Giới Thiệu Khái Quát Huyện Lộc Bình - Tỉnh Lạng Sơn

Giới thiệu khái quát huyện Lộc Bình Giới thiệu khái quát huyện Lộc Bình

Lộc Bình là một vùng đất đai biên cương phía Đông Bắc của Tổ quốc Việt Nam. Trải qua nhiều thời kỳ xây dựng và phát triển dưới các triều đại phong kiến, vùng đất quê hương đã mang nhiều tên gọi khác nhau: Tân Yên, Như Ngạo, Đơn Ba, Lộc Châu và Tây Bình Châu. Đến Triều Lê (1490), chính thức có tên gọi đơn vị hành chính Lộc Bình thuộc phủ Tràng Khánh. Dưới triều Nguyễn cho đến trước khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Lộc Bình được sắp đặt thành một châu. Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (02/9/1945) cho đến nay, Lộc Bình là một huyện ở phía Đông Nam của tỉnh Lạng Sơn.

Lộc Bình là một huyện miền núi, biên giới của tỉnh Lạng Sơn có tổng diện tích tự nhiên 98.642,7ha, chiếm 11,87% diện tích của tỉnh (theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2014), nằm về phía Đông Nam của tỉnh Lạng Sơn và cách thành phố Lạng Sơn 23 km theo đường Quốc lộ 4B từ Lạng Sơn đi Quảng Ninh; huyện có chiều dài biên giới tiếp giáp với Trung Quốc là 28,89km và có vị trí tiếp giáp như sau: Phía Bắc giáp huyện Cao Lộc và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; phía Đông giáp huyện Đình Lập; phía Tây giáp với huyện Chi Lăng; phía Nam giáp với huyện Đình Lập và tỉnh Bắc Giang.

Huyện Lộc Bình có 29 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn (Lộc Bình, Na Dương) và 27 xã (Ái Quốc, Bằng Khánh, Đồng Bục, Đông Quan, Hiệp Hạ, Hữu Khánh, Hữu Lân, Khuất Xá, Lợi Bác, Lục Thôn, Mẫu Sơn, Minh Phát, Nam Quan, Như Khuê, Nhượng Bạn, Quan Bản, Sàn Viên, Tam Gia, Tĩnh Bắc, Tú Đoạn, Tú Mịch, Vân Mộng, Xuân Dương, Xuân Lễ, Xuân Mãn, Xuân Tình, Yên Khoái) với 286 thôn bản, khu phố.

Lộc Bình có đường Quốc lộ 4B đi qua địa bàn huyện với chiều dài 27,5km, nối liền Lạng Sơn với Quảng Ninh; các tuyến đường tỉnh lộ trên địa bàn gồm 05 tuyến với tổng chiều dài trên 115km nối liền huyện với các huyện lân cận; đặc biệt có tuyến đường tỉnh ĐT.236 (Lộc Bình – Chi Ma) dài 15km nối liền trung tâm hành chính của huyện với Khu kinh tế cửa khẩu Chi Ma, thông thương hàng hóa với huyện Ninh Minh (Trung Quốc). Hệ thống đường huyện với 08 tuyến có tổng chiều dài 134km và hệ thống đường xã gồm 104 tuyến với tổng chiều dài 365,8km, cùng với hệ thống đường Quốc lộ, đường tỉnh đã tạo thành một mạng lưới giao thông tương đối hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho việc giao lưu, trao đổi, sản xuất và tiêu thụ hàng hóa cho nhân dân trên địa bàn huyện và các vùng lân cận.

