Giới Thiệu Khái Quát Huyện Krông Ana - Tỉnh Đắk Lắk

Giới thiệu khái quát huyện Krông Ana Giới thiệu khái quát huyện Krông Ana

1. Vị trí địa lý

Huyện Krông Ana nằm phía Tây Nam của tỉnh Đắk Lắk, có toạ độ địa lý từ 12o23’51” đến 12o35’40” độ vĩ Bắc, từ 107o53’04” đến 108o10’38” độ kinh Đông.

2. Địa hình, địa mạo

Địa hình có dạng đồng bằng được bao quanh bởi các dãy núi cao dọc theo các tuyến địa giới hành chính với các huyện Lắk, Krông Bông, Cư Kuin và thành phố Buôn Ma Thuột. Do đây là nơi hội tụ của hai con sông lớn Krông Ana và Krông Nô để hình thành dòng sông Srêpốk, tạo nên những cánh đồng phù sa màu mỡ; phân bố chủ yếu ở trung tâm, phía Tây và phía Nam của huyện. Giáp ranh với các huyện khác địa hình cao dần, xuất hiện nhiều đồi bát úp tiếp giáp với vùng cao nguyên Buôn Ma Thuột. Địa hình của huyện có xu hướng thấp dần từ Đông Nam xuống Tây Bắc, độ cao trung bình 400 – 500 m so với mặt bước biển, tương đối bằng phẳng thích hợp xây dựng những cánh đồng canh tác lúa nước, ngô và phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày.

3. Khí hậu

Theo số liệu của Trung tâm dự báo khí tượng thuỷ văn ĐắkLắk. Huyện Krông Ana chịu ảnh hưởng chung của chế độ khí hậu gió mùa Tây Nam, mang tính chất khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, ít biến động trong năm, phân bố nhiệt theo không gian khá đồng đều và giảm theo độ cao địa hình, ngoài ra khí hậu huyện hình thành vùng tiểu khí hậu có nét đặc thù của vùng trũng.

Mỗi năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10, tập trung trên 94% lượng mưa hàng năm; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau, lượng mưa không đáng kể, trong đó tháng 2 hầu như không mưa, lượng mưa trung bình thấp hơn so với các vùng xung quanh, nguyên nhân do bị che khuất bởi dãy núi Chư Yang Sin ở phía Đông Nam. Riêng chế độ mưa ở các xã như Bình Hòa, Quảng Điền, Dur Kmăl có lượng mưa từ 1.900 mm – 2.100 mm, cao hơn so với các xã khác trên địa bàn.

– Nhiệt độ trung bình năm: 23 – 24oC

– Lượng mưa bình quân hàng năm: 1.740 – 1.780 mm

– Độ ẩm tương đối hàng năm: 81 – 83%

– Hướng gió thịnh hành mùa mưa là Tây Nam, hướng gió thịnh hành mùa khô là Đông Bắc, tốc độ gió bình quân 2,4 -5,4 m/s, hầu như không có bão.

Nhìn chung đặc điểm khí hậu khu vực thuận lợi cho việc phát triển của nhiều loại cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên do thời tiết phân chia 2 mùa rõ rệt và chế độ lũ của sông Krông Ana, Krông Nô mặc dù đã được xây dựng hệ thống đê bao nhưng hàng năm vẫn chịu ảnh hưởng của các đợt lũ lớn, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của người dân địa phương.

4. Thủy văn

Mật độ sông suối trên địa bàn 0,64 – 0,80 km/km2. Huyện Krông Ana nằm trong lưu vực sông Srêpôk, do 2 nhánh Krông Ana và Krông Knô hợp thành.

– Sông Krông Ana: Chảy suốt theo ranh giới phía Nam, qua các xã Bình Hòa, Quảng Điền, TT Buôn Trấp, với chiều dài 43 km, dòng chảy bình quân 125 m3/s.

– Sông Krông Knô: Chảy dọc theo ranh giới phía Tây Nam của huyện, chiều dài dòng chính khoảng 19 km, dòng chảy bình quân 115 m3/s.

– Sông Krông Ana và sông Krông Nô sau khi hợp lưu tại ngã 3 ranh giới (giữa TT Buôn Trấp, xã Ea Na và huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông) tạo nên dòng sông Srêpốk là con sông lớn nhất của tỉnh Đắk Lắk, chạy trên ranh giới phía Tây huyện Krông Ana, với chiều dài 16 km, dòng chảy bình quân 195 m3/s.

