà nhân tố tâm lý giữ vai trò cơ bản,

có tính quyết định trong hoạt động của con người

3 Phân loại hiện tượng tâm lý

Có nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm lý:

a Cách phân loại phổ biến trong các tài liệu tâm lý học là việc phân loại các hiện tượng tâm lý theo thời gian tồ tại của chúng và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách Theo cách chia này, các hiện tượng tâm lý có ba loại chính:

ta thường phân biệt thành ba quá trình tâm lý:

+ Các quá trình nhận thức gồm cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng,

tư duy

+ Các quá trình cảm xúc biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu, khó chịu, nhiệt tình hay thờ ơ…

+ Quá trình hành động, ý chí

Trang 18

* Các trạng thái thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối dài, việc mở đầu và kết thúc không rõ ràng như: chú ý, tâm trạng.

* Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách Người ta thường nói tới bốn nhóm thuộc tính tâm lý cá nhân như: xu hướng, tinh cách, khí chất và năng lực

Có thể biểu hiện mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý bằng sơ đồ sau:

b Cũng có thể phân biệt hiện tượng tâm lý thành:

– Các hiện tượng tâm lý có ý thức

– Các hiện tượng tâm lý chưa được ý thức

Chúng ta có nhiều nhận biết về các hiện tượng tâm lý có ý thức (được nhận thức, hay tự giác) Còn những hiện tượng tâm lý chưa được ý thức vẫn luôn diễn ra, nhưng ta không ý thức về nó, hoặc dưới ý thức, chưa kịp ý thức Một

số tác giả nước ngoài còn chia ý thức thành hai mức: “vô thức” là những lĩnh vực nằm ngoài ý thức, “khó lọt vào” lĩnh vực ý thức (một số bản năng vô thức, một số hành động lỡ lời, lỡ chân tay, ngủ mơ, mộng du,…) và mức độ “tiềm thức” là những hiện tượng bình thường nằm sâu trong ý thức, thỉnh thoảng trong những hoàn cảnh nhất định có thể được ý thức “chiếu rọi” tới

c Người ta còn phân biệt hiện tượng tâm lý thành:

– Hiện tượng tâm lý sống động: thể hiện trong hành vi hoạt động

tam ly

Trang 19

– Hiện tượng tâm lý tiềm tàng: tích đọng trong sản phẩm của hoạt động.

d Cũng có thể phân biệt hiện tượng tâm lý của cá nhân với hiện tượng tâm lý xã hội (phong tục, tập quán, định hình xã hội, tin đồn, dư luận xã hội, tâm trạng xã hội, “mốt”…)

Như vậy, thế giới tâm lý của con người vô cùng đa dạng và phức tạp Các hiện tượng tâm lý có nhiều mức độ, cấp độ khác nhau, có quan hệ đan xen vào nhau, chuyển hóa cho nhau

III CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÝ

1 Các nguyên tắc phương pháp luận của tâm lý học khoa học

a Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng

Nguyên tắc này khẳng định tâm lý có nguồn gốc là thế giới khách quan tác động và bộ não con người thông qua “lăng kính chủ quan” của con người Tâm lý định hướng, điều khiển, điều chỉnh hoạt động hành vi của con người tác động trở lại thế giới, trong đó các quyết định xã hội là quan trọng nhất Do

đó khi nghiên cứu tâm lý người cần thấm nhuần nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng

b Nguyên tắc thống nhất tâm lý, ý thức, nhân cách với hoạt động

Hoạt động là phương thức hình thành, phát triển và thể hiện tâm lý, ý thức, nhân cách Đồng thời tâm lý, ý thức, nhân cách là cái điều hành hoạt động Vì thế chúng thống nhất với nhau Nguyên tắc này cũng khẳng định tâm

lý luôn luôn vận động và phát triển Cần phải nghiên cứu tâm lý trong sự vận động của nó Nghiên cứu tâm lý qua sự diễn biến, cũng như qua sản phẩm của hoạt động

c Phải nghiên cứu các hiện tượng tâm lý trong mối liên hệ giữa chúng

với nhau và trong mối liên hệ giữa chúng với các loại hiện tượng khác: các hiện tượng tâm lý không tồn tại một cách biệt lập mà chúng có quan hệ chặt

Trang 20

chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, chuyển hóa cho nhau Đồng thời chúng còn chi phối và chịu sự chi phối của các hiện tượng khác.

d Phải nghiên cứu tâm lý của một con người cụ thể, của một nhóm

người cụ thể, chứ không nghiên cứu tâm lý một cách chung chung, nghiên cứu tâm lý ở một con người trừu tượng, một cộng đồng trừu tượng

2 Các phương pháp nghiên cứu tâm lý

Có nhiều phương pháp nghiên cứu tâm lý: quan sát, thực nghiệm, trắc nghiệm, trò chuyện, điều tra, nghiên cứu sản phẩm hoạt động, phân tích tiểu sử,…

a Phương pháp quan sát

Quan sát được dùng trong nhiều khoa học, trong đó có tâm lý học

– Quan sát là loại tri giác có chủ định, nhằm xác định các đặc điểm của đối tượng qua những biểu hiện như hành động, cử chỉ, cách nói năng…

– Quan sát có nhiều hình thức: quan sát toàn diện hay quan sát bộ phận, quan sát có trọng điểm, quan sát trực tiếp hay gián tiếp…

– Phương pháp quan sát cho phép chúng ta thu thập được các tài liệu

cụ thể, khách quan trong các điều kiện tự nhiên của con người Do đó nó có nhiều ưu điểm Bên cạnh các ưu điểm nó cũng có những hạn chế sau: mất thời gian, tốn nhiều công sức…

– Trong tâm lý học, cùng với việc quan sát khách quan, có khi cần tiến hành tự quan sát (tự thể nghiệm, tự mô tả diễn biến tâm lý của bản thân nhưng phải tuân theo những yêu cầu khách quan, tránh suy diễn chủ quan theo kiểu “suy bụng ta ra bụng người”) Muốn quan sát đạt kết quả cao cần chú ý các yêu cầu sau:

+ Xác định mục đích, nội dung, kế hoạch quan sát

+ Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt

+ Tiến hành quan sát một cách cẩn thận và có hệ thống

Trang 21

+ Ghi chép tài liệu quan sát một cách khách quan, trung thực…

b Phương pháp thực nghiệm

Đây là phương pháp có nhiều hiệu quả trong nghiên cứu tâm lý:

– Thực nghiệm là quá trình tác động vào đối tượng một cách chủ động, trong những điều kiện đã được khống chế, để gây ra ở đối tượng những biểu hiện về quan hệ nhân quả, tính quy luật, cơ cấu, cơ chế của chúng, có thể lặp

đi lặp lại nhiều lần và đo đạc, định lượng, định tính một cách khách quan các hiện tượng cần nghiên cứu

– Người ta thường nói tới hai loại thực nghiệm cơ bản là thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và thực nghiệm tự nhiên:

+ Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: phương pháp thực nghiệm

trong phòng thí nghiệm được tiến hành dưới điều kiện khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài, người làm thí nghiệm tự tạo ra những điều kiện để làm nảy sinh hay phát triển một nội dung tâm lý cần nghiên cứu,

do đó có thể tiến hành nghiên cứu tương đối chủ động hơn so với quan sát và thực nghiệm tự nhiên

+ Thực nghiệm tự nhiên: được tiến hành trong điều kiện bình thường của

cuộc sống và hoạt động Trong quá trình quan sát, nhà nghiên cứu chỉ thay đổi những yếu tố riêng rẽ của hoàn cảnh, còn trong thực nghiệm tự nhiên nhà nghiên cứu có thể chủ động gây ra các biểu hiện và diễn biến tâm lý bằng cách khống chế một số nhân tố không cần thiết cho việc nghiên cứu, làm nổi bật những yếu tố cần thiết có khả năng giúp cho việc khai thác, tìm hiểu các nội dung cần thực nghiệm Tùy theo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu mà người ta phân biệt các thực nghiệm tự nhiên nhận định và thực nghiệm hình thành:

* Thực nghiệm nhận định: chủ yếu nêu lên thực trạng của vấn đề

nghiên cứu ở một thời điểm cụ thể

Trang 22

* Thực nghiện hình thành: (còn gọi là thực nghiệm giáo dục) Trong đó

tiến hành các tác động giáo dục, rèn luyện nhằm hình thành một phẩm chất tâm lý nào đó ở nghiệm thể (bị thực nghiệm)

Tuy nhiên dù thực nghiệm tiến hành trong phòng thí nghiệm hoặc trong hoàn cảnh tự nhiên cũng khó có thể khống chế hoàn toàn ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan của người bị thực nghiệm, vì thế phải tiến hành thực nghiệm một số lần và phối hợp đồng bộ với nhiều phương pháp khác

+ Test trí tuệ của Binê–ximông

+ Test trí tuệ của Oatslơ (Uytxơ và Oaixơ)

+ Test trí tuệ của Ravơn

+ Test nhân cách của Ayzen, Rosat, Murây…

– Ưu điểm cơ bản của test là:

+ Test có khả năng làm cho hiện tượng tâm lý cân đo được trực tiếp bộc lộ qua hành động giải bài tập test

+ Có khả năng tiến hành nhanh, tương đối đơn giản bằng giấy, bút, tranh, vẽ

Trang 23

+ Có khả năng lượng hóa, chuẩn hóa chỉ tiêu tâm lý cần đo.

– Tuy nhiên test cũng có những khó khăn, hạn chế

+ Khó soạn thảo một bộ test đảm bảo tính chuẩn hóa

+ Test chủ yếu cho ta biết kết quả, ít bộc lộ quá trình suy nghĩ của nghiệm thể để đi đến kết quả

Cần sử dụng phương pháp test như là một trong các cách chẩn đoán tâm lý con người ở một thời điểm nhất định

d Phương pháp đàm thoại (trò chuyện)

Đó là cách đặt ra các câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của họ

để trao đổi, hỏi them, nhằm thu thập thông tin về vấn đề cần nghiên cứu:

Có thể đàm thoại trực tiếp hoặc gián tiếp tùy sự liên quan của đối tượng với điều ta cần biết Có thể hỏi thẳng hay hỏi đường vòng

Muốn đàm thoại thu được tài liệu tốt, nên:

– Xác định rõ mục đích yêu cầu (vấn đề cần tìm hiểu)

– Tìm hiểu trước thông tin về đối tượng đàm thoại với một số đặc điểm của họ

– Có một kế hoạch trước để “lái hướng” câu chuyện

– Rất nên linh hoạt trong việc “lái hướng” này để câu chuyện vừa giữ được lôgic của nó, vừa đáp ứng yêu cầu của người nghiên cứu

e Phương pháp điều tra

Là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó Có thể trả lời viết (thường là như vậy), nhưng cũng có thể trả lời miệng và có người ghi lại

Có thể điều tra thăm dò chung hoặc điều tra chuyên đề để đi sâu vào một số khía cạnh Câu hỏi dùng để điều tra có thể là câu hỏi đóng, tức là có