Tổng dân số trên địa bàn huyện Lộc Bình đến hết tháng 9 năm 2015 là 85.729 người, mật độ dân số 86 người/km2. Huyện Lộc Bình có 06 dân tộc chủ yếu cùng chung sống hoà thuận là Tày, Nùng, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chỉ; trong đó dân tộc Tày chiếm 57,46%, dân tộc Nùng 27,41%; dân tộc Kinh 6,62%, dân tộc Dao 4,59%, Sán Chỉ 3,3%, dân tộc Hoa chiếm 0,5%, còn lại các dân tộc khác chiếm 0,12% dân số toàn huyện. Người Tày và người Nùng đến sinh cơ lập nghiệp ở Lộc Bình sớm hơn, trải qua nhiều thời kỳ khai khẩn, thiên di, định cư đã hình thành nên các bản, làng tập trung đông đúc ở ven sông, ven suối của nhiều xã trong huyện. Người Kinh và người Hoa chủ yếu tập trung ở thị trấn, ven trục đường quốc lộ. Người Dao sinh sống tập trung ở 02 xã Mẫu Sơn và Ái Quốc; người Sán Chỉ sống tập trung ở xã Nhượng Bạn và một phần ở xã Minh Phát. Tuy có sự khác biệt nhất định về ngôn ngữ, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa…song Nhân dân các dân tộc trong huyện luôn đoàn kết để xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

Về địa hình: Huyện Lộc Bình nằm ở lưu vực sông Kỳ Cùng; độ cao trung bình so với mặt nước biển là 352m, cao nhất là đỉnh Mẫu Sơn với 1.541m so với mực nước biển. Địa hình huyện nghiêng từ Đông Bắc xuống Tây Nam và phân thành 3 vùng tương đối rõ rệt. Vùng núi cao chạy bao quanh huyện theo hình cánh cung, có độ cao trung bình từ 700 – 900m, bao gồm các xã Mẫu Sơn, Lợi Bác, Tam Gia, Hữu Lân, Ái Quốc… phần lớn đất có độ dốc trên 20 độ; trên dạng địa hình này chỉ thích hợp cho sử dụng vào lâm nghiệp và đồng cỏ chăn thả vì độ dốc cao và đường đi lại khó khăn; các khu vực thung lũng hẹp có thể sử dụng phát triển cây ăn quả, một số ít gần nguồn nước tưới thích hợp cho trồng lúa. Vùng đồi núi thấp có độ cao trung bình 250 – 300m gồm các xã Yên Khoái, Nhượng Bạn, Vân Mộng, Quan Bản, Tú Mịch, Bằng Khánh, Xuân Lễ, Lục Thôn…vùng này có dạng địa hình đồi thoải xen bát úp; dạng địa hình này thích hợp cho mục đích nông lâm kết hợp; sườn đồi thoải độ dốc thấp gần nguồn nước thích hợp cho phát triển cây ăn quả. Vùng thung lũng bao gồm các xã chạy dọc theo quốc lộ 4B, một phần chạy dọc theo sông Kỳ Cùng; đây là vùng địa hình tương đối bằng phẳng được hình thành do bồi đắp của sông Kỳ Cùng và các phụ lưu; trên địa hình này chủ yếu trồng cây lúa nước và cây hoa màu. Do đó cho đến nay rừng núi của Lộc Bình còn lưu giữ phần nào tính chất nguyên sinh vốn có thể hiện rõ nét trên nhiều khoảnh rừng núi cao, nhiều khu rừng còn lưu giữ được những loại gỗ quý sến, táu, lát hoa, kháo thơm…

Về khí hậu, thủy văn: Khí hậu của Lộc Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa nóng, ẩm bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô lạnh, ít mưa từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 210C, nhiệt độ cao tuyệt đối 380C, nhiệt độ thấp tuyệt đối -20C. Lượng mưa trung bình trong năm khoảng 1.350mm. Chế độ mưa cũng phân thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9 và chiếm trên 76% lượng mưa cả năm. Mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau và chiếm trên 24% lượng mưa cả năm.

Về tài nguyên đất: Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 98.642,7ha, trong đó: đất nông nghiệp là 89.355,05ha chiếm 90,58%; đất phi nông nghiệp là 7.049,37ha, chiếm 7,15%; đất chưa sử dụng là 2.238,28ha chiếm 2,27%. Đất đai của huyện gồm các loại sau: Nhóm đất phù sa, nhóm đất đỏ vàng, nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi, nhóm đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ. Do đặc điểm đất và địa hình có sự phân hóa rõ rệt đã mang lại ưu thế đa dạng trong khả năng khai thác sử dụng vào phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, có điều kiện trồng cây lương thực thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả.

