“Góc Sân Và Khoảng Trời” (Trần Đăng Khoa) – Tập Thơ Cho Trẻ (phần 1)

“Góc sân và khoảng trời” (Trần Đăng Khoa) – tập thơ cho trẻ (phần 1)

Góc sân và khoảng trời là một tập thơ xuất sắc của Trần Đăng Khoa được xuất bản lần đầu tiên năm 1968. Thiên hướng văn chương của tác giả được bộc lộ sớm bởi khi đó nhà thơ chỉ mới 10 tuổi.

Đó là những vần thơ lưu lại ký ức, nhật ký của nhà thơ trong những năm tháng ấu thơ đầy hồn nhiên và vui tươi. Tập thơ này có số lượng bài lớn với hơn 100 bài. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu và cảm nhận bạn nhé!

Đôi nét về nhà thơ Trần Đăng Khoa

Tiểu sử nhà thơ Trần Đăng Khoa

Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh ngày 24-4-1958 tại Tỉnh Hải Dương, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam.

Trần Đăng Khoa là một nhà thơ nổi tiếng được mệnh danh là “Thần đồng thơ trẻ”. Ông cũng là một nhà văn và một nhà báo. Ông giữ chức vụ biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nguyên là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ Phát thanh có hình của kênh VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Hiện nay, ông giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa bắt đầu sáng tác từ rất sơm, năm 8 tuổi ông đã có một số sáng tác được in trên báo. Năm 10 tuổi, ông đã cho xuất bản tập thơ đầu tiên với nhan đề “Từ góc sân nhà em “(1968). Cũng trong năm 1968, ông đã cho ra mắt tập thơ thứ hai là “Góc sân và khoảng trời” do nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành.

Trong đó, bài thơ “Hạt gạo làng ta” sáng tác năm 1968, là bài thơ phổ biến nhất của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Bài Thơ này đã được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc năm 1971, bài hát được rất nhiều người yêu thích, nhất là lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng.

Năm 10 tuổi, nhà thơ Trần Đăng Khoa là người đề nghị đổi câu thơ “Đường ta đi rộng thênh thang tám thước” trong bài thơ “Ta đi tới” của nhà thơ Tố Hữu , thành “Đường ta rộng thênh thang ta bước” . Điều này đã làm cho giới văn học Việt Nam một phen ngỡ ngàng.

Thành tích:

Giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong các năm 1968, 1969, 19711

Giải nhất báo Văn nghệ năm 1982

Giải thưởng Nhà nước năm 2000

Những sáng tác chính:

Trần Đăng Khoa sáng tác không nhiều, những tác phẩm nổi bật của ông như:

  • Từ góc sân nhà em, 1968.
  • Góc sân và khoảng trời, tập thơ, 1968, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới
  • Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974.
  • Bên cửa sổ máy bay, tập thơ, 1986.
  • Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh niên, 1998, tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản.
  • Bài “Thơ tình người lính biển” đã được Hoàng Hiệp phổ nhạc.
  • Đảo chìm, tập truyện – ký, đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần.

Giới thiệu về tập thơ ” Góc sân và khoảng trời”

Tuyển tập thơ “Góc sân và Khoảng trời” do thần đồng thơ ca Việt Nam – Trần Đăng Khoa sáng tác từ những năm lên 8. Đến năm nhà thơ lên 10 tuổi thì “Góc sân và Khoảng trời” được in lần đầu, gồm 52 bài thơ và sau này được bổ sung thêm lên 66 bài – bao gồm các bài thơ nổi tiếng đã được đăng báo của Trần Đăng Khoa.

Nhờ được sáng tác khi tuổi đời của nhà thơ còn khá trẻ nên “Góc sân và Khoảng trời” tái hiện một góc nhìn trong trẻo, hồn nhiên của trẻ thơ về một thế giới con người và sự vật mà trong đó con người nào cũng đều để lại một dấu ấn tốt đẹp. Nuôi dưỡng tâm hồn cho bé yêu văn học theo các nhẹ nhàng nhất!