Trang 24

nhiều đáp án sẵn để đối tượng chọn một hay hai, cũng có thể là câu hỏi mở,

để họ tự do trả lời

Dùng phương pháp này có thể trong một thời gian ngắn thu thập được một số ý kiến của rất nhiều người nhưng là ý kiến chủ quan Để có tài liệu tương đối chính xác, cần soạn kỹ bản hướng dẫn điều tra viên (người sẽ phổ biến bản câu hỏi điều tra cho các đối tượng) vì nếu những người này phổ biến một cách tùy tiện thì kết quả sẽ rất sai khác nhau và mất hết giá trị khoa học

g Phương pháp phân tích sản phẩm của hoạt động

Đó là phương pháp dựa vào kết quả, sản phẩm (vật chất, tinh thần) của hoạt động do con người làm ra để nghiên cứu các chức năng tâm lý của con người đó bởi vì trong sản phẩm do con người làm ra có chứa đựng “dấu vết” tâm lý, ý thức, nhân cách của con người Cần chú ý rằng: các kết quả hoạt động phải được xem xét trong mối liên hệ với những điều kiện tiến hành hoạt động Trong tâm lý học có bộ phận chuyên ngành “phát kiến học” (Ơritxtic) nghiên cứu quy luật về cơ chế tâm lý của tư duy sáng tạo trong khám phá, phát minh

h Phương pháp nghiên cứu tiểu sử cá nhân

Phương pháp này xuất phát từ chỗ có thể nhận ra các đặc điểm tâm lý

cá nhân thông qua việc phân tích tiểu sử cuộc sống của cá nhân đó, góp phần cung cấp một số tài liệu cho việc chẩn đoán tâm lý

Tóm lại, các phương pháp nghiên cứu Lâm lý người khá phong phú Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định Muốn nghiên cứu một chức năng tâm lý một cách khoa học, khách quan, chính xác, cần phải:

– Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thích hợp với vấn đề nghiên cứu

– Sử dụng phối hợp, đồng bộ các phương pháp nghiên cứu để đem lại kết quả khách quan toàn diện

Trang 25

Câu hỏi hướng dẫn học tập

1 Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu tâm lý học?

2 Bản chất, hiện tượng tâm lý người?

3 Trình bày những nét cơ bản trong lịch sử hình thành và phát triển khoa học tâm lý?

Chương II CƠ SỞ TỰ NHIÊN VÀ CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA TÂM LÝ

NGƯỜI

Con người là một thực thể sinh vật – xã hội và văn hóa Cần nghiên cứu, tiếp cận con người trên cả ba mặt: sinh vật – tâm lý – xã hộl Muốn giải thích đời sống tâm lý của con người một cách khoa học và duy vật cần phải hiểu biết cơ sở tự nhiên (cơ sở vật chất, cơ sở sinh lý) và cơ sở xã hội của nó

A CƠ SỞ TỰ NHIÊN CỦA TÂM LÝ CON NGƯỜI

Bàn về cơ sở tự nhiên của tâm lý con người có nhiều vấn đề cần nghiên cứu Ở đây chúng ta chủ yếu chỉ giới hạn ở một số mối quan hệ giữa

di truyền, bộ não phản xạ có điều kiện và hệ thống tín hiệu thứ hai với tâm lý người

I DI TRUYỀN VÀ TÂM LÝ

Các đặc điểm giải phẫu sinh lý, di truyền và tư chất có liên quan đáng

kể đến tâm lý con người Chúng có vai trò nhất định trong sự hình thành và phát triển tâm lý con người

Theo sinh vật hiện đại thì:

– Di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể sống, đảm bảo sự tái tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt sinh vật đối với trước, đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi của hoàn cảnh theo một cơ chế đã định sẵn

– Đặc điểm giải phẫu sinh lý của cá thể bao gồm những yếu tố di truyền tạo nên và cả những yếu tố riêng tự tạo ra trong đời sống cá thể của sinh vật,

Trang 26

những yếu tố như thế đối với con người có ngay từ trong bào thai của người mẹ.

– Tư chất là một tổ hợp bao gồm cả những đặc điểm giải phẫu vừa là những đặc điểm chức năng tâm - sinh lý mà cá thể đã đạt trong giai đoạn phát triển nhất định dưới ảnh hưởng của môi trường sống và hoạt động, đó là các đặc điểm của giác quan, của hệ thần kinh và tạo nên tiền đề vật chất cho việc phát triển năng lực của con người

Đối với con người, mỗi một cá thể sinh ra đã nhận được theo con đường di truyền từ các thế hệ trước một số đặc điểm về cấu tạo, chức năng của cơ thể, trong đó có những đặc điểm về cấu tạo và chức năng của các giác quan và não Song vai trò của di quyền như thế nào trong sự phát triển tâm lý của con người thì có nhiều quan điểm khác nhau:

* Một số nhà tâm lý tư sản thừa nhận những đặc điểm tâm lý là những cấu tạo bẩm sinh, do tiềm năng sinh vật gây ra, mọi đặc điểm tâm lý đều do tiền định, đều có sẵn trong các cấu trúc sinh vật Sự phát triển là quá trình trưởng thành, chín muồi của các thuộc tính đã sẵn trong gen và được quyết định bằng con đường di truyền Trong thời gian gần đây người ta nói đến

“mức độ bẩm sinh của sự trang bị gen” về những thuộc tính nhân cách của năng lực được chương trình hóa, mã hóa trong gen, đồng thời cũng có chú ý tới yếu tố môi trường Chẳng hạn, nhà di truyền người Anh S.Auerbac cho rằng “… những phẩm chất của cá nhân là kết quả của sự tác động qua lại giữa yếu tố di truyền và yếu tố môi trường” (S.Auerbac: Di truyền học – Dịch

từ tiếng Anh, M Nxb Nguyên Tử, 1961) Một số nhà tâm lý học Mỹ sử dụng quan điểm của E.Toodai có từ những năm 20–30 của thế kỷ 20 đã nói đến vai trò của giáo dục trong sự phát triển tâm lý người, nhưng vẫn khẳng định rằng tiềm năng sinh vật bẩm sinh đã quy định trước giới hạn của sự phát triển tâm lý: ”tự nhiên ban cho mỗi người một vốn nhất định, giáo dục cần phải làm bộc

lộ vốn đó là cái gì và phải sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất” (E Toocdai: Những nguyên tắc giảng dạy trên cơ sở tâm lý học – Dịch từ tiếng Anh, 1929)