Về tài nguyên nước: Nguồn nước mặt của huyện được chi phối bởi nguồn nước của sông Kỳ Cùng và các phụ lưu của sông. Ngoài ra, trong vùng còn có nhiều hồ đập vừa và nhỏ như: Hồ Tà Keo, Bản Chành, Nà Căng; đập Khuôn Van, Nà Phừa, Kéo Lim, Tam Quan…. Mật độ sông suối của huyện là 0,88 km/km2 và ở khắp các xã trong huyện đều có các con suối lớn, nhỏ chảy quanh các triền khe, chân đồi ven theo các làng, bản, chân ruộng. Nhìn chung, hệ thống sông suối, ao hồ của huyện có nguồn nước khá dồi dào và phân bố tương đối đồng đều đủ để phục vụ sản xuất nông nghiệp và phục vụ nước sinh hoạt cho nhân dân. Đây cũng là một trong những thế mạnh của Lộc Bình trong việc tiến tới xác định phát triển kinh tế thuỷ sản phù hợp trên địa bàn huyện.

Tài nguyên khoáng sản: Trên địa bàn huyện Lộc Bình có nhiều khoáng sản khác nhau, nhưng có 02 loại khoáng sản chính là than và đất sét cao lanh. Mỏ than Na Dương có trữ lượng than nâu khoảng 100 triệu tấn, trong đó mỏ lộ thiên khoảng 23 triệu tấn. Mỏ than Na Dương đã và đang khai thác phục vụ chủ yếu cho nhà máy nhiệt điện Na Dương. Ngoài ra còn có mỏ than bùn Nà Mò, tuy nhiên trữ lượng thấp nên chưa được khai thác sử dụng. Sét trắng (cao lanh) phân bố ở xã Đông Quan, Tú Đoạn và thị trấn Na Dương với trữ lượng khoảng 60 triệu tấn. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn một lượng nhỏ vàng sa khoáng ở Mẫu Sơn, Đông Quan, Xuân Dương, Hữu Lân. Cát, sỏi xây dựng được khai thác dọc theo sông Kỳ Cùng.

Tài nguyên rừng: Hiện nay diện tích đất lâm nghiệp là: 80.244 ha, trong đó diện tích đất có rừng: 58.584,07 ha (Trong đó, đất rừng sản xuất là 44.295,77 ha chiếm 75,61%; đất rừng phòng hộ là 14.288,3 ha chiếm 24,39%); diện tích đất chưa có rừng: 21.659,93 ha (trong đóĐất chưa có rừng sản xuất 17.738,23 ha; Đất chưa có rừng phòng hộ 3.921,7 ha. Độ che phủ rừng hiện nay là 57%. Trên địa bàn huyện Lộc Bình trồng cây Thông Mã Vĩ là chủ yếu, khoảng 30.000 ha, chiếm 51% tổng diện tích đất có rừng, tập trung ở các xã. Ngoài ra, có trên 3.000 ha là rừng trồng Keo và Bạch đàn, còn lại trên 20.000 ha là rừng tự nhiên khoanh nuôi tái sinh chủ yếu là cây Dẻ, Sau Sau, Kháo Ngứa và các loại cây gỗ tạp khác. Diện tích đất rừng tự nhiên có trữ lượng gỗ lớn hiện nay tập trung nhiều ở xã Hữu Lân.