Với những quan sát tinh tế cùng sự liên tưởng phong phú và tài năng hiếm có; cỏ cây, loài vật, con người trong thơ Trần Đăng Khoa hiển hiện gần gũi thân thiện và dung dị. Có lẽ vậy mà bạn đọc nhiều thế hệ không thể nào quên những bài thơ: Hạt gạo làng ta, Cây dừa, Nghe thầy đọc thơ, Ảnh Bác, Đám cưới bác giun, Mưa, Trăng ơi từ đâu đến,…

Tái hiện trong tuyển tập thơ là những sự vật giản dị của làng quê như con bướm vàng, cái sân, dòng sông Kinh Thầy, con chim, con gà, vườn cải, cây đa, con trâu, cây trầu… và nhất là ánh trăng của làng quê.

Với tuổi thơ trong “Góc sân và Khoảng trời” của Trần Đăng Khoa, ông trăng cũng ngây thơ như trẻ con, cũng thích khoe khuôn mặt tròn, cũng nhoẻn miệng cười thích thú khi nhìn thấy chuối, thấy xôi; và thú vị nhất là cũng biết thập thò ngoài cửa khi rủ bạn đi chơi,…

Bởi thế mọi thứ hiện lên thật sống động, nhiều màu sắc. Tuy đơn giản nhưng khiến người đọc cảm thấy thích thú. Các sự vật, hiện tượng được nhân cách hóa, ẩn dụ giúp phát triển trí tưởng tượng, sự sáng tạo trong các bé.

Những bài thơ trong tập thơ “Góc sân và khoảng trời” – Trần Đăng Khoa (phần 1)

Sau đây Pud.edu.vn xin chai sẻ cùng quý bạn đọc tuyển tập những bài thơ trong tập thơ “Góc sân và khoảng trời” – Trần Đăng Khoa (phần 1). Vì tập thơ khá đồ sộ, trong phạm vi một bài viết không thể truyền tải hết nên chúng tôi chia làm các phần nhỏ khác nhau để quý bạn đọc tiện theo dõi. Các bạn đừng bỏ lỡ nhé !

Ảnh Bác

Nhà em treo ảnh Bác Hồ Bên trên là một lá cờ đỏ tươi Ngày ngày Bác mỉm miệng cười Bác nhìn chúng cháu vui chơi trong nhà Ngoài sân có mấy con gà Ngoài vườn có mấy quả na chín rồi Em nghe như Bác dạy lời Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa Trồng rau, quét bếp, đuổi gà Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi Bác lo bao việc trên đời Ngày ngày Bác vẫn mỉm cười với em…

Ao nhà mùa hạn

Mùa mưa mà mưa chẳng đến Đáy sâu nẻ toác khi nào Rêu nằm mơ những sấm sét Rồi khô trên cọc cầu ao…

Bà và cháu

Trích trường ca “Làng quê” Bà ngồi yên rất lâu Bóng tạc lên vách đất Dải khăn vuông đội đầu Gió lọt vào phơ phất… Ôm Hương, tay run run Bỗng nhiên, bà chớp mắt Nhớ ngày xưa đói nghèo Thương ông, giặc Pháp bắt Sục sạo tìm du kích Giặc đốt hết xóm làng Bố Hương vượt lửa đạn Bơi qua Lục Đầu Giang Ông đi, ông để lại Cái vành tang cho bà Vết nhăn hằn sâu mãi Và hắt hiu tuổi già Sau hòa bình, bố về Xóm làng còn đủ cả Chỉ vắng mẹ Hương thôi Bố ngồi trơ như đá… Rồi lạy bà, bố đi… Hương mới sinh, bé choắt Đất nước sao nhiều giặc Đánh đến giờ chưa xong!… Cái bao tượng của bà Thắt bụng dần nhỏ lại Cả một đời lo toan Lưng bà giờ như gẫy Bà vẫn vui công việc Chả lúc nào ngơi tay Khi bà thăm trận địa Khi bà trồng hàng cây Bà vẫn nuôi bộ đội Suốt hăm mấy năm trời Nhiều chú đeo súng lục Cưỡi bình bịch về chơi Thư các chú gửi về Không tuần nào không có Chú thì đóng Sơn La Chú thì ra Cồn Cỏ Chú thì giữ Hàm Rồng Chú thì xa, xa nữa… Thư đi mấy tháng đường Nhiều bức nhòe một nửa Lâu nay, Hương không thấy Chú nào về thăm đây Bà bảo: Các chú bận Đánh Mỹ suốt đêm ngày Những lúc sợ bà buồn Hương lượn tròn, múa hát Bóng chuối trùm nửa sân Trăng ngời ngời như bạc…