Trang 27

* Một số công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học tư sản tiến hành trên những trẻ sinh đôi từ một trứng, nhằm cố chứng minh vai trò quyết định của tính di truyền trong sự hình thành các phẩm chất tâm lý Nhằm chống lại quan điểm tư sản nói trên, những thí nghiệm trên trẻ sinh đôi từ một trứng do V.N.cônbanovxki, A.R.Luria, A.N.Mirenova tiến hành ở Liên Xô trước đây đã chỉ rõ: Với cơ sở bẩm sinh giống nhau, tùy thuộc vào các phương pháp giảng dạy, các trẻ sinh đôi từ một trứng thu được những kết quả khác nhau trong một số hoạt động sáng tạo khác nhau Những kết quả nghiên cứu tương tự của nhà tâm lý học Pháp R.Razjô trên trẻ sinh đôi từ một trứng đã giáng một đòn quyết định vào lý luận về tính bẩm sinh của các đặc điểm tâm lý.

* Khoa sinh vật học hiện đại chứng minh rằng bản thân di truyền cũng

bị biến đổi dưới tác động của môi trường và của hoạt động cá thể Mặt khác,

cơ thể sống càng ở bậc cao của sự tiến hóa thì tính biến dị đảm bảo cho sự thích ứng của nó đối với điều kiện sống và kinh nghiệm cá thể càng đóng vai trò lớn hơn Ngoài ra riêng đối với con người, điều kiện xã hội và kinh nghiệm

xã hội đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển tâm lý

* Tóm lại, di truyền đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành và phát triển tâm lý con người, bởi vì chính di truyền tham gia vào sự tạo thành những đặc điểm giải phẫu và sinh lý của cơ thể, trong đó có những đặc điểm giải phẫu và sinh lý của hệ thần kinh – cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý Song lý thuyết di truyền học hiện đại và các công trình nghiên cứu thực nghiệm chỉ cho phép ta khẳng định vài trò tiền đề của di truyền trong sự phát triển của cá nhân

II NÃO VÀ TÂM LÝ

Mối liên hệ giữa não và lâm lý là một trong những vấn đề cơ bản trong việc lý giải cơ sở tự nhiên, cơ sở vật chất của hiện tượng tâm lý người

Song xung quanh mối liên hệ giữa tâm lý và não cũng có nhiều quan điểm khác nhau:

Trang 28

– Quan điểm tâm lý – vật lý song song: Ngay từ thời R.Đêcac với quan

điểm nhị nguyên, các đại biểu của tâm lý học kinh nghiệm chủ nghĩa coi các quá trình sinh lý và tâm lý thường song song diễn ra trong não người, không phụ thuộc vào nhau, trong đó tâm lý được coi là hiện tượng phụ

– Quan điểm đồng nhất tâm lý với sinh lý: Đại biểu chủ nghĩa duy vật

tầm thường Đức (Búcsơnei phôtxtơ, Môlêsôt) cho rằng: tư tưởng do não tiết

ra giống như như mật do gan tiết ra

– Quan điểm duy vật: coi tâm lý và sinh lý có quan hệ chặt chẽ với

nhau, tâm lý có cơ sở vật chất là hoạt động của bộ não, nhưng tâm lý không song song hay không đồng nhất với sinh lý

Phơbách (1804-1872) nhà triết học duy vật trước Các Mác đã khẳng định: tinh thần, ý thức không thể tách rời ra khỏi não người, nó là sản vật của vật chất đã được phát triển tới mức cao nhất là bộ não V.I.Leenin đã chỉ ra rằng: “Tâm lý là cơ năng của cái phần nhỏ đặc biệt phức tạp của vật chất mà

ta gọi là bộ não của con người (V.l.Lênin: Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán Nxb ST, 1960) Tất nhiên tâm lý và sinh lý không đồng nhất với nhau: F.Ănghen cũng đã từng viết: “Chắc hẳn đến một lúc nào đó qua con đường thực nghiệm, chúng ta “sẽ quy” được tư duy thành những vận động phân tử và hóa học ở trong óc, nhưng điều đó liệu có bao quát được bản chất của tư duy chăng?” (F.Ănghen: Biện chứng của tự nhiên – Nxb Sự thật, 1971)

Các nhà tâm lý học khoa học đã chỉ ra rằng, tâm lý là chức năng của não: bộ não nhận tác động của thế giới dưới các dạng xung động thần kinh cùng những biến đổi lý hóa ở từng nơron, từng xinap, các trung khu thần kinh

ở bộ phận dưới vỏ não và vỏ não làm cho não bộ trở nên hoạt động theo quy luật thần kinh, tạo nên hiện tượng tâm lý này hay hiện tượng tâm lý kia theo

cơ chế phản xạ (nội dung là tâm lý, nhưng có cơ chế phản xạ sinh lý của não) Như vậy tâm lý là kết quả của hệ thống chức năng những hoạt động phản xạ của não Khi nảy sinh trên bộ não, cùng với quá trình sinh lý não, hiện tượng tâm lý thực hiện chức năng định hướng, điều chỉnh, điều khiển

Trang 29

hành vi của con người Xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa não và tâm lý

có nhiều vấn đề cần nghiên cứu, chẳng hạn:

– Vấn đề định khu chức năng tâm lý trong não

– Phản xạ có điều kiện và tâm lý

– Quy luật hoạt động của não và tâm lý

– Hệ thống tín hiệu thứ hai và tâm lý

III VẤN ĐỀ ĐỊNH KHU CHỨC NĂNG TÂM LÝ TRONG NÃO

Khi nói đến cơ sở tự nhiên của tâm lý, người ta thường đặt vấn đề định khu chức năng tâm lý trong não Song có nhiều quan niệm khác nhau về vấn

đề này:

* Thế kỷ thứ V, trước công nguyên có quan niệm cho rằng lý trí khu trú

ở trong đầu (não bộ), tình cảm ở ngực (tim), long đam mê ở bụng (gan)

* Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một số nhà thần kinh học cho ràng: mỗi chức năng tâm lý được định khu ở một vùng trong não: có vùng trí nhớ, vùng tưởng tượng, vùng tư duy Thậm chí có người còn nói trong não có các mấu “tư tưởng”, mấu “yêu đương”… Chẳng hạn học thuyết não tướng học của nhà bác học Đức Ph.Galơ cho rằng: tâm lý gắn chặt với một khu nhất định trên não, tạo nên các vùng: “kín đáo”, “tế nhị”, “hung hăng”, “tự ái” “thận trọng” “khéo tay”, “yêu đời”…

Thực ra trên vỏ não có các miền (hay còn gọi là vùng, hoặc thùy) (hình 1) Mỗi miền này là cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý tương ứng Một miền có thể tham gia vào nhiều hiện tượng tâm lý Các miền phục vụ cho một hiện tượng tâm lý tập hợp thành một hệ thống chức năng Hệ thống chức năng này hoạt động một cách cơ động, tùy thuộc vào yêu cầu của chủ thể, vào đặc điểm không gian, thời gian và không có tính bất di bắt dịch Trong não có sự “phân công” rất chặt chẽ giữa các vùng của vỏ não, như: vùng chẩm gọi là vùng thị giác, vùng thái dương gọi là vùng thính giác, vùng đỉnh gọi là vùng vận động, vùng trung gian giữa thái dương và vùng đỉnh là vùng

Trang 30

định hướng không gian, thời gian Ở người còn có các vùng chuyên biệt như: vùng nói (Brôca), vùng nghe hiểu tiếng nói (Vecnicke), vùng nhìn hiểu chữ viết (Đêjêrin), vùng viết ngôn ngữ Nguyên tắc “phân công” kết hợp chặt chẽ với nguyên tắc “liên kết rất nhịp nhàng, tạo nên hệ thống chức năng cơ động nói trên trong từng chức năng tâm lý Các hệ thống chức năng này được thực hiện bằng nhiều tế bào não từ các vùng, các khối của toàn bộ não tham gia: khối năng lượng bảo đảm trương lực; khối thong tin bảo đảm việc thu nhận,

xử lí và gìn giữ thông tin; khối điều khiển bảo đảm việc chương trình hóa, điều khiển, điều chỉnh, kiểm tra Các khối này liên kết chặt chẽ với nhau, cùng tham gia thực hiện hoạt động tâm lý

Một số vùng chức năng của võ não

IV PHẢN XẠ CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ TÂM LÝ

* Toàn bộ hoạt động của não là hoạt động phản xạ Thế kỷ thứ XVII R.Đêcac là người đầu tiên nêu ra khái niệm “phản xạ” và dùng phản xạ để giải thích hoạt động tâm ý Nhưng Đêcac chỉ mới nói đến hoạt động vô thức gắn với phản xạ

* I.M.Xêtrênov nhà sinh lý học Nga đã mở rộng nguyên tắc phản xạ đến toàn bộ hoạt động của não Năm 1863 ông đã viết: “Tất cả các hiện tượng

Trang 31

tâm lý, kể cả có ý thức lẫn vô thức, về nguồn gốc đều là phản xạ Theo ông phản xạ có 3 khâu chủ yếu:

+ Khâu đầu tiên là quá trình nhận kích thích bên ngoài, biến thành hưng phấn theo đường hướng tâm dẫn truyền vào não

+ Khâu giữa là quá trình thần kinh trên não và tạo ra hoạt động tâm lý.+ Khâu kết thúc dẫn truyền thần kinh từ trung ương theo đường ly tâm (dẫn ra) gây nên phản ứng của cơ thể

* I.P.Pavlov kế tục sự nghiệp của l.M.Xêtrênov, qua nhiều năm thực nghiệm đã sáng lập ra học thuyết phản xạ có điều kiện – cơ sở sinh lý của hiện tượng tâm lý

Đặc điểm của phản xạ có điều kiện:

a Phản xạ có điều kiện là phản xạ tự tạo trong đời sống từng cá thể để thích ứng với môi trường luôn luôn thay đổi, là cơ sở sinh lý của hoạt động tâm lý

b Cơ sở giải phẫu sinh lý của phản xạ có điều kiện là vỏ não và hoạt động bình thường của vỏ não

c Quá trình diễn biến của phản xạ có điều kiện là quá trình thành lập đường liên hệ thần kinh tạm thời giữa trung khu nhận kích thích có điều kiện

và đại diện của trung khu trực tiếp thực hiện phản xạ không điều kiện

d Phản xạ có điều kiện thành lập với kích thích bất kỳ, đặc biệt ở người tiếng nói là một loại kích thích đặc biệt có thể lập bất cứ một phản xạ có điều kiện nào

e Phản xạ có điều kiện báo hiệu gián tiếp kích thích không điều kiện sẽ tác động vào cơ thể

Tất cả các hiện tượng tâm lý đều có cơ sở sinh lý là phản xạ có điều kiện Hoạt động có điều kiện giúp cơ thể thích ứng với môi trường luôn luôn thay đổi

V QUY LUẬT HOẠT ĐỘNG THẦN KINH CẤP CAO VÀ TÂM LÝ

Trang 32

Sự hình thành và thể hiện tâm lý chịu sự chi phối chặt chẽ của các quy luật hoạt động thần kinh cấp cao Dưới đây là một số quy luật cơ bản đó.

