Hanafuda – Wikipedia Tiếng Việt

A typical setup of hanafuda for the game of Koi-Koi, on top a red zabuton with a peony pattern.
Một ván bài Koi-Koi sử dụng lá bài hanafuda.

Hanafuda (tiếng Nhật: 花札(はなふだ, n.đ.'lá bài hoa'[1]) là tên một loại bài lá ở Nhật Bản. Chúng có kích thước bé hơn lá bài Tây (5,4 cm × 3,2 cm) nhưng dày và cứng hơn.[2] Mặt trước của lá bài có hình vẽ nhiều loài cây, loài hoa, động vật, chim, mảnh giấy tanzaku (短冊(たんざく) và một số đồ vật khác;[3][4] có duy nhất một lá bài có hình vẽ con người ở mặt trước. Mặt sau của lá bài không có hình ảnh hay hoa văn nào mà được tô bằng màu đen hoặc màu đỏ. Bài hanafuda được dùng để chơi nhiều loại trò chơi bài, chẳng hạn như Koi-Koi hay Hachi-Hachi [ja].

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Karuta

Người Bồ Đào Nha đem các bộ bài lá đến Nhật Bản vào giữa thế kỉ thứ 16. Khi ấy, bộ bài của người Bồ có 48 lá, với bốn chất và 12 cấp. Bộ bài đầu tiên mà người Nhật làm ra phỏng theo bộ bài của người Bồ được tạo ra trong thời kì Tensho (1573-1592), được gọi là Tensho Karuta. Khi ấy, trò chơi chủ đạo bằng bộ bài là một trò chơi gần giống Triunfo và Ombre.[5] Sau khi người Nhật bế quan tỏa cảng với phương Tây vào năm 1663, những lá bài từ nước ngoài đem tới cũng bị cấm.[6]

Một bộ bài hana awase từ những năm 1700, sáng tạo bởi họa sĩ Mitsunari Tosa (1646-1710) - tiền thân của hanafuda như ngày nay. Bộ bài này gồm có 100 chất bài, với 4 lá mỗi chất.

Năm 1648, chính quyền Mạc phủ Tokugawa đưa ra lệnh cấm bộ bài Tensho Karuta.[7] Trong thời gian cấm, việc đánh bạc với các lá bài vẫn còn rất phổ biến, từ đó dẫn tới việc thiết kế các lá bài khác đi theo chu trình: mỗi lần việc đánh bạc với một bộ bài có một thiết kế nhất định trở nên quá nổi tiếng, chính quyền sẽ cấm nó, sau đó bộ bài sẽ lại được thiết kế theo một cách khác để lách luật, giống như trò chơi mèo vờn chuột. Chính tình huống này giữa chính quyền và những con bạc đã thúc đẩy việc thiết kế bộ bài trở nên tối giản và trừu tượng, nhóm những thiết kế ấy được gọi là Yomi Karuta, nổi lên sau khi một trò chơi bài giống với Poch nổi lên vào khoảng những năm 1680.[8]

Xuyên suốt thời kì Meiwa, An'ei, Tenmei (khoảng năm 1764 - 1789), một trò chơi tên Mekuri chiếm lấy vị trí số một của Yomi, tới mức chính tên bộ bài Yomi Karuta bị đổi tên thành Mekuri Karuta.[9][10] Các lá bài lại trở nên phổ biến cho việc đánh bạc, tới mức lại tiếp tục bị cấm vào năm 1791 trong thời kì Kansei. Mặt khác, Uta-garuta như Hyakunin Isshu vẫn được cho phép với mục đích giáo dục như cách để học sinh học thơ. Từ đó, để lách luật, các bộ hanafuda xưa có các câu thơ cổ trên vài lá bài để làm cho giống với Uta-garuta, cho tới ngày nay những câu thơ ấy vẫn còn xuất hiện trên những lá tanzaku.