Bãi Cháy

Bãi đây, chẳng ngọn lửa nào Bóng con còng gió lặn vào cát trưa Mặn nồng vị muối ngàn xưa Rào rào gió động hàng dừa. Nước lên Long bong sóng vỗ, thuyền nghiêng Sắc trời, sắc biển xanh trên ngọn sào… Bãi đây chẳng ngọn lửa nào Đảo giương tím cánh buồm chào đón ta Bom thù dội mấy mùa qua Lửa bom đã tắt. Tím hoa sim rồi Thông non nối đất liền trời Tiếng ai thấp thoáng, nói cười xôn xao… Bãi đây chẳng ngọn lửa nào Chỉ ta với sóng lẫn vào Trong Xanh

Bàn chân thầy giáo

Thầy ngồi ghế giảng bài Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ Một bàn chân đâu rồi Chúng em không rõ Sáng nào bom Mỹ dội Phượng đổ ngổn ngang, mái trường tốc ngói Mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi Thầy cầm súng ra đi Bài tập đọc dạy chúng em dang dở Hoa phượng Hoa phượng cháy một góc trời như lửa Năm nay thầy trở về Nụ cười vui vẫn nguyên vẹn như xưa Nhưng một bàn chân không còn nữa Đôi bàn chân Ôi bàn chân In lên cổng trường những chiều giá buốt In lên cổng trường những đêm mưa dầm Dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo Như nhận ra cái chưa hoàn hảo Của cả cuộc đời mình Bàn chân thầy gửi lại Khe Sanh Hay Tây Ninh, Đồng Tháp? Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc Cho lẽ sống làm người Em lắng nghe thầy giảng từng lời Rung động bao điều suy nghĩ Nghe thầm vọng bàn chân đi đánh Mỹ Nghe âm vang tiếng gọi của chiến trường Em đi suốt chiều dài yêu thương Chiều sâu đất nước Theo những dấu chân người thầy năm trước Và bàn chân thầy, bàn chân đã mất Vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời…

Bến đò

Nhớ chị Trần Thị Duyên Bến đò xưa đây rồi Cây đa già buông rễ loi thoi Lá biếc xòa mặt nước Đá lởm chởm, bờ sông trắng bọt… Trời se se heo may Vẫn như lần đầu, ta qua sông, năm ấy Con đò gỗ chẳng còn gối bãi Đâu rồi, quán rạ lơ phơ Ta thèm nhìn những kỷ niệm ấu thơ Ngồi thụp xuống khoang đò Khoang đò rộng thế Chẳng thấy cây đa, bãi mía Khoảng trời cong veo trên mui đò Tóc ông lái bạc phơ Lẫn vào mây trắng… Ta đứng giữa trời mênh mông trắng Quán xưa đổ rồi Dưới bóng mát vòm đa, chẳng còn có ai ngồi Gió thổi cồn cào mặt nước Mất một nỗi gì không thể tìm lại được Ta đi, lòng vẫn ở nơi đây Ai cũng chỉ có một lần Cái thuở thơ ngây…

Bên sông Kinh Thầy

Hàng chuối lên xanh mướt Phi lao reo trập trùng Vài ngôi nhà đỏ ngói In bóng xuống dòng sông Một bác chài chăm chỉ Buông câu trong bóng chiều Bỗng nhiên một con cá Nhảy bên thuyền như trêu Bắp ngô non răng sún Óng vàng một chòm râu Ôi cánh buồm nhỏ bé Biết bay về nơi đâu?

Buổi sáng nhà em

Ông trời nổi lửa đằng đông Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay Bố em xách điếu đi cày Mẹ em tát nước, nắng đầy trong khau Cậu mèo đã dậy từ lâu Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng Mụ gà cục tác như điên Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi Cái na đã tỉnh giấc rồi Đàn chuối đứng vỗ tay cười, vui sao! Chị tre chải tóc bên ao Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương Bác nồi đồng hát bùng boong Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà

Cái sân

Em thường rải cái nong Ra góc sân ngồi học Những đêm có trăng mọc Em chơi cho đến khuya Thường là xỉa cá mè Hay làm mèo đuổi chuột Những lúc mưa sậm hột Em bắt cái vòi cau Chảy vào giữa chum sâu Khi trời râm em vẽ Vẽ cô tiên lặng lẽ Rải hoa trên bầu trời Thế là bao đồng lúa Cứ chín vàng, vàng tươi…

Cánh đồng làng Điền Trì

Cánh đồng làng Điền Trì Sớm nay sao mà rộng Sương tan trên mũi súng Trên sừng trâu cong veo Nơi này mấy bác cày Đầu nghiêng nghiêng chiếc nón Tiếng trâu và tiếng người Vang ruộng dài lõm bõm Nơi kia là mấy chị Thì thòm tát gầu giai Nước reo theo lòng máng Bọt tung trắng hoa nhài Nơi ấy mấy cô cấy Ngửa tay phía mặt trời Mạ bén hàng đứng thẳng Hồn nhiên trong tiếng cười Còn em, em kéo xe Chở phân ra lót ruộng – Ái chà, con cà cuống Bỏ ngay vào ống bơ!