Do ảnh hưởng nhập lưu của hai sông Krông Knô và Krông Ana, có mùa lũ từ tháng 8 đến tháng 11 với tổng lượng dòng chảy chiếm 70% lượng dòng chảy năm. Tổng lượng dòng chảy mùa kiệt (tháng 1-7) chiếm 30% lượng dòng chảy năm. Ba tháng kiệt nhất (2, 3, 4) chỉ chiếm 6,6%.

Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có hệ thống sông suối, các sình lầy tự nhiên và hồ đập thủy lợi với diện tích trên 1.000 ha, với nhiều loại động thực vật phong phú, cảnh quan sinh thái đa dạng, có giá trị lớn trong việc cung cấp nước tưới cho đồng ruộng và nuôi trồng thuỷ sản.

5. Các nguồn tài nguyên

a. Tài nguyên đất

Theo kết quả điều tra đất của Viện QH & TKNN năm 1980 được chuyển đổi sang hệ thống phân loại đất quốc tế FAO – UNESCO năm 1995 và kết quả phân loại lại theo phương pháp phân loại World Reference Base (WRB) của Viện QH & TKNN phối hợp với trường Đại Học Leuven (Vương Quốc Bỉ) năm 1999. Tài nguyên đất huyện Krông Ana được chia thành 9 nhóm và 21 đơn vị đất đai.

Bảng 1.1. Thống kê nhóm đất, loại đất huyện Krông Ana.

TT Tên đất Ký hiệu Diện tích (ha) Tỷ lệ %
1 Nhóm đất phù sa (Fluvisols) P 45 0,1
2 Nhóm đất Gley (Gleysols) GL 7.058 19,8
3 Nhóm đất đen (Luvisols) R 352 1,0
4 Nhóm đất xám (Acrisols) X 11.401 32,0
5 Nhóm đất đỏ (Ferralsols) Fd 11.415 32,1
6 Nhóm đất nâu thẫm (Phaeozems) PH 18 0,1
7 Nhóm đất mới biến đổi (Cambisols) CM 1.664 4,7
8 Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá (Leptosols) E 2.475 7,0
9 Sông hồ W 1.162 3,3
Tổng diện tích 35.590 100,0

Nguồn: Tổng hợp từ Bản đồ đất ĐắkLắk – Viện QHTKNN (1999)

– Nhóm đất phù sa (Fluvisols)

Diện tích khoảng 45 ha, chiếm 0,1% tổng diện tích tự nhiên. Đất được hình thành do sự bồi lắng phù sa của các sông suối, phân bố ven sông Krông Ana, Krông Nô, tính chất của đất phụ thuộc vào sản phẩm phong hóa của các mẫu chất tạo đất của vùng thượng nguồn từng lưu vực, thời gian, điều kiện và vị trí bồi lắng…

Đặc điểm cơ bản: đất có tính phân lớp rõ, biểu hiện của sự bồi tụ phù sa sông theo chu kỳ tới độ sâu 120 – 125 cm, thành phần cơ giới thịt pha sét, xuống sâu hơn đất có thành phần cơ giới cát hoặc lẫn sỏi sạn, toàn phẫu diện có màu nâu sẫm, giàu mùn (OC% > 1,5), độ no Bazơ cao (> 80%), phản ứng đất chua (pHKCL: 4,5 – 5,0). Hàm lượng lân tổng số giàu (P2O5 tổng số: > 0,1%), hàm lượng lân dễ tiêu rất nghèo (P2O5 dễ tiêu < 1,0 mg/100g đất), dung tích cation trao đổi cao, CEC: > 20 meq/100g đất. Đây là nhóm đất tốt về tính chất hoá, lý và được phân bố ở các địa hình bằng phẳng.

– Nhóm đất Gley (Gleysols)

Diện tích 7.058 ha, chiếm 19,8% diện tích tự nhiên, phân bố dọc theo các vùng trũng sông Krông Nô, Krông Ana và rải rác ở các vùng ngập nước quanh năm, gồm có 03 loại đất.

