Hành Vi Chơi Lô, đề Bị Xử Lý Như Thế Nào?

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến hieuluat.vn, Ban tư vấn của hieuluat.vn xin trả lời bạn như sau:   

Trên thực tế xét xử các vụ án hình sự thì hành vi ghi lô đề sẽ bị xét xử về tội đánh bạc và/ hoặc tội tổ chức đánh bạc theo quy định tại Điều 321 và Điều 322 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (BLHS năm 2015) theo quy định như sau:

“Điều 321. Tội đánh bạc

1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Điều 322. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc

1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền Sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;

d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoátkhi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;

đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;

c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương, tiện điện tử để phạm tội;

d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

Dấu hiệu về mặt khách quan của Tội đánh bạc theo Điều 321 BLHS năm 2015 thì người phạm tội phải có hành vi “đánh bạc trái phép”.

Theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 01) thì “đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp”.

Ngoài ra, để cấu thành tội này thì giá trị tiền hoặc hiện vật dùng vào việc đánh bạc phải từ 5.000.000 đồng trở lên.

Trường hợp đã xác định hành vi đánh bạc trái phép nhưng số tiền hoặc hiện vật dùng vào việc đánh bạc dưới 5.000.000 đồng thì người đánh bạc trái phép có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đánh bạc nếu như đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc hoặc đã bị kết án về một trong các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Dấu hiệu khách quan của Tội tổ chức đánh bạc theo Điều 322 BLHS năm 2015 được hiểu là hành vi cầm đầu, chủ mưu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa, rủ rê, lôi kéo và tạo điều kiện thuận lợi khác cho những người khác tham gia đánh bạc trái phép với mục đích ăn thua bằng tiền hoặc hiện vật với nhau. Theo quy định tại Điều 249 BLHS năm 1999 thì người phạm tội này phải tổ chức cho nhiều người đánh bạc với “quy mô lớn”. Điều 322 BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa “quy mô lớn” thành các trường hợp sau đây:

a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng;

b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;

d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người giam gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc.

Ngoài những trường hợp được xem là “quy mô lớn” vừa nêu, nếu người tổ chức đánh bạc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc đánh bạc; hoặc đã bị kết án về tội tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc đánh bác chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc. Ngược lại, nếu tổ chức đánh bạc nhưng không thuộc trường hợp “quy mô lớn” nhưng số tiền hoặc hiện vật dùng vào việc đánh bạc có giá trị trên 5.000.000 đồng thì họ phải chịu trách nhiệm về tội đánh bạc với vai trò đồng phạm.

Với những phân tích trên thì việc định tội danh đối với hành vi đánh lô, đề được xác định như sau:

1.1. Nếu người bán số đề trực tiếp bán cho nhiều người và trực tiếp ăn thua với họ thì đây là trường hợp một người (chủ đề) đánh bạc với nhiều người (người mua số đề) nên việc định tội danh như sau:

- Người bán số đề (chủ đề) phạm tội đánh bạc nếu tổng số tiền lô, đề đã bán cộng với số tiền mà người chơi trúng giải (nếu có) từ 5.000.000 đồng trở lên trong cùng một lô đề.

- Người mua số đề phạm tội đánh bạc nếu tổng số tiền mua đề cộng với số tiền trúng giải (nếu có) là từ 5.000.000 đồng trở lên trong cùng một lô đề.

1.2. Trường hợp người bán số đề (chủ đề) giao cho người trung gian (tay em) để người này bán lại cho người mua thì việc định tội được xác định như sau:

- Đối với chủ đề:

+ Nếu trong cùng một lô đề mà số tiền tất cả các tay em bán được giao lại cho chủ đề cộng với số tiền trúng giải (nếu có) từ 20.000.000 đồng trở lên thì chủ đề phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc.

+ Nếu trong cùng một lô đề mà số tiền tất cả các tay em bán được giao lại cho chủ đề cộng với số tiền trúng giải (nếu có) dưới 20.000.000 đồng nhưng tổng số người chơi mà các tay em bán từ 10 người trở lên thì chủ đề phải chịu trách nhiệm về Tội tổ chức đánh bạc.

+ Nếu trong cùng một ngày mà số tiền tất cả các tay em bán được giao lại cho chủ đề cộng với số tiền trúng giải (nếu có) từ 5.000.000 đồng trở lên nhưng dưới 20.000.000 đồng và số người chơi các tay em đã bán chưa đủ 10 người thì người chủ đề không phải chịu trách nhiệm về Tội tổ chức đánh bạc mà phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội đánh bạc.

+ Nếu chủ đề ngoài việc giao phơi đề cho các tay em bán lại, còn trực tiếp bán lô, đề ăn thua với người mua thì chủ đề phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc đối với phần giao cho các tay em bán lại (nếu thỏa mãn các điều kiện nêu tại điểm a, b trên đây) và Tội đánh bạc đối với phần trực tiếp ăn thua với người mua lô đề.

- Đối với từng người trung gian (tay em) thì xác định như sau:

+ Nếu số tiền bán đề trong cùng một ngày đã giao toàn bộ cho chủ đề cộng với số tiền trúng giải (nếu có) từ 20.000.000 đồng trở lên thì người trung gian phải chịu trách nhiệm về Tội tổ chức đánh bạc với vai trò đồng phạm giúp sức cho chủ đề.

+ Nếu số tiền bán đề trong cùng một ngày đã giao toàn bộ cho chủ đề cộng với số tiền trúng giải (nếu có) dưới 20.000.000 đồng nhưng bán cho từ 10 người chơi trở lên thì người trung giancũng đồng phạm Tội tổ chức đánh bạc với chủ đề.

+ Nếu số tiền bán đề trong cùng một ngày đã giao toàn bộ cho chủ đề cộng với số tiền trúng giải (nếu có) dưới 20.000.000 đồng nhưng trên 5.000.000 đồng và bán cho 9 người trở xuống thì người trung gian không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc mà phạm tội đánh bạc.

+ Nếu số tiền bán đề trong cùng một chỉ giao một phần cho chủ đề, phần còn lại giữ lại để trực tiếp ăn thua với người mua đề thì phần giữ lại sẽ bị truy cứu thêm tội đánh bạc nếu số tiền giữ lại cộng với số tiền trúng giải của phần giữ lại (nếu có) trên 5.000.000 đồng.

- Đối với người trực tiếp mua số đề có số tiền mua đề cộng với số tiền trúng giải (nếu có) trong một lô đề từ 5.000.000 đồng trở lên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.

Như vậy, tùy vào từng trường hợp và từng “tư cách” mà hành chơi số đề sẽ được xem xét để xử lý theo những quy định ở trên về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc với các khung hình phạt khác nhau.

Từ khóa » Tội Chơi Lô đề