1 Quy luật hoạt động theo hệ thống

Trong điều kiện tự nhiên của đời sống, các kích thích không tác động một cách riêng lẻ, chúng thường tạo thành một tổ hợp kích thích đồng thời hoặc nối tiếp đến cơ thể Mặt khác, cơ thể cũng không phản ứng một cách riêng lẻ mà phản ứng một cách tổ hợp với các kích thích đó Hoạt động tổng hợp của vỏ não cho phép hợp nhất những kích thích riêng lẻ hay không riêng

lẻ thành một hệ thống Đó là quy luật hoạt động theo hệ thống của vỏ não Các hoạt động phản xạ có điều kiện kế tiếp nhau theo một thứ tự nhất định tạo nên một hệ thống định hình động lực của vỏ não, làm cho trong não khi có một phản xạ nào đó xảy ra thì kéo theo các phản xạ khác cũng xảy ra Đó chính là cơ sở sinh lý thần kinh của xúc cảm, tình cảm, thói quen…

2 Quy luật lan tỏa và tập trung

Hưng phấn và ức chế là hai trạng thái cơ bản của hệ thần kinh Khi trên

vỏ não có một điểm (vùng) hưng phấn hoặc ức chế nào đó, thì quá trình hưng phấn ức chế đó sẽ không dừng lại ở điểm ấy, nó sẽ lan tỏa ra xung quanh Sau đó trong những điều kiện bình thường chúng tập trung vào một nơi nhất định Hai quá trình lan tỏa và tập trung xảy ra kế tiếp nhau trong một trung khu thần kinh Nhờ đó mà hình thành một hệ thống chức năng các phản xạ có điều kiện – cơ sở sinh lý của các hiện tượng tâm lý

3 Quy luật cảm ứng qua lại

Khi quá trình thần kinh cơ bản có ảnh hưởng qua lại với nhau, tạo nên quy luật cảm ứng qua lại Có bốn dạng cảm ứng qua lại cơ bản: đồng thời, tiếp diễn, dương tính và âm tính

Cảm ứng qua lại đồng thời: xảy ra giữa nhiều trung khu, hưng phấn ở điểm này gây nên ức chế ở phần kia hoặc ngược lại

– Cảm ứng qua lại tiếp diễn: ở một trung khu (hay trong một điểm) vừa

có hưng phấn, sau đó có thể chuyển sang ức chế ở chính trung khu ấy

Trang 33

– Cảm ứng dương tính: đó là hiện tượng hưng phấn làm cho ức chế sâu hơn hoặc ngược lại ức chế làm cho hưng phấn mạnh hơn.

– Ngược lại, hưng phấn gây nên ức chế; hoặc ức chế làm giảm hưng phấn, thì đó là cảm ứng âm tính

4 Quy luật phụ thuộc vào cường độ của kích thích

Trong trạng thái tỉnh táo, khỏe mạnh, bình thường của vỏ não nói chung thì độ lớn của phản ứng tỉ lệ thuận với cường độ của kích thích Ở người, sự phụ thuộc này mang tính chất tương đối vì phản ứng của con người không chỉ phụ thuộc vào kích thích mà còn phụ thuộc vào chủ thể mỗi người Mặt khác, trong trường hợp vỏ não chuyển từ trạng thái hưng phấn sang ức chế thì sự phản ứng còn tùy thuộc vào mức độ ức chế sâu hay nông của vỏ não

Tóm lại, các quy luật cơ bản nói trên của hoạt động thần kinh cấp cao

có quan hệ với nhau, cùng chi phối sự hình thành, diễn biến và biểu hiện hoạt động tâm lý của con người

VI HỆ THỐNG TÍN HIỆU THỨ HAI VÀ TÂM LÝ

Học thuyết về hai hệ thống tín hiệu là một bộ phận rất quan trọng trong học thuyết về hoạt động thần kinh cấp cao Ở động vật chỉ có tín hiệu thứ nhất, bao gồm những tín hiệu do các sự vật, hiện tượng khách quan và các thuộc tính của chúng, kể cả các hình ảnh do các tín hiệu đó tác động vào não gây ra Hệ thống tín hiệu này là cơ sở sinh lý của hoạt động cảm tính, trực quan, tư duy cụ thể và các xúc cảm cơ thể ở cả động vật và người Hệ thống tín hiệu thứ hai chỉ có ở người, đó là các tín hiệu ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết)- tín hiệu của các tín hiệu Hệ thống tín hiệu thứ hai là cơ sở sinh lý của

tư duy ngôn ngữ, ý thức, tình cảm và các chức năng tâm lý cấp cao của con người

Hai hệ thống tín hiệu có quan hệ chặt chẽ với nhau Hệ thống tín hiệu thứ nhất là cơ sở của hệ thống tín hiệu thứ hai và hệ thống tín hiệu thứ hai có

Trang 34

tác động trở lại, nhiều khi có những tác động rất lớn đến hệ thống tín hiệu thứ nhất.

Trên đây là một số vấn đề cơ bản xung quanh vấn đề cơ sở tự nhiên của tâm lý con người Con người cũng như tâm lý con người có bản chất xã hội, lịch sử Tâm lý người có cơ sở xã hội

B CƠ SỞ XÃ HỘI CỦA TÂM LÝ CON NGƯỜI

Sự phát triển của con người, cũng như sự hình thành phát triển tâm lý người không chỉ bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên của thế giới, mà chủ yếu

là chịu sự chế ước, quy định bởi những quy luật xã hội – lịch sử, trong đó có các mối quan hệ xã hội, nền văn hóa xã hội, các phương thức hoạt động và giao tiếp của con người trong xã hội

I QUAN HỆ XÃ HỘI, NỀN VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ TÂM LÝ CON NGƯỜI

Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử khẳng định: tâm lý người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử Tuy nhiên cũng có những quan điểm trái ngược với quan điểm nói trên, chẳng hạn:

* Thuyết tiến hóa thực chứng luận của G.Spenxơ (1820–1903) nhà triết

học xã hội và tâm lý học thực chứng cho rằng: con người không chỉ tồn tại trong môi trường tự nhiên mà còn tồn tại trong môi trường xã hội, sau khi chuyển lên người, các quy luật và cơ chế thích nghi của động vật, kể cả cơ chế tự tạo kinh nghiệm cá thể cũng không thay đổi, có chăng là cơ chế đó phức tạp hơn ở người E.R.Gtri (đại biểu của phái hành vi mới ở Mỹ) khẳng định việc tự tạo kinh nghiệm cá thể của người và động vật là giống như nhau, còn B.F.Skinơ thì cho rằng cái khác là ở chỗ việc học tập ở người diễn ra trong phạm vi ngôn ngữ