Phiên bản được biết tới sớm nhất có liên quan tới hana awase (một phiên bản trước hanafuda) là từ năm 1816, khi người ta ghi nhận rằng nó bị cấm do là một công cụ cờ bạc. Bộ bài khi ấy có khoảng từ 12, 20, thậm chí là 32 chất bài, mỗi chất có một lá giá trị cao, một lá tanzaku và hai lá giá trị thấp.[11]

Sau này, khi hana awase trờ thành hanafuda như ngày nay, bộ bài thu về còn 12 chất (đại diên cho 12 tháng trong năm) với bốn giá trị mỗi chất. Phần lớn các lá bài trong bộ hanafuda là hậu duệ của bộ Mekuri, còn các lá bài hoa đến từ bộ Yomi (mà còn tồn tại được tới thế kỷ thứ 20).[12] Mặc dù bộ bài này vẫn có thể sử dụng được cho việc đánh bạc, thiết kế và cấu trúc của nó bất tiện hơn những bộ bài khác như Kabufuda. Bắt đầu từ thời kì Thiên hoàng Minh Trị, các trò chơi bài mới được chính quyền cho phép.

Marufuku Nintendo Card Company building in Shimogyō-ku, Kyoto.
Trụ sở của công ty sản xuất bài Marufuku Nintendo ở Shimogyō, Kyōto.

Năm 1889, Yamauchi Fusajirō sáng lập ra Nintendo với mục đích sản xuất và kinh doanh các bộ bài hanafuda thủ công.[13] Mặc dù đã chuyển trọng tâm sang trò chơi video từ những năm 1970, Nintendo tiếp tục sản xuất bài ở Nhật Bản, với những bộ lấy chủ đề Mario, Pokémon hay Kirby.[14][15][16] Trò chơi Koi-Koi chơi trên bộ bài hanafuda cũng xuất hiện trên Clubhouse Games trên Nintendo DS, hay Clubhouse Games: 51 Worldwide Classics trên Nintendo Switch.[17] Tuy nhiên, dù đa số các bộ bài hanafuda hiện đại ở Nhật Bản được sản xuất bởi Oishi Tengudo (1800) hay Nintendo (1889), vẫn có rất nhiều công ty khác tham gia vào việc sản xuất hanafuda như Angel, Tamura Shogundo, Matsui Tengudo, v.v...[18]

Hanafuda cũng được đem tới Hàn Quốc vào cuối những năm 1890,[19][20] và tới Hawaii vào đầu những năm 1900. Từ đó, ở Hàn Quốc và Hawaii cũng tự sản xuất những bộ hanafuda cho riêng mình, thậm chí còn thay đổi các hình ảnh nguyên gốc từ Nhật Bản để phù hợp với văn hóa bản địa của họ. Thậm chí để tiếp cận với phương Tây, có những bộ bài kết hợp cả hanafuda với bài Tây.

Lá bài

[sửa | sửa mã nguồn]

Một bộ bài hanafuda có tổng cộng 48 lá bài, được phân thành 12 chất đại diện cho 12 tháng trong năm. Mỗi một chất có 4 lá bài và được gán cho một loài hoa hay loài cây.[21] Bên cạnh đó, bộ bài hanafuda còn có thêm một lá bài trống để thay thế khi cần. Trong bộ bài hwatu của Hàn Quốc còn có những lá joker (조커패) được dùng để thưởng điểm.[22]

Bảng dưới đây trình bày cách phân loại cũng như giá trị của từng lá bài. Nên chú ý rằng mỗi trò chơi bài khác nhau thì có cách phân loại khác nhau cũng như gán giá trị cách khác nhau cho từng lá bài. Chẳng hạn, trong trò chơi Hachi-Hachi [ja], tất cả 4 thẻ theo tháng 11 được coi là thẻ kasu (1 điểm), còn trong trò chơi Sakura thì giá trị các lá bài được định cách khác.

Tháng / chất

Hoa / Cây

Hikari

(20 điểm)

Tane

(10 điểm)

Tanzaku

(5 điểm)

Kasu

(1 điểm)

Tháng Một

Cây thông

Con sếu và Mặt trời Tanzaku với câu thơ 2 lá
Tháng Hai

Hoa mơ

Vành khuyên Nhật Bản[a] Tanzaku với câu thơ 2 lá
Tháng Ba

Hoa anh đào

Cái rèm Tanzaku với câu thơ 2 lá
Tháng Tư

Hoa tử đằng

Chim cu cu[b] Tanzaku trống không 2 lá
Tháng Năm

Hoa diên vĩ

Cầu Yatsuhashi Tanzaku trống không 2 lá
Tháng Sáu

Hoa mẫu đơn[c]