Câu cá

Cầu ao loang vết mỡ Em buông cần ngồi câu Phao trắng tênh tênh nổi Trên trời xanh làu làu Mặt ao không gợn gió Bóng trúc cũng rung rinh Con cá mương đớp bọt Nhô miệng tròn, nhỏ xinh Cá cá, chúng mày ơi Vào đây mà kiếm ăn Mồi lòng gà béo ngậy Mùi thính thơm, rất đằm Cục cùng cung trên bờ Vào đây con cá ngão Cái mồm to hơn mình Mắt đỏ vằn gian giảo Vào đây con rô cụ Đầu đen sạm lầm lì Thường nháy phao đột ngột Rồi lừ lừ lôi đi Vào đây con cá diếc Hay vơ vẩn rong chơi Nhung nhăng khoe áo trắng Và nhẩn nha rỉa mồi Cá cá, chúng mày ơi Dù con to, con nhỏ Nếu chạm đến mồi ta Đều nằm khoèo trong giỏ Riêng mặt trời tinh nghịch Ngậm mồi dưới đáy ao Giật mấy lần không được Còn làm ta ngã nhào

Cây đa làng

Trích trường ca “Khúc hát người anh hùng”2 Cánh liếp khép hờ Bà Chanh hãm đèn hạt đỗ Những đám cháy Tắt dần ngoài cửa sổ Tiếng khóc chỉ còn Tức tưởi Ở nhà bên Làng xóm bỗng lặng yên Lặng yên đến không thể nào chịu nổi Không gian nén những gì dữ dội… Bà không hiểu sao Bưởi vẫn chưa về Lá khô sột soạt ngõ tre Tiếng ếch ao bèo thủng thẳng Tiếng khóc chìm dần trong im lặng Lại thỉnh thoảng, nấc lên Nghẹn ngào… Sự im lặng hát rằng: Lặng im của một nhát dao Chém vào đá, giữa trời cao đất dày Hỡi ai nát với cỏ cây Hồn kêu thành gió những ngày bão giông! Cụ Đình đẩy cửa Lừng lững bước vào trong Ngực phẳng như tảng đá Rồi ngồi im như gốc cây to Tay cụ phác ra một cử chỉ mơ hồ Rồi cụ lại lắc đầu lặng lẽ Trông cụ héo như cây đa làng bật rễ Giọng cụ trầm và sâu: – Con Bưởi đâu? Tôi đến tìm nó hỏi Ức thế này, làm sao mà chịu nổi? Bà Chanh vội đứng lên Khép kín cánh liếp vào Bà thoáng thấy cuối trời Long lanh ngôi sao Sáng như giọt nước mắt… Những đám cháy sẽ dần dần tắt Nhưng lửa đang thắp lên Ngàn vạn ngọn đèn Đất nước đêm nay Không ai bình yên… Tiếng khóc lại nấc lên Tức tưởi Nhà bên… Nhà ấy sáng nay Ba người, giặc chặt đầu cắm cọc Đồn Coóc mắt vằn tia đỏ nọc Tay quay vù vù can đen Đội Mâu đi bên Cái tai cụt giấu trong làn khói thuốc Sau mỗi trận càn Làng vãn thêm người quen thuộc Bà thoáng rùng mình Tiếng sương rơi rộp… rộp… mái gianh Gợi dáng cành tre lả theo chiều gió Tiếng xa vắng côn trùng trong cỏ Gợi chiều sâu không cùng của đêm Tất cả như bình yên Tưởng xóm làng ta chưa bao giờ cháy Tưởng máu bà con chưa bao giờ chảy Tưởng đời mình chưa bao giờ trải qua Những đổi thay và những vui buồn Bằng cả bao đời xưa cộng lại… Tiếng khóc nhà bên Lại nấc lên Tức tưởi Cụ Đình rung động toàn thân Xòe bàn tay vuông, bạc trắng vết chai sần Cụ bỗng nói một giọng trầm rất lạ: – Bà Chanh ơi Chúng nó thịt người mình nhiều quá! Rồi lặng im Cụ lắc cái đầu: – Con Bưởi đâu? Tôi muốn tìm nó hỏi Ức thế này Làm sao mà chịu nổi? Mái nhà gianh hát rằng: Có đâu như ở nơi đây Kẻ thù ác quá mức này – chưa thôi Đau thương quá một kiếp người Cầm gươm quá mấy chục đời nối nhau…3 Tiếng chó vu vơ Làm đêm thêm thẳm sâu Sương xuống se se Mặt đường cát bụi Con đom đóm ướt cánh bay Dạt vào cành ổi Bỗng lao ra Rạch một đường ngang đêm Lửa trong tro Chốc chốc lại bùng lên Trong gió thổi Như một điều muốn nói Đêm dần khuya cao cao vòi vọi Bỗng vút lên Chót vót Tiếng gà Trẻ như thời trời đất mới sinh ra… Cô Bưởi lắng nghe tiếng gà rừng rực Thấy sức triệu người hồi sinh trong lồng ngực Và cô đi Bên đám cháy Chưa tàn Lửa hát rằng: Quê tôi – những cánh rừng hoang Chính trong cơn bão đại ngàn – tôi sinh Nuôi tôi trong bếp nhà gianh Ủ là một chấm – thổi thành biển khơi…