* Quan điểm xã hội học, trước hết là các nhà xã hội học Pháp

Đuychkhêm, Kanvac… coi xã hội tạo ra bản chất người, “xã hội là nguyên lý giải thích cá thể”, con người là một tồn tại “giao lưu chứ không phải là một tồn tại xã hội hành động, quá trình “xã hội hóa” cá thể là quá trình giao lưu ngôn ngữ, giao lưu tinh thần giữa người này với người khác, để lĩnh hội các “biểu

Trang 35

tượng xã hội”, các tập tục, lề thói… tạo ra “hành vi xã hội” J.Piagiê coi sự phát triển tâm lý là sản phẩm của sự phát triển các quan hệ của cá thể với những người xung quanh, với xã hội, là quá trình cải tổ, chuyển hóa các cấu trúc của các quá trình nhận thức vốn có của trẻ em đưa đến sự thích nghi, thích ứng Trong các nhà tâm lý học phương Tây, hai nhà tâm lý học Pháp là H.Valông (1879–1962) G.Pôlide (1903– 1942) đã coi cái xã hội trong con người không phải là cái gì trừu tượng, mà là sản phẩm hoạt động và giao lưu của các quan hệ xã hội Những quan điểm nói trên là những quan điểm tiến bộ.

* Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử:

+ Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: các quan hệ xã hội tạo nên bản chất con người C.Mác đã chỉ rõ luận điểm này trong Luận cương về Phơbach:)… bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng, tồn tại với từng cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội” Quan hệ xã hội trước hết là quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế, chế độ xã hội chính trị, quan hệ con người – con người, quan

hệ đạo đức pháp quyền… quy luật cơ bản chi phối sự phát triển xã hội loài người là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất, chứ không phải quy luật chọn lọc tự nhiên Hoạt động tâm lý của con người chịu

sự tác động của quy luật xã hội Trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo và quan trọng nhất Chỉ có sống và hoạt động trong xã hội, con người mới thực hiện được chức năng phản ánh tâm lý

+ Cơ chế chủ yếu của sự phát triển tâm lý con người là cơ chế lĩnh hội nền văn hóa xã hội Đặc điểm cơ bản của quá trình lĩnh hội là nó tạo ra ở con người những chức năng tâm lý mới, những năng lực mới Quá trình lĩnh hội là quá trình tái tạo những thuộc tính, những năng lực của loài người thành những thuộc tính, năng lực của cá thể mỗi người, hay nói khác đi thông qua

cơ chế lĩnh hội mà con người tổng hòa các quan hệ xã hội, nền văn hóa xã hội thành bản chất người, tâm lý con người

II HOẠT ĐỘNG VÀ TÂM LÝ

Trang 36

Cuộc sống của con người là một chuỗi những hoạt động giao lưu kế tiếp nhau, đan xen vào nhau Con người muốn sống, muốn tồn tại phải hoạt động Vậy là hoạt động gì? Hoạt động có vai trò như thế nào đối với sự hình thành phát triển tâm lý?

1 Khái niệm chung về hoạt động

a Hoạt động là gì?

Có nhiêu cách định nghĩa khác nhau về hoạt động

* Thông thường người ta coi hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thân kinh và cơ bắp của con người tác động vào hiện thực khách quan, nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình

* Về phương diện triết học, tâm lý học người ta quan niệm hoạt động là phương thức tồn tại của con người trong thế giới

Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới cả về phía con người (chủ thể)

Trong mối quan hệ đó có hai quá trình diễn ra đồng thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau:

+ Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hóa trong đó chủ thể chuyển

năng lực của mình thành sản phẩm của hoạt động, hay nói khác đi tâm lý của con người (của chủ thể) được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm

Quá trình đối tượng hóa (khách thể hoá) còn gọi là quá trình xuất tâm

+ Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hóa, có nghĩa là khi hoạt động

con người chuyển từ phía khách thể và bản thân mình những quy luật, bản chất của thế giới tạo nên tâm lý, ý thức, nhân cách của bản thân, bằng cách chiếm lĩnh (lĩnh hội) thế giới

Quá trình chủ thể hóa còn gọi là quá trình nhập tâm

Trang 37

Như vậy là trong hoạt động con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới vừa tạo ra tâm lý của mình, hay nói khác đi, tâm lý, ý thức, nhân cách được bộc lộ và hình thành trong hoạt động.

b Những đặc điểm của hoạt động

– Hoạt động bao giờ cũng là “hoạt động có đối tượng”: đối tượng của hoạt động là cái con người cần làm ra, cần chiếm lĩnh Đó là động cơ Động

cơ luôn thúc đẩy con người hoạt động nhằm tác động vào khách thể để thay đổi nó biến thành sản phẩm hoặc tiếp nhận nó chuyển vào đầu óc mình tạo nên một cấu tạo tâm lý mới, một năng lực mới…

– Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể Hoạt động do chủ thể thực hiện, chủ thể hoạt động có thể là một hoặc nhiều người

– Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích: Mục đích của hoạt động là làm biến đổi thế giới (khách thể) và biến đổi bản thân chủ thể Tính mục đích gắn liền với tính đối tượng Tính mục đích bị chế ước bởi nội dung xã hội

– Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp Trong hoạt động, con người “gián tiếp” tác động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý ở trong đầu, gián tiếp qua việc sử dụng công cụ lao động và sử dụng phương tiện ngôn ngữ Như vậy công cụ tâm lý, ngôn ngữ và công cụ lao động giữ chức năng trung gian giữa chủ thể và khách thể, tạo ra tính gián tiếp của hoạt động

2 Các loại hoạt động

Có nhiều cách phân loại hoạt động

a Xét về phương diện cá thể, ta thấy ở con người có bốn loại hoạt

động: vui chơi, học tập, lao động và hoạt động xã hội

b Xét về phương diện sản phẩm (vật chất hay tinh thần), người ta chia

thành hai loại hoạt động lớn:

– Hoạt động thực tiễn: hướng vào vật thể hay quan hệ, tạo ra sản phẩm vật chất là chủ yếu

Trang 38

– Hoạt động lý luận: diễn ra với hình ảnh, biểu tượng, khái niệm… tạo

ra sản phẩm tinh thần

c Còn có cách phân loại khác, chia hoạt động thành bốn loại:

– Hoạt động biến đổi

– Hoạt động nhận thức.