Bươm bướm Tanzaku màu xanh 2 lá
Tháng Bảy

Mã biên thảo [d]

Heo rừng Tanzaku trống không 2 lá
Tháng Tám

Cây chè vè [e]

Trăng tròn [f] Con ngỗng[g] 2 lá
Tháng Chín

Hoa cúc[h]

Chén rượu sake Tanzaku màu xanh 2 lá
Tháng Mười

Cây phong

Con hươu Tanzaku màu xanh 2 lá
Tháng Mười một*

Cây liễu

Ono no Michikaze

hay hình một người cầm ô[i]

Chim én[j] Tanzaku trống không (Sấm sét)[k] 1 lá
Tháng Mười hai*

Cây hông lông

Phượng hoàng 3 lá

* Trong bộ bài hwatu của Hàn Quốc, các chất của tháng 11 và tháng 12 được gán ngược lại.

Ý nghĩa của văn bản tiếng Nhật

[sửa | sửa mã nguồn]

Một vài lá bài hanafuda có chứa văn bản tiếng Nhật. Thời xa xưa, người ta viết các câu thơ lên lá bài hanafuda để ngụy trang chúng cho giống như loại bài lá uta-garuta (n.đ.'bài lá câu thơ'); tuy vậy hiện nay thì phần chữ viết trên các lá bài đã được giản lược. Bên cạnh các ví dụ như mấy lá bài bên dưới, thì các lá bài kasu của chất theo tháng 12 thường có thêm tên và con dấu của nhà sản xuất, tương tự như quân át bích trong bộ bài Tây.

Lá bài Mô tả
akayoroshi (あかよろし, akayoroshi?, "màu đỏ là màu tốt lành") với chữ ka được viết theo kiểu hentaigana là 𛀙
mi-Yoshino (みよしの, mi-Yoshino?, "Yoshino xinh đẹp") nhắc đến thị trấn Yoshino, tỉnh Nara, nổi tiếng với loài cây anh đào lai Somei-Yoshino
kotobuki (寿, kotobuki?, "sống lâu")