5 Toán giặc chạy xô cả lại Mặt chúng xám đi. Hớt hải – Chi đấy? Bay? Tên lính cao gầy Cổ ngẳng như cổ cò chết bão Dong một cụ già mặt bê bết máu Nách áo rách toang Dáng lực lưỡng và điềm nhiên như cây đa làng Tên lính cổ cò oang oang nói: – Lão già này đã “đánh mìn” ngài Đội Ngài ngã vật ra, chẳng biết có sao không? Tụi nó cáng ngài về đồn rất đông… Coóc chống can đen, đi đến Cái chân bước nhẹ nhàng, uyển chuyển Hắn bỗng nhìn thẳng căng vào mắt cụ già Soi mói, cái nhìn như moi ruột gan ra Cụ Đình bình thản: – Lính của quan đồn đã cho tôi lựu đạn Giết đội Mâu là việc của riêng tôi Người Việt Nam Không một ai được phản bội giống nòi Thưa quan, quan hiểu chứ? – Tên ông là gì? Coóc vẫn lạnh lùng nhưng mắt đã vằn tia hung dữ – Có thể gọi tôi Là Đình, là Chùa, là Nhà, là Cửa Tên tôi là: Dân-nước-bị-xâm-lăng Từ thượng cổ đến nay Chúng tôi Không hề biết đầu hàng! Coóc lệch mép cười thật là nham hiểm – Nhà ông đâu? – Ngoài thân tôi, tôi chẳng có gì sất Tôi chỉ có hai bàn tay để cày xới đất Đầu tôi có những câu thơ bất khuất Của Mạc Đĩnh Chi từng đọc ở bên Tàu Cụ nói chửa dứt câu Mắt bỗng thoáng cái gì như là làn bụi Hai má dần hằn nổi Những ngón tay dài và thon Vết những ngón tay tụ lại tím bầm Hình dạng giống bản đồ nước Pháp – Ông có giết, tôi cũng không đổi khác! Giọng cụ Đình kiên nhẫn đến lạ lùng Cụ ngẩng nhìn không trung Mấy tia nắng cuối mùa Lung linh trong đám mây rách nát “Mày có giết, tao cũng không đổi khác” Cụ nghĩ thầm: “Thế là chúng bay Không thể thuốn tới hầm Mấy anh trinh sát cấp trên và con Bưởi ở Với tấm bản đồ ngoằn ngoèo đường xanh đỏ Chiến dịch lớn, quân ta sắp mở Quả lựu đạn mình ném vào mặt đội Mâu Xoay ngược quân thù về phía sau Nếu phải chết, ừ thì mình chết Ngoài vòm trời lồng lộng kia Mình chẳng có gì để mà từ biệt” Một tứ thơ cảm khái xưa của Mạc Đĩnh Chi Bỗng làm cụ nôn nao Ngực cụ gồ lên như sóng trào Tiếng Coóc ngọt ngào Vô nghĩa và vo ve như tiếng muỗi – Mày nhớ xem, có thể là tên Bưởi Đã dặn mày Và mày biết nó còn ẩn nấp quanh đây? – Vâng, tôi nhớ… Khi các ông dìm dân tộc tôi trong máu lửa Những Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê… Bao lớp người chết đi Để lại mối thù cho người còn sống Từ núi cao, sông dài, đồng rộng Đã mọc lên vô số pháo đài Từ bàn tay chai sạn cuốc cày Vụt lớn dậy kho quân lương, kho đạn dược Ông có thể giết tôi Nhưng đất nước Vẫn trường sinh Ngoài