Tài nguyên văn hóa – du lịch: Lộc Bình có núi Mẫu Sơn nổi tiếng với độ cao 1,541 mét so với mực nước biển, được bao bọc xung quanh bởi núi Cha và hơn 80 ngọn “núi con, núi cháu” to nhỏ sum vầy, có cảnh quan tươi đẹp, có nền nhiệt độ thấp rất phù hợp cho việc phát triển ngành du lịch sinh thái và là nơi nghỉ mát lý tưởng. Trước đây người Pháp đã xây dựng khu nghỉ mát Mẫu Sơn trên đỉnh cao 1.170m, dân địa phương thường gọi là đỉnh “Pà Sắn” hay “cây số 15”. Có đường ôtô từ Bản Tẳng (xã Bằng Khánh) nối quốc lộ 4B với khu nghỉ mát dài 15km. Vùng núi Mẫu Sơn có lượng mưa bình quân hằng năm cao trên 2.000mm nên thảm thực vật rừng rất tốt với nhiều loại cây gỗ quý hiếm và độc đáo. Vùng còn có giống đào thơm ngon nổi tiếng khắp cả nước, thường gọi là đào Mẫu Sơn. Vùng núi Mẫu Sơn có dân tộc Dao sinh sống có những hộ sống cao từ 950-1000m, người dân nơi đây có nhiều sắc thái và nét sinh hoạt văn hoá độc đáo, có truyền thống nuôi ong mật, hằng năm thu hàng nghìn lít mật ong phục vụ đời sống của đồng bào và còn là nguồn thu nhập của họ. Ngoài ra, những năm gần đây người dân nơi đây còn trồng cây chanh rừng, nuôi nấm hương rừng, nuôi gà 6 cựa, cá Hồi…; đặc biệt rượu Mẫu Sơn đã trở thành thương hiệu nổi tiếng và đạt giải thưởng “Sao vàng đất Việt” từ năm 2002. Tỉnh Lạng Sơn đã có Nghị quyết số 42-NQ/TU, ngày 21 tháng 6 năm 2012 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về phát triển du lịch Khu vực Mẫu Sơn thành điểm du lịch quốc gia. Năm 2013, khu vực Mẫu Sơn được Trung ương trao Bằng công nhận di tích cấp quốc gia. Ngoài ra, Lộc Bình nổi tiếng với loại hình du lịch suối, hồ như: hồ Tà Keo, hồ Phai Sen, đập Khuôn Van, suối Khuổi Lầy, Bản Khiếng, suối Lặp Pịa, suối Long Đầu, suối Nà Mìu… .

Đến với Lộc Bình là đến với các lễ hội hội độc đáo như lễ hội Đình Vằng Khắc (xã Vân Mộng); Lễ Hội Háng Cáu (xã Đồng Bục); Lễ Hội Háng Đắp (Thị trấn Lộc Bình); Lễ hội Bản Chu (xã Khuất Xá); Lễ hội Dinh Chùa (xã Tú Đoạn), lễ hội lịch sử Đình Pò Khưa… Trong các lễ hội nhiều bà con dân tộc Tày, Sán Chỉ trên địa bàn huyện có những điệu hát Sli, hát Lượn, hát giao duyên làm cho các lễ hội càng trở nên phong phú.

Trải qua quá trình phát triển lâu dài, xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước nhân dân các dân tộc huyện Lộc Bình đã vun đắp nên những truyền thống lịch sử và bản sắc văn hoá hết sức đáng tự hào. Đó là truyền thống yêu nước, đoàn kết gắn bó, thuỷ chung, tương thân, tương ái, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để chế ngự tự nhiên, đấu tranh bền bỉ, ngoan cường, bất khuất, không chịu khuất phục trước các thế lực xâm lăng, giữ yên bờ cõi đất nước; là các làn điệu hát Then, Sli, Lượn… mượt mà, ấm áp, trữ tình; là tà áo Chàm thuần khiết, trang nhã, gắn bó với thiên nhiên tạo nên bản sắc độc đáo của nhân dân các dân tộc vùng biên cương của Tổ quốc.

Trên những chặng đường đấu tranh cách mạng vẻ vang dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc huyện Lộc Bình luôn phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng, vượt qua vuôn vàn khó khăn, gian khổ không ngừng đóng góp sức người, sức của cho công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 03 tháng 02 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt của lịch sử Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ ở Lạng Sơn. Năm 1945, khi thời cơ cách mạng đã đến, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy về việc nhanh chóng tổ chức phát động quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền về tay cách mạng trước khi quân Tưởng tràn đến. Ngày 28 tháng 8 năm 1945, nhân dân các dân tộc huyện Lộc Bình phối hợp cùng với đơn vị vũ trang của tỉnh đứng lên giành chính quyền. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã đem lại sự đổi đời to lớn cho Nhân dân các dân tộc huyện Lộc Bình, từ thân phận nô lệ lầm than đứng lên làm chủ cuộc sống mình.

