Gurkha – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm

Gurkha hay còn gọi là Gorkha (tiếng Nepal: गोर्खा; tiếng Trung Quốc: 廓尔喀, phiên âm: Khuếch Nhĩ Khách) là những binh sĩ có xuất thân từ Nepal thuộc bộ lạc người Gurkha, họ nổi tiếng về lòng dũng cảm và kỹ năng chiến đấu,[1][2] được biết đến như một trong những lực lượng thiện nghệ và hung dữ khét tiếng, gây ấn tượng mạnh khiến nhiều người kinh hãi. Người Gurkha được các lực lượng quân sự ở các nước đánh giá cao về kỹ năng chiến đấu và tinh thần quả cảm. Châm ngôn của người Gurkha là “thà hy sinh chứ không hèn nhát” cùng khả năng chiến đấu thiện chiến vào loại bậc nhất nên những binh sĩ thuộc lực lượng lính đánh thuê Gurkha dù chỉ có chiều cao khiêm tốn tầm 1,6m nhưng vẫn khiến nhiều đối thủ e ngại khi nghe tên với danh tiếng hai thế kỷ.[3] Các chiến binh Gurkha luôn khiến kẻ thù khiếp đảm trên chiến trường.[4] Lực lượng này vang danh lịch sử khi có rất nhiều câu chuyện bi hùng về chiến binh Gurkha được truyền tai nhau. Những điều bí ẩn xung quanh thứ vũ khí dao quắm Kukri (khukuri) đã góp phần khiến cho câu chuyện về những binh sĩ Gurkha trở nên kỳ bí hơn, đồng thời thu hút sự hiếu kì.[3] Theo phong tục Gurkha, dao Kukri một khi đã tuốt khỏi vỏ là phải dính máu, nếu không có máu kẻ thù thì chủ nhân của nó phải tự cắt da thịt của mình.[4] Sau cuộc chiến tranh Anh-Nepal (1814-1816), người Anh ấn tượng với khả năng chiến đấu của người Gurkha và bắt đầu tuyển mộ họ vào quân đội Anh. Trong hai cuộc chiến tranh thế giới, hơn 43.000 binh sĩ Gurkha đã tử trận. Tổng cộng, lực lượng này đã được nhận 26 Huân chương Chữ thập Victoria là huân chương quân sự cao quý nhất của Anh. Sau khi Ấn Độ giành độc lập từ Anh vào năm 1947, một số đơn vị Gurkha đã được chuyển giao cho quân đội Ấn Độ.[5] Cho đến năm 1947, hầu hết binh lính Gurkha phục vụ trong Quân đội Ấn Độ dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Anh. Tuy nhiên, sau khi Anh trao trả độc lập cho Ấn Độ, 4 trung đoàn Gurkha đã được chuyển giao cho quân đội Anh và trở thành Lữ đoàn Gurkha cho đến ngày nay. Tiếp nối truyền thống, ngày nay, ngoài quân đội Anh và cảnh sát Singapore, những chiến binh Gurkha còn phục vụ trong quân đội Nepal, quân đội Ấn Độ, đội cận vệ Hoàng gia Brunei.[3] Ngày nay, những thanh niên trẻ ở các vùng quê nghèo khó ở Nepal xem việc làm lính đánh thuê trong thành viên lực lượng Gurkha vẫn là một đặc sản để thoát nghèo dẫn đến làn sóng ra nước ngoài nhập ngũ của thanh niên Nepal ngày càng gia tăng trong bối cảnh nền kinh tế Nepal gặp khó khăn và tỷ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng cũng như tình trạng thiếu cơ hội việc làm, thu nhập thấp.[1]
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]