Đất Gley phân bố ở độ dốc thấp dưới 80, trong đó chủ yếu có độ dốc <30, đất có tầng dày lớn, đất có nguồn gốc thuỷ thành (có sự bồi tụ từ các sườn đồi) nên thành phần cơ giới trong các tầng đất không thể hiện bất cứ sự phân hoá có quy luật nào; ở tầng đất 25 – 43 cm, tỷ lệ sét tăng đột ngột (30,4%) sau đó giảm xuống 11,6 tới độ sâu 92 cm, tỷ lệ sét lại tăng cao (73,8%). Đất có độ bão hoà Bazơ thấp (< 50%), dung tích cation trao đổi thấp (CEC: < 10 meq/100g đất). Mực nước ngầm nông, đất bị Gley hoá toàn phẫu diện, quá trình khử trong đất là chủ đạo, do tầng đất dưới 92 cm có tỷ lệ sét cao nên đất có khả năng giữ nước tốt. Đất có độ phì tự nhiên thấp, tuy nhiên do điều kiện địa hình thấp, giữ nước tốt, thành phần cơ giới khá mịn phù hợp phát triển cây trồng hệ canh tác nước.

– Nhóm đất đen (Luvisols)

Diện tích là 352 ha, chiếm 1,0% diện tích tự nhiên, phân bố tại xã Dur Kmăl.

Tầng đất canh tác có hàm lượng mùn và đạm tổng số cao (OC > 1%, N%: 0,15%), xuống sâu giảm dần. Hàm lượng lân tổng số nghèo, hàm lượng lân dễ tiêu rất nghèo (P2O5 tổng số: 0,03 – 0,05 %, P2O5 dễ tiêu: < 1,0 mg/100g đất), độ bão hoà Bazơ cao (> 50%), dung tích cation trao đổi cao (CEC > 24 meq/100g đất). Tầng mặt bị úng nước dẫn tới sự phân huỷ hoặc rửa trôi sét xuống tầng sâu hơn.

– Nhóm đất xám (Acrisols)

Nhóm đất xám (Acrisols) hay còn gọi là đất chua mạnh hoạt tính thấp, diện tích 11.401 ha, chiếm 32,0% diện tích tự nhiên, gốm có 6 loại đất, phân bố ở hầu hết các xã, trên nhiều dạng địa hình nhưng chủ yếu trên đất dốc.

Đất xám là nhóm đất đã phát triển, hình thành trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm. Về bản chất có độ phì rất thấp, phản ứng đất rất chua, pHKCL < 4,0, độ no Bazơ thấp (< 20%), hàm lượng lân tổng số nghèo, lân dễ tiêu rất nghèo (P2O5 tổng số 0,03 – 0,05%, P2O5 dễ tiêu < 1,0 mg/100g đất).

– Nhóm đất đỏ (Ferralsols)

Diện tích 11.415 ha, chiếm 32,1% diện tích tự nhiên, đây là loại đất có diện tích lớn nhất trên địa bàn. Phân bố tập trung tại các khối Bazan. Nhóm đất này có 6 đơn vị phân loại. Đất được phân bố tập trung ở các xã Ea Na, Ea Bông, Băng Adrênh, thị trấn Buôn Trấp,… Bề mặt tương đối rất bằng phẳng.

Đất đỏ hình thành và phát triển trên các cao nguyên Bazan phần lớn có độ dốc thấp, tầng đất mịn dày, có thành phần cơ giới nặng (tỷ lệ sét > 40%), tơi xốp khi ẩm, độ xốp trung bình 62 – 65%, khả năng giữ nước và hấp thu nước tốt… Rất thích hợp với các loại cây công nghiệp dài ngày có giá trị hàng hoá cao: cà phê, tiêu và những cây ăn quả khác…

– Nhóm đất nâu thẫm (Phaeozems)

Diện tích 18 ha (chiếm 0,1% diện tích tự nhiên), nhóm đất này thường phân bố trên loại đất nâu thẫm phát triển trên đá bọt Bazan, ở vùng rìa cao nguyên Bazan, ở chân gò đồi Bazan, có độ dốc thấp. Đất có hàm lượng dinh dưỡng cao: giàu mùn (OC > 1,0% toàn phẫu diện), đạm tổng số giàu (N: > 0,2%), hàm lượng lân tổng số giàu, lân dễ tiêu rất nghèo (P2O5 tổng số: > c0,2%, P2O5dễ tiêu < 1,0 mg/100g đất), dung tích cation trao đổi cao (CEC > c24 meq/100g đất), phản ứng đất chua (pHKCL: 5,2 – 5,6), độ bão hoà Bazơ cao (> 80%). Thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình. Điểm hạn chế của nhóm đất này là tầng đất mịn không dày, lẫn nhiều sỏi sạn.