khát vọng mọi quân thù! Lũ lính đờ ra nhìn cụ giây lâu Như gặp một cái gì kì lạ Nhưng Coóc thì hiểu ra tất cả Rằng: Hắn phải một mình chống lại một nhân dân Hắn phải một mình chống lại một dân tộc Lần đầu tiên Hẵn bỗng thấy mình thật là cô độc Nỗi thất vọng sủi tăm Chua chua trong óc Hắn buông thõng hai tay và mặt cúi gầm Một thoáng thôi Mặt hắn lại hầm hầm… – Tên Bưởi đâu? – Hắn hỏi Tiếng xé rách qua kẽ răng chó sói Hắn lồng như con trâu đực bị đòn đau Chiếc can đen quay thành khói ngang đầu Bỗng đột ngột bổ vào mặt cụ Cụ vuốt mặt, lòng bàn tay thấy đỏ Giơ hai tay, cháy hai mảnh mặt trời Nhìn tên đồn, tưởng nổ cả con ngươi Cụ hét như sấm nổi: – Này Coóc Mày muốn tìm tên Bưởi Hãy tìm trong cái bụng đói của tao đây! Tay cụ giật phanh vạt áo nâu dày Phơi cái bụng phập phồng, phẫn nộ Rơi xuống dưới chân, cúc áo to, cúc áo nhỏ Đã khâu bởi đường kim vụng về… Da thịt cụ tỏa ra mùi ở đợ, làm thuê Tháng hai mưa phùn, tháng mười sương muối Mùi bùn ngấu và mùi lúa mới Mùi trăng non những đêm ngủ sân đình… Đồn Coóc quay tít can đi quanh Bỗng dừng lại, nheo mắt cười độc địa: – Tao cho nổ trong bụng mày Quả lựu đạn Mỹ Khai không? Ngực cụ cuộn lên đỏ bóng màu đồng Rồi cụ đứng lặng im như hóa đá Chỉ một chút mơ hồ Thoảng rung trong gò má Trong đuôi mắt nứt chân chim… Nhà bên bỗng bật lên Tiếng khóc nấc như cành khô gẫy Coóc sai lính sục tìm ai vừa khóc đấy Lôi chém ngay, cắm cọc bêu đầu – Tên Bưởi đâu? Chỉ ba phút nữa Bụng mày tao sẽ mổ Và nhét vào trong, quả lựu đạn Hoa Kỳ Một phút Hai phút Trôi đi… Thời gian rỏ từng giọt máu! Cụ bỗng kêu to: – Xóm làng ơi Ai có nghe thì nhắn lại hộ tôi Tôi còn nợ bà Tròn lưng thúng thóc Nợ ông Ba Yên hai chục bạc Còn bác Xoan tôi hứa lợp giúp nhà Bây giờ tôi đi xa Cho tôi xin những gì tôi còn nợ… Nắng hát rằng: Gớm cho lựu đạn Hoa Kỳ Nổ trong bụng cụ còn gì là thân Tâm hồn của một người dân Đã thành ánh sáng trong ngần hôm nay…

Góc sân và khoảng trời gợi cho chúng ta những năm tháng ấu thơ đầy hồn nhiên và ngây thơ. Đó là những sự vật hiện lên với màu sắc trong trẻo và ngây thơ của đôi mắt trẻ thơ. Chắc hẳn bạn cũng đang cảm thấy những ký ức tuổi thơ mà mình đã quên đi hay không còn nhớ rõ chợt ùa về đúng không nào? Dẫu vui vẻ hay buồn thương thì đó cũng vẫn là những năm tháng đáng nhớ và đáng trân trọng đối với cuộc đời của mỗi người.

Từ khóa » Bài Thơ Trong Tập Thơ Góc Sân Và Khoảng Trời