Cái tên Gurkha bắt nguồn từ thị trấn Gorkha vốn là vùng đất ban đầu của Vương quốc Nepal. Tiềm năng của những chiến binh Gurkha lần đầu được người Anh nhận ra vào thời kỳ xây dựng đế chế của họ vào thế kỷ XIX. Vào năm 1815, khi quân đội Anh tìm cách chinh phục Nepal, họ đã bị các chiến binh người Gurkha ở đây chống cự chịu thương vong nặng nề. Người Anh nhận thấy rằng người Gurkha là một “chủng tộc võ thuật”, với những phẩm chất đặc biệt về sự dẻo dai và tinh thần thượng võ. Sau nhiều toan tính, các sĩ quan Anh quyết định rằng, nếu không thể đánh bại, họ sẽ lôi kéo những người Gurkha trở thành đồng minh và gia nhập quân đội Anh. Một hiệp định hòa bình sau cùng đã được ký kết, chấm dứt các cuộc chinh phạt của Anh ở Nepal và theo các điều khoản của hiệp ước này, người Gurkha chấp nhận đánh thuê cho quân đội Hoàng gia Anh, về sau trở thành Lữ đoàn Gurkha.[4] Họ đã tham gia nhiều cuộc chiến tranh dưới lá cờ Anh, bao gồm hai trận thế chiến và cuộc chiến giảnh đảo Falklands với Argentina. Ngày nay, ngoài quân đội Anh và cảnh sát Singapore, chiến binh Gurkha còn phục vụ trong quân đội Nepal, quân đội Ấn Độ, đội cận vệ Hoàng gia Brunei, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc và nhiều chiến trường trên khắp thế giới.[4]
Câu chuyện ly kì hồi Thế chiến thứ 2 của anh lính người Gurkha Lachhiman Gurung. Năm 1945, Gurung cắm chốt ở một chiến hào cùng với 2 đồng đội thì bỗng 200 lính Nhật tấn công cứ điểm. Đồng đội của Gurung bị thương rất nặng dưới làn đạn và chỉ còn mình anh. Lính Nhật thay nhau ném lựu đạn vào chiến hào của họ để chấm dứt sự kháng cự, cứ mỗi lần như vậy Gurung nhặt từng quả lựu đạn ném trả lại. Anh thành công hai lần nhưng quả lựu đạn thứ 3 phát nổ trên tay anh, xé toạc cánh tay phải, gương mặt, cơ thể và một chân. Khi lính Nhật xông vào chiến hào, Gurung dùng cánh tay trái còn nguyên vẹn quơ khẩu súng trường và tiêu diệt 31 kẻ thù, ngăn chặn thành công đợt tấn công. Gurung vẫn sống sót với vết thương nặng đó. Cùng năm 1945, anh được tặng thưởng Huân chương chữ thập Victoria.[4] Câu chuyện về một trung sĩ thuộc quân đội Anh tên Dipprasad Pun đã một thân một mình tiêu diệt 30 tay súng Taliban ở Afghanistan. Năm 2010, trung sĩ Dipprasad Pun đang thực hiện nhiệm vụ canh gác tại một cứ điểm ở Afghanistan thì hàng chục tay súng trang bị súng phóng lựu và AK-47 tiếp cận từ nhiều hướng. Từ chốt canh trên cao, Pun kiên cường chống trả cuộc tập kích bằng súng máy và lựu đạn. Chỉ trong chưa đầy 1 giờ, viên trung sĩ bắn hết 400 băng đạn, dùng 17 quả lựu đạn và 1 quả mìn kích nổ để tiêu diệt toàn bộ 30 tay súng, khi Pun bắn hết đạn, một tay súng Taliban tìm cách leo lên nóc nhà và bị Dipprasad Pun hạ gục bằng cách ném cái giá đỡ súng máy. Sau trận chiến, trung sĩ Dipprasad Pun được tặng thưởng huân chương thập tự Conspicuous Gallantry Cross là vinh dự cao quý thứ 2 của quân đội Anh dành cho lòng can đảm.[4]