– Hoạt động định hướng giá trị

– Hoạt động giao lưu

3 Cấu trúc của hoạt động

– Chủ nghĩa hành vi cho rằng: hoạt động của con người và động vật có cấu trúc chung là: kịch thích – phản ứng (S–R)

– Trong tâm lý học có lúc người ta chỉ xét cấu trúc hoạt động bao gồm các thành tố diễn ra ở phía con người (chủ thể) thuộc các thành tố đơn vị thao tác của hoạt động Hoạt động có cấu trúc như sau: hoạt động – hành động- thao tác

– Quan điểm của A.N Leonchiev về cấu trúc vĩ mô của hoạt động: trên

cơ sở nghiên cứu thực nghiệm trong nhiều năm Nhà tâm lý học Xô Viết nổi tiếng A.N Leonchiev đã nêu lên cấu trúc vĩ mô của hoạt động, bao gồm 6 thành tố và mối quan hệ giữa 6 thành tố này

Khi tiến hành hoạt động: về phía chủ thể bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa 3 thành tố này, đó là: hoạt động – hành động – thao tác Ba thành tố này thuộc vào đơn vị thao tác (mặt kỹ thuật) của hoạt động; còn về phía khách thể (về phía đối tượng hoạt động) bao gồm 3 thành tố và mối quan hệ giữa chúng với nhau, đó là: động cơ – mục đích – phương tiện Ba thành tố này tạo nên “nội dung đối tượng” của hoạt động (mặt tâm lý) Cụ thể là: hoạt động hợp bởi các hành động Các hành động diễn ra bằng các thao tác Hoạt động luôn luôn hướng vào động cơ (nằm trong đối tượng) đó là mục đích chung, mục đích cuối cùng của hoạt động, mục đích chung này (động cơ) được cụ thể bằng những mục đích cụ thể, mục đích bộ phận mà từng

Trang 39

hoạt động hướng vào Để đạt mục đích, con người phải sử dụng các phương tiện Tùy theo các điều kiện, phương tiện mà con người thực hiện các thao tác để tiến hành hành động đạt mục đích, hay nói khác đi, hành động thực hiện nhờ các thao tác Sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, giữa đơn vị thao tác và nội dung đối tượng của hoạt động, tạo ra sản phẩm của hoạt động (cả về phía chủ thể, cả về phía khách thể - “sản phẩm kép”) Có thể khái quát cấu trúc chung của hoạt động như sau:

III GIAO TIẾP VÀ TÂM LÝ

Sống trong xã hội, con người không chỉ có quan hệ với thế giới sự vật hiện tượng bằng hoạt động có đối tượng, mà còn có quan hệ giữa con người với con người, giữa con người và xã hội – đó là quan hệ giao tiếp

1 Giao tiếp là gì?

Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau ảnh hưởng tác động qua lại với nhau Hay nói khác đi, giao tiếp xác lập và vận hành các quan hệ người – người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác:

Mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người có thể xảy ra với các hình thức khác nhau:

– Giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân

– Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm

– Giao tiếp giữa nhóm với nhóm, giữa nhóm với cộng đồng…

Trang 40

2 Các loại giao tiếp

Có nhiều cách phân loại giao tiếp

a Theo phương tiện giao tiếp, có thể có 3 loại giao tiếp sau:

– Giao tiếp vật chất: giao tiếp thông qua hành động với tập thể

– Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngôn ngữ như giao tiếp bằng cử chỉ, điệu

bộ, nét mặt…

– Giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết): đây là hình thức giao tiếp đặc trưng của con người, xác lập và vận hành mối quan hệ người – người trong xã hội

b Theo khoảng cách, có thể có hai loại giao tiếp cơ bản:

– Giao tiếp trực tiếp: giao tiếp mặt đối mặt, các chủ thể trực tiếp phát và nhận tín hiệu với nhau

– Giao tiếp gián tiếp: qua thư từ, có khi qua ngoại cảm, thần giao cách cảm…

c Theo quy cách, người ta chia giao tiếp thành hai loại:

– Giao tiếp chính thức: giao tiếp nhằm thực hiện nhiệm vụ chung theo chức trách, quy định, thể chế:

– Giao tiếp không chính thức: là giao tiếp giữa những người hiểu biết rõ

về nhau, không câu nệ vào thể thức, mà theo kiểu thân tình nhằm mục đích chính là thông cảm, đồng cảm với nhau

Các loại giao tiếp nói trên luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho mối quan hệ giao tiếp của con người vô cùng đa dạng và phong phú

3 Quan hệ giao tiếp và hoạt động

* Nhiều nhà tâm lý học cho rằng giao tiếp như một dạng đặc biệt của hoạt động: giao tiếp cũng diễn ra bằng các hành động và có cả các thao tác

cụ thể, sử dụng các phương tiện khác nhau, nhằm đạt những mục đích xác định, thỏa mãn các nhu cầu cụ thể, tức là được thúc đẩy bởi động cơ

Từ khóa » Nguyễn Quang Uẩn Giáo Trình Tâm Lý Học đại Cương