– Nhóm đất mới biến đổi (Cambisols)

Diện tích 1.664 ha, chiếm 4,7% diện tích tự nhiên của huyện.

– Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá (Leptosols)

Diện tích 2.475ha, chiếm 7,0% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở Dur Kmăl. Đất được hình thành do kết quả của quá trình xói mòn đất do dòng nước mặt. Đặc trưng cơ bản của loại đất này là tầng đất mịn < 25 cm.

Như vậy, nguồn tài nguyên đất của huyện Krông Ana khá đa dạng, hầu hết các loại đất chính trong tỉnh đều có trên địa bàn huyện, trong đó nhóm đất Bazan là loại đất phù hợp với nhiều loại cây công nghiệp dài ngày, cho năng suất cao và phẩm chất tốt. Nhóm đất gley tạo nên những cánh đồng lúa nước với diện tích trên 6.400 ha cung cấp lương thực cho huyện và các địa phương khác. Ngoài ra, cấu trúc địa chất đã tạo nên những sản phẩm khoáng sản tự nhiên như sét, cát, than bùn có chất lượng tốt cung cấp cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng đang phát triển mạnh mẽ trên địa bàn.

b. Tài nguyên nước

– Nước mặt

Krông Ana nằm trong lưu vực sông Srêpốk, hàng năm cung cấp khoảng 9 tỷ m3 nước mặt, đây là điều kiện thuận lợi phát triển thủy điện lớn trên địa bàn (công trình thủy điện Buôn Kuốp xây dựng trên sông Srêpốk có công suất lắp máy khoảng 280MW). Ngoài ra hệ thống sông suối nhỏ cũng cung cấp nguồn nước đáng kể cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân.

– Nước ngầm

Theo kết quả lập bản đồ Địa chất thuỷ văn của Liên Đoàn ĐCTV- ĐCCT Miền Trung, Krông Ana thuộc phức hệ chứa nước khe nứt – vỉa, các thành tạo trầm tích Neogen (N3– N2), thành tạo trong diện tích phân bố hẹp, độ sâu từ 30-50 m, nước phức hệ này rất phong phú trong các lớp hạt thô, lưu lượng 1,01-7,7 l/s, phân bố dọc theo các sông lớn. Hiện nay có trên 80% dân cư sử dụng nguồn nước ngầm cho sinh hoạt hàng ngày và hàng ngàn ha cà phê, hoa màu đều sử dụng nguồn nước ngầm từ các giếng đào, giếng khoan.

c. Tài nguyên rừng

Theo thống kê đất đai và kết quả rà soát quy hoạch lại 3 loại rừng của tỉnh ĐắkLắk, quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng tính đến nay toàn huyện có 5.963,02 ha đất lâm nghiệp, chiếm 16,7% diện tích đất tự nhiên. Trong đó diện tích rừng tự nhiên sản xuất 3.756,69 ha chiếm 62,99% diện tích đất lâm nghiệp; diện tích rừng tự nhiên phòng hộ 436,53 ha chiếm 7,31% diện tích đất lâm nghiệp, tập trung ở xã Dray Sáp, TT Buôn Trấp; diện tích đất có rừng tự nhiên đặc dụng 1.769,80 ha chiếm 29,7% diện tích đất lâm nghiệp, phân bố ở xã Bình Hoà (thuộc khu bảo tồn Nam Ka). Trạng thái rừng chủ yếu là rừng trung bình, rừng nghèo và rừng phục hồi. Độ che phủ của rừng trên địa bàn huyện là 16,7%.

d. Tài nguyên khoáng sản

* Nguyên liệu sét:

Với hơn 194 ha vùng nguyên liệu sét và gần 100 cơ sở khai thác sản xuất gạch, huyện Krông Ana đứng đầu toàn tỉnh về sản xuất gạch. Các cơ sở này tập trung chủ yếu ở thị trấn Buôn Trấp, xã Ea Bông, sản lượng 260 triệu viên/năm, cung cấp đủ cho nhu cầu xây dựng của huyện và phần lớn cho nhu cầu của tỉnh. Theo số liệu khảo sát của Trung tâm tư vấn Tài nguyên và Môi trường năm 2008, mỏ sét Krông Ana tập trung ở các xã Ea Bông, Buôn Trấp, Bình Hòa, Ea Na, Quảng Điền, trữ lượng cấp (B+C) khoảng 29,5 triệu m3, diện tích phân bố khoảng 1.290 ha, chất lượng tốt, thích hợp cho việc bố trí xây dựng lò gạch tuy nel với quy mô lớn, chất lượng cao.