Năm 2000, đặc nhiệm quân đội Ấn Độ đã nhảy dù xuống đất Sierra Leone giải cứu hơn 200 chiến binh Gurkha và một số quan sát viên quân sự Liên hợp quốc bị bao vây nhiều tháng trong sự chống trả dữ dội của phiến quân Mặt trận Thống nhất Cách mạng RUF đối với hai đại đội thuộc Tiểu đoàn bộ binh súng trường Gurkha số 5/8 của quân đội Ấn Độ tại Kailahun, Sierra Leone. Trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở Kailahun, ngoài các chiến binh Gurkha (Gorkha) thuộc quân đội Ấn Độ có một nhóm Gurkha thuộc quân đội Anh. Tổng số 233 binh sĩ và một số lực lượng gìn giữ hòa bình khác bị quân nổi dậy bao vây trong hơn ba tháng mà không được bổ sung lực lượng hoặc tiếp tế. RUF yêu cầu tất cả lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc thuộc đơn vị đồn trú Ấn Độ tại Kailahun, bao gồm một văn phòng của Anh và một văn phòng của Nga phải đầu hàng.[5] Người Anh cho mượn trực thăng vận tải hạng nặng Chinook với mục đích chuyên chở quân Gurkha rút khỏi khu đồn trú Kailahun. Vào lúc 6h15 ngày 15 tháng 7 năm 2000, một quả bom được kích nổ làm thủng tường thành khu đồn trú. Cùng lúc đó, binh lính Gurkha phá hủy vũ khí của quân RUF trong khu nhà. Chiến binh Gurkha như thường lệ đã chiến đấu quả cảm, gây khó khăn cho phiến quân RUF và tạo điều kiện cho lực lượng giải cứu thâm nhập khu trại Kailahun. Các lính biệt kích Ấn Độ và quân Gurkha vừa chống trả, vừa rút lui. Cả đoàn đến được Geihun và hội quân với lính Trung đoàn Grenadier để rồi đến Pendembu. Nhóm lính Gurkha bằng nhiều nỗ lực cuối cùng cũng đã đến được Pendembu rồi từ đây họ sẽ được trực thăng vận chuyển. Nhưng quân RUF tấn công dữ dội khiến lực lượng gìn giữ hòa bình và giải cứu chưa thể kiểm soát Pendembu. Lúc đó đã 7 giờ tối, họ buộc phải ở lại đó qua đêm, hứng chịu hỏa lực dữ dội của quân nổi dậy. Trực thăng Mi-35 đã phải thực hiện các cuộc tấn công phủ đầu để ngăn chặn phiến quân tập hợp lực lượng. Đến ngày hôm sau, lực lượng gìn giữ hòa bình mới được giải cứu khi trực thăng vận tải đã có thể đáp xuống. Rốt cuộc chỉ có 7 người lính Ấn Độ bị thương, trong khi ở phía phiến quân có 34 người thiệt mạng và 150 bị thương. Thiếu tá Punia được thăng cấp thiếu tướng trong Quân đội Ấn Độ và sau đó viết cuốn sách “Chiến dịch Khukri- câu chuyện có thật đằng sau sứ mệnh thành công nhất của quân đội Ấn Độ với tư cách là một phần của Liên hợp quốc”. Để tưởng nhớ chiến dịch táo bạo do binh lính Ấn Độ thực hiện cách xa nhà 10.000 km, người dân Sierra Leone đã xây dựng Đài tưởng niệm Chiến tranh Khukri trên bờ sông Moa.[5]
Trang bị
[sửa | sửa mã nguồn]
Kỹ năng chiến đấu và tinh thần quả cảm của người Gurkha được các lực lượng quân sự đánh giá cao. Nguyên soái Sam Manekshaw-Cựu tham mưu trưởng quân đội Ấn Độ từng nói rằng: “Nếu một người đàn ông tuyên bố anh ta không sợ chết thì hoặc là anh ta nói dối hoặc anh ta là người Gurkha"[4]”. Sử gia Tony Gould cho biết, các binh sĩ Gurkha mang trong mình sự kết hợp tuyệt vời của các phẩm chất theo góc độ quân sự đó là “họ rắn rỏi, họ dũng cảm, họ bền bỉ, họ có khả năng chấp hành kỷ luật”, họ còn có truyền thống gia đình, khi tham gia chiến đấu, họ không chiến đấu vì sự chỉ đạo hay chính nghĩa mà còn là vì bạn bè và gia đình của họ.[3] Tướng JJ Singh cựu Tư lệnh quân đội Ấn Độ là người tham gia lên kế hoạch Chiến dịch Khukri vào năm 2000 nói rằng những người lính Gurkha “chọn cái chết thay vì tỏ ra hèn nhát, chọn phẩm giá thay vì hai bữa ăn và chọn danh dự thay vì tự do”.[5] Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte từng nói: "Nếu tôi phải thuê người Gurkha để giúp chúng ta đánh nhau với Abu Sayyaf, tôi sẵn sàng làm chuyện đó".[4]