Sau khi giành được chính quyền, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là bọn phản động được sự dung túng của quân Tưởng quấy phá, cướp bóc, đe dọa chính quyền và nhân dân ở nhiều nơi gây ra tình hình căng thẳng, trở ngại cho quá trình củng cố chính quyền cách mạng và ổn định đời sống nhân dân. Căn cứ vào tình hình thực tiễn của huyện, tháng 2 năm 1946, Tỉnh ủy quyết định tăng cường tới Lộc Bình 4 đồng chí đảng viên để làm nòng cốt củng cố, phát triển đội ngũ cán bộ ở Lộc Bình. Cùng với việc tăng cường cán bộ tới Lộc Bình, Tỉnh ủy có chủ trương gấp rút xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở Lộc Bình. Ngày 20 tháng 2 năm 1946, tại Pò Mục, xã Lục Thôn, 2 đồng chí Bảo An và Hà Khai Lạc, thay mặt Tỉnh ủy đã tổ chức kết nạp 03 quần chúng ưu tú vào Đảng. Đồng thời, đồng chí Bảo An thay mặt Tỉnh ủy tuyên bố thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của huyện Lộc Bình do đồng chí Hoàng Vị làm Bí thư. Trên cơ sở của việc thành lập chi bộ Đảng đầu tiên, do yêu cầu khẩn trương của công tác lãnh đạo tập trung trên phạm vi toàn huyện trong bối cảnh tình hình mới; Tỉnh ủy đã quyết định thành lập Huyện ủy lâm thời Lộc Bình do đồng chí Hoàng Vị làm Bí thư Huyện ủy lâm thời.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Lộc Bình, trong những ngày tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy gian khổ, đội ngũ cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng trung kiên đã nêu cao tinh thần kiên cường anh dũng vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, mất mát đã chiến đấu quyết liệt với quân thù giữ vững và giành giật từng tấc đất của quê hương. Vùng căn cứ kháng chiến Lộc Bình với khu du kích Chi Lăng nổi tiếng kiên cường đã làm cho quân thù bao phen khiếp đảm; khu căn cứ kháng chiến Đông Quan – Xuân Dương đã bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến của Tỉnh ủy Hải Ninh và Huyện uỷ Lộc Bình trong thời kỳ tạm chiếm. Những chiến công vẻ vang của khu du kích Chi Lăng, khu căn cứ Đông Quan – Xuân Dương đã tô đậm trang sử vẻ vang của lực lượng vũ trang Lạng Sơn trên mặt trận đường số 4. Những chiến thắng đó góp phần đánh đuổi thực dân Pháp, buộc chúng phải rút quân khỏi Lộc Bình vào ngày 19 tháng 10 năm 1950.

Phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của thời kỳ lịch sử oanh liệt (1930 – 1954), từ năm 1955, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc huyện Lộc Bình bước vào thời kỳ cách mạng mới và giành được nhiều thành tựu vẻ vang. Thắng lợi cơ bản nhất trong giai đoạn này là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã trở thành sự thật trên quê hương Lộc Bình. Bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới đã đem lại quyền làm chủ xã hội, làm chủ cuộc sống của người dân. Từ năm 1986, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Lộc Bình bắt đầu bước sang thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc huyện Lộc Bình tiếp tục giành được những thành tựu mới quan trọng. Kinh tế có bước tăng trưởng khá, đời sống của Nhân dân được cải thiện và từng bước nâng cao. Quốc phòng, an ninh được tăng cường củng cố, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia. Hệ thống chính trị ngày càng được củng cố, tăng cường và ổn định. Công tác đối ngoại được Đảng bộ huyện Lộc Bình chú trọng lãnh đạo thực hiện thể hiện được thiện chí, tình cảm đoàn kết hữu nghị giữa huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn và huyện Ninh Minh, Bằng Tường (Trung Quốc) tạo điều kiện, môi trường thuận lợi giữ ổn định tình hình khu vực biên giới giữa hai nước. Những thành tựu đó đã góp phần củng cố vững chắc niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng vào công cuộc đổi mới, không ngừng phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, đồng thuận, đóng góp nhiều công sức, trí tuệ hơn nữa xây dựng huyện Lộc Bình phát triển bền vững.

Từ khóa » Hội Lộc Bình Lạng Sơn