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Vào trung kỳ Edo, chỉ có lá bài với con chim vành khuyên Nhật Bản mới có hoa mơ màu đỏ, các lá bài cùng chất khác thì có hoa mơ màu trắng nhạt. Mặc dù trên lá bài ngày nay, mắt của con chim vành khuyên có màu đỏ, tuy nhiên vào trung kỳ Edo, con mắt ấy có màu khá mờ đục (đậm hơn màu của hoa diên vĩ và hoa hông lông) và gần với màu mắt của chim vành khuyên Nhật Bản trên thực tế. [23]
  2. ^ Bài lá hanafuda vào thời trung kỳ Edo không có phông nền mà chỉ có cành hoa tử đằng và một con chim cu cu. Màu sắc của hoa khi đó có phần nhợt nhạt. Đến thời kỳ Meiji, màu sắc của hoa dần đậm hơn và bắt đầu xuất hiện những đám mây màu đỏ ở phía sau. Vào khoảng thập niên 1880, bắt đầu xuất hiện "vầng trăng khuyết màu đỏ" ở phía sau. [23]
  3. ^ Vào trung kỳ Edo, lá bài có điểm có bông hoa mẫu đơn màu trắng, còn lá bài Kasu có hoa mẫu đơn màu tím hay là hai bông hoa đỏ và một bông hoa trắng. [23]
  4. ^ In the mid-Edo period, the color of the flowers were quite pale, but in later periods, the color became darker.[23]
  5. ^ Sometimes 芒 susuki is translated as pampas (grass).
  6. ^ The "bright red night sky" is said to have changed from plain or light blue in the early period, to yellow or light pink in the late Edo period, to bright red in the Meiji period. Also, during the era of woodblock printing, the moon was hidden at the bottom or left edge (sometimes a crescent moon). White was the color of the unprinted parts, so it was difficult to paint around it and leave it alone while using woodblocks.[23]
  7. ^ Throughout the Edo period to today, the three geese are depicted flying in the shape of the letter く, but around the 1880s, they were flying in a parallel line like 三 and filled the entire sky. For this reason, geese were considered large birds and formed a yaku with the Crane and Phoenix in some games.[23]
  8. ^ In the mid-Edo period, one of the kasu had a red chrysanthemum while the rest were white chrysanthemums. From the late Edo period onwards, cards with yellow-red flowers began to appear.[23]
  9. ^ Originally, the figure with umbrella was a yōkai (amefurikozō), whom people from the Edo period recognized as the highwayman Sadakurō from the play Kanadehon Chūshingura.[23] In 1886, the publisher Maeda Kihei (前田喜兵衛) negotiated with manufacturers in Kyoto and Osaka to change the design from Sadakurō to the calligrapher Ono no Michikaze to improve the image.
  10. ^ Today, the swallows are brightly colored yellow and red, but in the mid-Edo period, they were normal swallow colors (black with a red throat).[23]
  11. ^ This card's design is significantly different from the other rain cards, but from the Edo to early Meiji periods, it was like other kasu with only a willow tree drawn on it. In the early 1880s, it began being painted solid red, and in the late 1880s, the picture was changed from a sunny willow tree to the lightning drum in the rain.[23]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Pakarnian, John, "Game Boy: Glossary of Japanese Gambling Games", Metropolis, Tháng Một 22, 2010, p. 15.
  2. ^ "Hanafuda | cards". Encyclopedia Britannica (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  3. ^ "映画「ちはやふる」の隠れた聖地!京都・大石天狗堂". ORICON NEWS. ngày 13 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  4. ^ "The Sloperama Hanafuda/Go-Stop Zone". www.sloperama.com. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  5. ^ Depaulis, Thierry (2009). "Playing the Game: Iberian Triumphs Worldwide". The Playing-Card. Vol 38-2, p. 134-137.
  6. ^ Harris, Blake J., Console Wars: Sega, Nintendo, and the Battle that Defined a Generation, It Books, 2014-May-13. ISBN 978-0062276698. "Chapter 5"
  7. ^ Mann, Sylvia; Wayland, Virginia (1973). The Dragons of Portugal. Farnham: Sanford. tr. 46.
  8. ^ Kuromiya Kimihiko. (2005). "Kakkuri: The Last Yomi Game of Japan". The Playing-Card, Vol 33-4. p. 232-235.
  9. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Kakkuri2
  10. ^ McLeod, John; Dummett, Michael (1975). "Hachi-Hachi". The Playing-Card. 3 (4): 26–39.
  11. ^ "江戸時代~昭和時代 伝統の花札一覧 - 日本かるた文化館" (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2023.
  12. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Kakkuri3
  13. ^ Ashcraft, Brian (ngày 30 tháng 3 năm 2022). "The Traditional Beauty Of Nintendo's Playing Cards". Kotaku. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2022.
  14. ^ "Nintendo To Release Mario-Themed Japanese Playing Cards". Kotaku Australia (bằng tiếng Anh). ngày 21 tháng 10 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  15. ^ "Koi-koi! Nintendo's Pokemon hanafuda cards hitting Japan". Destructoid (bằng tiếng english). ngày 24 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  16. ^ "「星のカービィ」が花札に オリジナル役も収録". ねとらぼ (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  17. ^ Lane, Gavin (ngày 25 tháng 5 năm 2020). "Nintendo Shares A Handy Infographic Featuring All 51 Worldwide Classic Clubhouse Games". Nintendo Life. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2020.
  18. ^ "Japanese Hanafuda Brands". Ways To Play (bằng tiếng Anh). 1969. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2023.
  19. ^ Kim, Kwang-ŏn. (2004). Tong Asia ŭi nori. Seoul: Minsogwŏn. ISBN 89-5638-121-6. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2020.
  20. ^ Fairbairn, John (1991). "Modern Korean cards - a Japanese perspective". The Playing-Card. 20 (2): 68–72.
  21. ^ "Hanafuda: Japanese "Flower Cards" Designed to Circumvent Ban on Western Decks". 99% Invisible (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  22. ^ Sloper, Tom. "Go-Stop". www.sloperama.com. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2017.
  23. ^ a b c d e f g h i j 江橋崇 (2014). 花札. ものと人間の文化史. 法政大学出版局. ISBN 9784588216718.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện về Hanafuda.
  • Luật chơi bằng tiếng Anh Lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2012 tại Wayback Machine
Stub icon

Bài viết liên quan đến Nhật Bản này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s
Stub icon

Bài viết chủ đề văn hóa này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Từ khóa » Bài Hwatu