Những binh lính Gurkha nổi tiếng với thứ vũ khí huyền thoại là một loại dao quắm có tên Kukri (hay khukuri), đây được ví là con dao quốc gia của Nepal, một công cụ lao động được sử dụng hàng ngày trong các cộng đồng nông thôn và trong các nghi lễ của người dân nước này. Dao kukri có nhiều kích cỡ khác nhau, bao gồm cả những phiên bản lớn có thể dùng để chặt được đầu một con trâu, nhưng đa phần dao dùng trong chiến đấu của binh sĩ Gurkha là dao dài khoảng 46cm. Đây là vật bất ly thân đã được các chiến binh Gurkha sử dụng và chiến đấu trong nhiều thế kỷ. Trong thời hiện đại, dù có được trang bị hàng loạt những loại vũ khí tối tân như giáp chống đạn toàn thân, súng trường tấn công hay súng ngắn nhưng các chiến binh Gurkha vẫn không thể thiếu món vũ khí truyền thống này khi ra trận. Trước đây, người ta nói rằng, nếu dao kukri được rút ra trong trận chiến, lưỡi dao phải được “nếm máu”, tức là nếu không có máu của kẻ thù thì chủ nhân của nó phải tự cắt da thịt của mình trước khi đút dao vào bao.[3] Ngày nay, người Gurkha nói rằng thứ dao quắm này chủ yếu chỉ còn được sử dụng trong việc nấu nướng, thậm chí nhiều người còn chế tạo hàng loạt mẫu dao Kukri nhái để bán ra thị trường.[3]
Quá trình tuyển chọn binh lính Gurkha được mô tả là một trong những quá trình khó khăn trên thế giới và có sự cạnh tranh gay gắt. Những người trẻ tuổi muốn tham gia lực lượng này trong quá trình thi tuyển sẽ phải vượt qua các bài thi toán và tiếng Anh cùng kỳ thi chạy khốc liệt có tên “doko”, trong đó, họ sẽ phải chạy vượt dốc trong 40 phút trên quãng đường 4,2km với bao 25kg cát trên lưng. Ngoài ra, họ còn phải nhảy 75 lần trên một băng ghế trong 1 phút và chống đẩy 70 lần trong 2 phút. Để được công nhận là "chiến binh Gurkha", thanh niên trai tráng tối thiểu phải làm được một việc là cõng một gùi đá nặng 50 kg và chạy lên dốc núi trong 40 phút.[4] Xuyên suốt lịch sử, các thanh niên trai tráng người Gurkha đã được tuyển chọn từ các ngôi làng vùng đồi núi ở Nepal để gia nhập lực lượng thiện chiến khét tiếng. Tổng cộng, hơn 200.000 thanh niên Gurkha đã chiến đấu trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Họ đã tham gia các cuộc chiến tranh biên giới Ấn Độ, cuộc chiến tranh thuộc địa ở châu Phi, Chiến tranh Falklands/Malvinas với Argentina năm 1982, phục vụ ở Hong Kong, Malaysia, Borneo, Síp, Kosovo và cả Iraq, Afghanistan. Họ tham gia chiến đấu trong nhiều vai trò khác nhau, chủ yếu là lính bộ binh nhưng cũng bao gồm số lượng đáng kể là kỹ sư, hậu cần và chuyên gia tín hiệu.[3]
Phục vụ
[sửa | sửa mã nguồn]

