Giới Thiệu Về Cải Lương - Trường Ca Kịch Viện

NGUỒN GỐC – LỊCH SỬ

1. Hình thành

Thời điểm ra đời của bộ môn nghệ thuật sân khấu Cải Lương còn gây tranh cãi và còn nhiều bỏ ngỏ. Tuy nhiên, theo phần đông đa số giới nghiên cứu học thuật và nghệ sĩ thì Cải Lương ra đời vào năm 1918, hoặc có thể tạm chấp nhận một khoảng thời gian chung rằng Cải Lương được xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.

Cải Lương được cho là có nguồn gốc từ dân ca và nhã nhạc cung đình, dần dần được cải biên theo đờn ca tài tử và hình thành lối ca ra bộ, tiền thân của Cải Lương.

Nhạc cung đình và nhạc tế lễ: Cải Lương là một loại hình nghệ thuật đàn hát bắt nguồn từ cơ sở là những bài dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long và nhạc tế lễ thường được biểu diễn trong cung đình ở miền Trung. Do bị đày đoạ vào Nam khai khẩn đất hoang hay theo phong trào Cần Vương, nhiều nghệ sĩ nhã nhạc cung đình Huế đã phải rời quê nhà để định cư ở miền Nam, mang theo nỗi buồn tha hương sâu sắc. Không được tiếp tục biểu diễn cho vua chúa, họ quay sang thành lập những nhóm hát phục vụ nhân dân trong các dịp tế lễ, ma chay. Qua nhiều năm, nhạc lễ được biến hóa nhiều hơn, kết hợp với các làn điệu dân ca miền Nam và gần như thoát ly khỏi các âm luật của nhạc lễ cung đình. Khi sinh hoạt âm nhạc này càng được phổ biến rộng rãi, nhạc lễ dần thay đổi đối tượng sang quần chúng lao động và con người bình dân để phù hợp với nhu cầu nhân dân miền Nam. Từ đó, nghệ thuật Đờn ca tài tử đã ra đời.

 

Đờn ca tài tử: Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật giản dị phục vụ cho người Nam Bộ bình dân.  Âm luật không hề phức tạp mà mang tính thư giãn. Vào khoảng cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, các nhóm đờn ca được thành lập để tiêu khiển, phục vụ trong các buổi lễ tại tư gia, như đám tang, lễ giỗ, đám cưới,… nhưng chưa biểu diễn trên sân khấu hay trước công chúng. 

 

Một ban nhạc Đờn ca tài tử Sài Gòn năm 1911 (Ảnh: Wikipedia Tiếng Việt)

Ca ra bộ: Để một loại hình nghệ thuật ra đời và trở thành một bộ môn nghệ thuật phát triển rộng lớn cần có 4 yếu tố: có tác phẩm, có lực lượng biểu diễn, có phong cách riêng và các tổ chức sinh hoạt. Đờn ca tài tử Nam Bộ dần hội tụ đủ 4 yếu tố này và thêm vào đó là nhu cầu rất cao của người dân trong việc thưởng thức một loại hình âm nhạc phù hợp với bản tính, cuộc sống phóng khoáng của mình. Đờn ca tài tử ban đầu chỉ là những buổi gặp gỡ, tụ họp mang tính chất nhỏ và gần như không có sự di chuyển. Dần dần để minh họa sắc nét hơn, phong phú hơn các biểu cảm nhằm phản ánh được thực tế, hay nội dung tưởng tượng, đờn ca tài tử đã có bước chuyển mình sang sân khấu biểu diễn để đáp ứng những thay đổi về nhu cầu thẩm mỹ và giải trí của người dân miền Nam.

Và khi lên sân khấu rộng lớn, trung tâm sân khấu lúc này lại là các nghệ sĩ biểu diễn nên cần phải có những động tác và di chuyển để không khiến sân khấu bị đơ và trống vắng. Từ đây, hình thành loại hình nghệ thuật Ca Ra Bộ, tức là ca hát và có diễn tả ra điệu bộ. Chính là nguồn gốc loại hình nghệ thuật biểu diễn Cải Lương để phân biệt với phong cách Đờn ca tài tử.

Ca ra bộ vở “Lục Vân Tiên”

Hình thành cải lương: Vào năm 1918, theo Vương Hồng Sến, toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut cho phép mở gánh hát có bán vé và diễn ở các rạp hát lớn ở miền Nam. Nhân cơ hội đó, ông Andre Thận và Châu Văn Tú đã đưa Cải Lương lên sân khấu với vở Gia Long tẩu quốc diễn ở Rạp hát Tây Sài Gòn. 

 

2. Phát triển và Hưng thịnhTại miền Nam Việt Nam, thập niên 1960 là thời kỳ hưng thịnh nhất của Cải Lương miền Nam. Các sân khấu Cải Lương được đông khán giả đến xem hàng ngày, nên ngày nào cũng có diễn xuất, nhờ đó, các soạn giả và nghệ sĩ có cuộc sống khá sung túc. Thời bấy giờ, Cải Lương phát triển đến mức một số ca sĩ tân nhạc tìm cách chuyển nghề sang hát Cải Lương để tìm kiếm thành công. Một số gánh hát Cải Lương nổi tiếng có thể kể đến như: Đoàn Thanh Minh – Thanh Nga, Thống Nhất, Tiếng Chuông Vàng,… 

Đoàn cải lương Thanh Minh – Thanh Nga (Ảnh: Báo Thanh Niên)

Một số nghệ sĩ nổi tiếng: Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Tấn Tài, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Lệ Thủy,…

 

4. Thoái trào

Vào cuối những năm 1980, Cải Lương bắt đầu tuột dốc. Các rạp hát thưa dần suất diễn. Khán giả đến rạp hát để xem cải lương cũng thưa dần, nhất là đối với khán giả trẻ. Các đoàn Cải Lương phải đi lưu diễn ở các vùng sâu, vùng xa để tìm khán giả. 

Về nguyên nhân dẫn đến sự thoái trào của Cải Lương, soạn giả Huỳnh Anh lý giải: “Cuối thập niên 1980, những năm đầu thập niên 1990, đất nước bắt đầu mở cửa. Cùng với sự mở cửa hội nhập của đất nước là các loại hình văn hóa khác du nhập vào Việt Nam, nhất là phim ảnh, thu hút được nhiều khán giả, nhất là đối với giới trẻ. Vì vậy, sân khấu không còn là phương tiện giải trí duy nhất đối với công chúng”.

 

Nguồn tham khảo 

1. Wikipedia tiếng Việt – Cải Lương

2. Nguyên Chương – Cải Lương từ hưng thịnh đến thoái trào – Báo Ấp Bắc điện tử

3. Quân Nguyễn – Nguồn gốc ra đời của Cải Lương – 

 

Từ khóa » Ca Cải Lương Là Gì