* Cát xây dựng:

Huyện có tiềm năng lớn về khai thác cát xây dựng, cát hiện đang được khai thác tại các khu vực dọc sông Krông Nô và Krông Ana với trữ lượng khá lớn khoảng 2-300.000 m3/năm. Qua phân tích cho thấy cát ở đây có trữ lượng và chất lượng tốt. Các điểm tập kết, phân phối cát chính là Buôn Trấp, Bình Hoà và Quỳnh Ngọc (xã Ea Na).

* Than bùn:

Trên địa bàn huyện có 01 điểm than bùn tại xã Ea Bông: Khu vực rộng khoảng 50 ha, nước ngập thường xuyên, chưa được thăm dò, đánh giá trữ lượng.

Ngoài ra, huyện có mỏ đá xây dựng tại xã Ea Na, khai thác khoảng 200.000 m3/năm, có biểu hiện nguồn đá Saphir ở khu thực nghiệm của Trường Đại học Tây nguyên (thuộc xã Dur Kmăl).

6. Thực trạng cảnh quan môi trường

Với đặc điểm phát triển kinh tế – xã hội theo hướng nông – lâm nghiệp, dịch vụ – du lịch và công nghiệp – xây dựng, cảnh quan thiên nhiên của huyện đã bị tác động mạnh mẽ, môi trường đã có dấu hiệu bị ô nhiễm do các hoạt động chặt phá rừng, quá trình đô thị hóa và du lịch, sản xuất nông – lâm nghiệp,…. Các biện pháp kiềm chế ô nhiễm môi trường không theo kịp đà phát triển nên hiệu quả quản lý và bảo vệ môi trường chưa cao.

Môi trường nước có nguy cơ bị ô nhiễm do nước thải các khu dân cư, các công trình vệ sinh phần lớn là tự chảy, tự thấm, nước thấm từ các bãi rác không được qua xử lý gây ô nhiễm mạch nước ngầm ở tầng nông, đồng thời việc thu gom các loại rác sinh hoạt không triệt để cũng dẫn đến sự ô nhiễm môi trường đất.

Môi trường không khí mặc dù chưa bị ô nhiễm, nhưng các hoạt động sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, các hoạt động giao thông vận tải sẽ là những tác nhân sản sinh ra các chất ô nhiễm như bụi, CO2… hơi xăng dầu và tiếng ồn.

Ngoài ra, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp việc sử dụng các loại hoá chất như phân hoá học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ,… cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất và phá vỡ cân bằng sinh thái tự nhiên.

Từ các đặc điểm trên, trong giai đoạn tới cùng với quá trình khai thác các nguồn lợi để phát triển kinh tế – xã hội cần có các biện pháp bảo vệ và trồng rừng, quản lý khai thác các nguồn tài nguyên, tổ chức xử lý chất thải, nước thải trên từng địa bàn, đặc biệt ở các khu khai thác vật liệu xây dựng, cụm, điểm công nghiệp và đô thị.

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

1. Về kinh tế

– Tổng giá trị sản xuất đến năm 2020 (theo giá so sánh 2010) là 4.553.000 triệu đồng, trong đó: Nông – lâm nghiệp là 2.016.000 triệu đồng, Công nghiệp – Xây dựng là 1.287.000 triệu đồng, Thương mại – Dịch vụ là 1.250.000 triệu đồng.

– Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm (giá so sánh năm 2010) là 9,5% trở lên, trong đó: Nông – lâm nghiệp tăng 4,2%; Công nghiệp – Xây dựng tăng 15%; Thương mại – Dịch vụ tăng 15,46%.

– Cơ cấu kinh tế của huyện đến cuối năm 2020 (theo giá so sánh 2010): Nông nghiệp: 44,26%; Công nghiệp – Xây dựng: 28,3%; Thương mại – Dịch vụ: 27,44%.

– Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm (2016 – 2020) là 6.000.000 triệu đồng.

– Giá trị sản xuất bình quân đầu người đến năm 2020 (theo giá so sánh 2010) đạt 49,55 triệu đồng.

– Diện tích gieo trồng cây hàng năm là 16.000 ha; cây lâu năm là 11.700 ha. Sản lượng lương thực cây có hạt đạt 93.200 tấn; sản lượng cà phê nhân 25.000 tấn.

– Thu cân đối ngân sách trên địa bàn huyện tăng bình quân hàng năm 5% trở lên, trong đó thu thuế, phí, lệ phí tăng bình quân hàng năm 8%. Chi cân đối ngân sách tăng bình quân hàng năm 14%.

– Về xây dựng kết cấu hạ tầng đến cuối năm 2020:

+ Thủy lợi: đảm bảo tưới chủ động cho 95% diện tích cây trồng có nhu cầu.

+ Giao thông: nhựa hóa và cứng hóa 70% đường xã; 40% nhựa hóa, cứng hóa đường thôn, buôn; 100% nhựa hóa, bê tông hóa đường đô thị; 100% nhựa hóa, bê tông hóa đường huyện.

+ Điện: có 100% số hộ được dùng điện.

– Về xây dựng nông thôn mới: đến năm 2020 có 60% trở lên số xã đạt chuẩn nông thôn mới.

2. Về quản lý tài nguyên, môi trường đến cuối năm 2020

– Cấp GCNQSD đất đạt 96% tổng diện tích có nhu cầu.

– Tỷ lệ độ che phủ rừng 26% trở lên.

– Có 70% trở lên hộ dân ở nội thị được cung cấp nước sạch. Có 98% hộ dân ở nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.

– Tỷ lệ chất thải rắn ở thị trấn Buôn Trấp được xử lý 80% trở lên.

3. Về văn hoá – xã hội

– Giáo dục và Đào tạo:100% số xã, thị trấn duy trìkết quảđạt chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS; 100% cán bộ, giáo viên của ngành có trình độ chuyên môn đạt chuẩn trở lên. Phấn đấu mỗi năm xây dựng 01 trường trở lên đạt chuẩn quốc gia.

– Y tế, dân số: Phấn đấu 100% trạm y tế cơ sở được duy trì chuẩn quốc gia một cách bền vững. 100% trạm y tế có đủ nhân lực và cơ sở hạ tầng đạt chuẩn quốc gia. Giảm tỷ suất sinh bình quân hàng năm từ 0,2-0,4‰; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đến năm 2020 còn 1,0%; quy mô dân số của huyện đến 2020 là 91.900 người; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi còn 16%.

– Về văn hóa – thông tin: Đến năm 2020, có 82% gia đình được công nhận gia đình văn hóa; 95% cơ quan, đơn vị đạt cơ quan, đơn vị văn hóa; 75,34% số thôn, buôn đạt thôn, buôn văn hóa; duy trì 100% xã, thị trấn có trạm Đài truyền thanh cơ sở hoạt động có hiệu quả và 100% số xã được phủ sóng truyền thanh, có 98% số hộ được nghe đài, xem truyền hình; 100% nhà sinh hoạt cộng đồng của các buôn đồng bào dân tộc thiểu số được đầu tư, nâng cấp, trang bị các thiết bị âm thanh, nhạc cụ,…phục vụ nhu cầu sinh hoạt, vui chơi, giải trí của nhân dân, 100% thôn, tổ dân phố có hội trường hoặc điểm sinh hoạt văn hoá; 100% thôn, buôn, tổ dân phố có điểm truy cập Internet.

– Lao động – thương binh và xã hội: hàng năm giải quyết việc làm khoảng 3.000 lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo là 35% so với tổng số lao động của huyện. Giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm từ 2-3%.

4. Về quốc phòng – an ninh

– Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ hàng năm đạt 1,22% trở lên so với dân số. Biên chế, sắp xếp lực lượng dự bị động viên đủ 100 đầu mối, với quân số đạt 95% trở lên. Tuyển quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu tỉnh giao.

– Tỷ lệ điều tra làm rõ các vụ án hình sự đạt từ 85% trở lên; các vụ án nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt từ 95% trở lên. Tai nạn giao thông giảm 10% trở lên trên cả 3 tiêu chí.

Từ khóa » Dân Số Huyện Krông Ana