Nepal không cho phép công dân của mình phục vụ quân đội nước ngoài, ngoại trừ lực lượng vũ trang Anh và Ấn Độ theo một thỏa thuận được ký kết giữa ba nước. Nepal trên danh nghĩa cũng kêu gọi công dân không gia nhập quân đội của các nước đang có chiến sự.[2] Nhiều công dân Nepal cũng hiện diện trong hàng ngũ các lực lượng khác như Pháp, Mỹ mà không có thỏa thuận chiến lược hay song phương nào. Theo dữ liệu từ Cơ quan Di trú Mỹ (USCIS), ít nhất 1.000 người Nepal đã được nhập tịch Mỹ trong năm 2021 bằng cách gia nhập quân đội nước này. Có ít nhất 300 chiến binh Gurkha được cho là đang phục vụ trong lực lượng vũ trang Pháp. Quân đội Ấn Độ là một trong những bên chính tuyển mộ thanh niên Nepal. Nhập ngũ từ lâu được cho là một trong những công việc ổn định nhất với các thanh niên ở Nam Á, giúp họ được đảm bảo về an sinh xã hội và lương hưu. Nhưng Ấn Độ đã bắt đầu giảm ngân sách quốc phòng, cải tổ lực lượng vũ trang, chỉ tuyển các chiến binh Gurkha theo hợp đồng 4 năm, thay vì phục vụ trọn đời như trước đây, đồng thời giảm phúc lợi của họ. Cuộc cải tổ khiến Ấn Độ trở thành điểm đến kém hấp dẫn hơn trong mắt những người lính Gurkha, tạo một khoảng trống tuyển dụng lớn ở Nepal và gây căng thẳng ngoại giao giữa hai quốc gia. Chính phủ Nepal đã chỉ trích Ấn Độ không thông báo hoặc hỏi ý kiến nước này trước khi tiến hành các thay đổi.[1]
Làn sóng ra nước ngoài nhập ngũ của thanh niên Nepal xuất phát từ những hoài nghi về cơ hội tương lai ở quê nhà. Dù có một số thay đổi tiến bộ về chính thể và xã hội trong hơn một thập kỷ qua, Nepal vẫn chưa thể đem lại cảm giác an toàn, ổn định cho người dân, đặc biệt là các thanh niên. Tình trạng kinh tế cùng tỷ lệ thất nghiệp hiện tại cho thấy thanh niên Nepal đang tuyệt vọng và sẽ tận dụng mọi cơ hội để xuất ngoại.[1] Số lượng thành viên của lực lượng này thời gian qua đã giảm mạnh so với thời kỳ đỉnh cao trong Thế chiến II là 112.000 người, hiện chỉ còn khoảng 3.500 người. Thu nhập của lính Gurkha thấp hơn nhiều so với binh sĩ Anh nhưng với những thanh niên trẻ ở các vùng quê nghèo khó ở Nepal thì trở thành thành viên của lực lượng đánh thuê này vẫn là một cách để thoát nghèo nên vẫn có nhiều thanh niên Nepal vẫn nuôi mộng gia nhập đơn vị này. Khoảng 28.000 thanh niên hàng năm vẫn đăng ký tham gia tuyển chọn để cạnh tranh vào hơn 200 suất mỗi năm.[3] Năm 2019, quân đội Anh đã lần đầu tiên đồng ý tăng chỉ tiêu tuyển tân binh Gurkha lên với số lượng là 400 người là đợt tuyển quân có số có lượng lớn nhất trong 33 năm qua. Ngoài người sử dụng lao động lớn nhất là quân đội Anh, các nước như Singapore, Malaysia và Ấn Độ cũng thuê các binh sĩ Gurkha phục vụ trong lực lượng quân đội và cảnh sát của họ.[3]
Trong lực lượng cảnh sát Singapore có một nhóm tinh hoa gồm toàn các chiến binh thiện chiến Gurkha xuất thân từ Nepal. Sự hiện diện của người Gurkha ở Singapore bình thường ít gây chú ý, nhưng công chúng có thể nhìn thấy họ bảo vệ an ninh tại các sự kiện lớn, quan trọng như Đối thoại Shangri-La, hoặc tại cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ-Triều.[4] Theo báo cáo quân sự thường niên của Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS) có trụ sở tại Anh, có khoảng 1.800 người Gurkha phục vụ trong lực lượng cảnh sát Singapore, thuộc 6 đơn vị bán quân sự. Cảnh sát Singapore tuyển mộ thanh niên Gurkha ở tuổi 18-19 trước khi đưa họ đến Singapore để huấn luyện. Binh sĩ Gurkha thường về hưu ở tuổi 45 khi họ hồi hương. Truyền thống tuyển mộ người Gurkha của Nepal là một phần di sản Singapore thừa hưởng lại từ thời kỳ thuộc địa Anh, chính phủ Singapore cũng công nhận sức mạnh và tính hiệu quả của lực lượng này. Ông Tim Husley, một chuyên gia về lực lượng vũ trang Singapore thuộc IISS, đánh giá các chiến binh Gurkha từ lâu được xem là vốn quý của giới lãnh đạo Singapore vốn một lực lượng trung lập trong một quốc gia đa sắc tộc, có thể đảm nhiệm các nhiệm vụ như bảo vệ yếu nhân và chống bạo động. Trong các giai đoạn căng thẳng khu vực, Singapore thường điều động các đơn vị Gurkha bảo vệ các trường học quốc tế và cửa khẩu ở biên giới Malaysia-Singapore.[4] Cảnh sát Singapore trang bị cho chiến binh Gurkha giáp chống đạn toàn thân, súng trường tấn công FN SCAR của Bỉ, súng ngắn và dù hiện đại cỡ nào cũng không thể thiếu món vũ khí truyền thống là dao quắm kukri. Tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Triều đầu tiên được tổ chức ở Singapore năm 2018, nước chủ nhà Singapore đã thuê các chiến binh Gurkha bảo vệ sự kiện cho thấy lực lượng Gurkha lừng danh được đánh giá rất cao về khả năng chiến đấu.[3] Khi Tổng thống Mỹ Donald Trump và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un gặp nhau tại Singapore, họ được bảo vệ bởi những chiến binh thiện chiến nhất thế giới thuộc bộ lạc Gurkha của Nepal. Người Gurkha tại Singapore sống với gia đình họ ở Trại Mount Vernon nằm ở ngoại ô thành phố, Đây là khu vực người Singapore bình thường không được phép tiếp cận. Tuy con cái của người Gurkha được đi học và hòa nhập bình thường ở các ngôi trường địa phương, người Gurkha không được phép cưới phụ nữ Singapore.[4]
Đánh thuê
[sửa | sửa mã nguồn]
Nepal không cho phép công dân phục vụ quân đội nước ngoài, trừ lực lượng của Anh và Ấn Độ theo thỏa thuận ký kết giữa ba nước. Tuy nhiên, nhiều chiến binh vẫn tìm cách ra nước ngoài làm lính đánh thuê, trong đó Nga là điểm đến hấp dẫn. Tình trạng thiếu cơ hội việc làm, thu nhập thấp là các yếu tố thúc đẩy nhiều người trẻ Nepal xuất ngoại tìm cơ hội mới. Tình cảnh nghèo đói, thất nghiệp ở quê nhà Nepal thúc đẩy nhiều chiến binh Gurkha gia nhập quân đội Nga, tới tham chiến tại Ukraina. Đại sứ Nepal tại Moskva Milan Raj Tuladhar cho hay khoảng 150-200 công dân Nepal làm lính đánh thuê trong quân đội Nga, thanh niên Nepal tới Nga đăng ký tham chiến ở Ukraina với những lời hứa hẹn về thu nhập cao.[2] Khi Nga thông báo công dân nước ngoài phục vụ quân đội một năm sẽ được ưu tiên giải quyết đơn xin cấp quốc tịch, nhiều người Nepal đã xếp hàng đăng ký. Nhu cầu này đã tạo điều kiện cho các băng nhóm buôn người hoạt động, đưa các chiến binh Gurkha từ Nepal tới Nga nô nức đăng ký nhập ngũ.[1] Chính quyền Nepal từng cho hay 6 công dân Nepal đã chết khi gia nhập quân đội Nga và tham chiến ở Ukraina. Chính phủ Nepal đã yêu cầu Nga hồi hương thi thể các binh sĩ, bồi thường cho gia đình họ và ngừng tuyển mộ chiến binh Gurkha sau khi có 6 chiến binh Gurkha thiệt mạng khi chiến đấu với lực lượng Ukraina, Chính quyền Kathmandu còn tiến hành các nỗ lực ngoại giao để Moskva lập tức cho hồi hương các binh sĩ người Nepal phục vụ trong quân đội Nga.[2] Ukraina thông báo bắt một tù binh là Bibek Khatri là chiến binh Nepal trong biên chế lực lượng lính dù Nga đang tham chiến ở Ukraina, tù binh này thừa nhận đã bay 4.000 km từ Nepal tới Nga gia nhập quân đội và tham chiến tại Ukraina để kiếm tiền, khi dân số và tỷ lệ thất nghiệp ở Nepal tăng mạnh. Các chiến binh Gurkha không chỉ xuất ngoại phục vụ quân đội Nga. Tờ Independent của Anh cho hay nhiều thông tin cho thấy lính đánh thuê Nepal cũng đang gia nhập quân đội Ukraina chiến đấu chống lại Nga. Những người lính này có thể phải đối mặt với chính đồng hương của mình trên chiến trường.[1]
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f Lý do chiến binh Gurkha đăng ký tham chiến cho Nga
- ^ a b c d Nepal yêu cầu Nga không tuyển mộ chiến binh Gurkha
- ^ a b c d e f g h i j Bí ẩn về lực lượng lính đánh thuê thiện chiến bậc nhất thế giới
- ^ a b c d e f g h i j k l Đặc nhiệm Gurkha bảo vệ thượng đỉnh Trump - Kim chất cỡ nào?
- ^ a b c d Cuộc giải cứu các chiến binh Gurkha
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Những bài học từ lực lượng lính đánh thuê thiện chiến nhất thế giới giúp bạn sống tốt hơn - Báo Đại biểu Nhân dân
- Barthorp, Michael (2002). Afghan Wars and the North-West Frontier 1839–1947. Cassell. ISBN 0-304-36294-8.
- Chappell, Mike (1993). The Gurkhas. Quyển 49 of Elite series . Oxford: Osprey Publishing. ISBN 978-1-85532-357-5.
- Chauhan, Dr. Sumerendra Vir Singh (1996). The Way of Sacrifice: The Rajputs, pp. 28–30, Graduate Thesis, South Asian Studies Department, Dr. Joseph T. O'Connell, Professor Emeritus, University of Toronto, Toronto, Ontario Canada.
- Cross, J.P & Buddhiman Gurung (2002) Gurkhas at War: Eyewitness Accounts from World War II to Iraq. Greenhill Books. ISBN 978-1-85367-727-4.
- Ember, Carol & Ember, Melvin. (2003). Encyclopedia of Sex and Gender: Men and Women in the World's Cultures. Springer. ISBN 0-306-47770-X.
- Parker, John (2005). The Gurkhas: The Inside Story of the World's Most Feared Soldiers. Headline Book Publishing. ISBN 978-0-7553-1415-7.
- Poddar, Prem and Anmole Prasad (2009). Gorkhas Imagined: I.B. Rai in Translation. Mukti Prakashan. ISBN 978-81-909354-0-1
- Purushottam Sham Shere J B Rana (1998). Jung Bahadur Rana-The Story of His Rise and Glory. ISBN 81-7303-087-1
- Sengupta, Kim (ngày 9 tháng 3 năm 2007). "The Battle for Parity: Victory for the Gurkhas". The Independent. London. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2009.
- Singh, Nagendra Kr (1997). Nepal: Refugee to Ruler: A Militant Race of Nepal. APH Publishing. tr. 125. ISBN 978-8170248477. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
- Tod, James & Crooke, William (eds.) (1920). Annals and Antiquities of Rajasthan. 3 Volumes. Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., Delhi. Reprinted 1994.
- Austin, Ian and Thakur Nahar Singh Jasol. (eds.) The Mewar Encyclopedia.[thiếu ISBN]
- Austin, Ian (1999). Mewar – The World's Longest Serving Dynasty. Roli Books, Delhi/The House of Mewar.
- BBC staff (ngày 2 tháng 6 năm 2007). "Gurkha tells of citizenship joy". BBC News. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2009.
- Davenport, Hugh (1975). The Trials and Triumphs of the Mewar Kingdom. Maharana Mewar Charitable Foundation, Udaipur.
- Farwell, Byron (1985). The Gurkhas. W.W. Norton & Co. ISBN 0-393-30714-X
- Goswami, C.G. and M.N. Mathur. Mewar and Udaipur. Himnashu Publications, Udaipur-New Delhi.[thiếu ISBN]
- Griffiths, Neil. Gurkha Walking books: 'Hebridean Gurkha; 'Gurkha Highlander'; 'Gurkha Reiver'. Neil takes a Scottish cross-country walk with Gurkhas every year to raise funds for the Gurkha Welfare Trust.
- Latimer, Jon (2004). Burma: The Forgotten War, London: John Murray. ISBN 978-0-7195-6576-2.
- Masters, John (1956). Bugles and a Tiger – autobiography of the life and times of a British officer serving with a Gurkha regiment in India in the run up to World War II
- Pemble, John (2009). "Forgetting and Remembering Britain's Gurkha War". Asian Affairs. 40 (3): 361–376. doi:10.1080/03068370903195154. S2CID 159606340. Contains a historiographical analysis of the Gurkha "legend".
- Seear, Mike (2002). With The Gurkhas in the Falklands. ISBN 978-0-9556237-0-7
- Tucci, Sandro (1985). Gurkhas. H. Hamilton. ISBN 0-241-11690-2.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Gurkha kukri Knife: The traditional lethal Gurkha weapon.
- About Gurkhas and Gurkha Knives
- Gurkha Museum
- The Tripartite Agreement (TPA) 1947, British Ministry of Defence
- Twenty-Six Victoria Crosses have been won by Gurkha Regiments
- Land of Gurkhas, a video footage from 1957
- British, Indian, France Army training
Từ khóa » Phim Về Chiến Binh Gurkha
-
"chiến Binh Thép" Gurkha Trong "bom Tấn"FastFive - YouTube
-
Những Chiến Binh Can đảm Giúp ông Kim An Tâm Dự Hội Nghị Với ...
-
Những Khả Năng Siêu Việt Của Chiến Binh Gurkha
-
Tư Duy Lịch Sử - CHIẾN BINH GURKHA. Phần 1: Đôi Nét Về...
-
Tộc Chiến Binh Dũng Mãnh Nhất Thế Giới
-
"Siêu Chiến Binh" Một Mình Diệt Sạch Cứ điểm Quân Nhật - 24H
-
“Siêu Chiến Binh” đặc Nhiệm: Một Mình Chống 30 Lính Taliban
-
Gặp “chiến Binh Thép” Gurkha Trong “bom Tấn” Fast Five - AutoPro
-
Hành Trình Gây Dựng Tên Tuổi Của Những Chiến Binh Gurkha - Zing
-
Đặc Nhiệm Bảo Vệ Thượng đỉnh Mỹ -Triều “lợi Hại” Cỡ Nào?
-
Đặc Nhiệm Gurkha Bảo Vệ Thượng đỉnh Trump - Kim Chất Cỡ Nào?
-
Một Mình Chống Lại 30 Lính Taliban - Tiền Phong
-
Singapore điều động Chiến Binh Gurkha Bảo Vệ Thượng đỉnh Mỹ