Harry Maguire – Wikipedia Tiếng Việt

Harry Maguire
Maguire trong màu áo đội tuyển Anh vào năm 2023
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Jacob Harry Maguire[1]
Ngày sinh 5 tháng 3, 1993 (31 tuổi)[2]
Nơi sinh Sheffield, Anh
Chiều cao 1,94 m (6 ft 4 in)[3]
Vị trí Trung vệ[4]
Thông tin đội
Đội hiện nay Manchester United
Số áo 5
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
0000–2011 Sheffield United
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2011–2014 Sheffield United 166 (12)
2014–2017 Hull City 75 (3)
2015 → Wigan Athletic (mượn) 16 (1)
2017–2019 Leicester City 69 (5)
2019– Manchester United 140 (6)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡
Năm Đội ST (BT)
2012 U-21 Anh 1 (0)
2017– Anh 63 (7)
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Đại diện cho  Anh
UEFA Nations League
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Bồ Đào Nha 2019 Đội bóng
Giải vô địch bóng đá châu Âu
Á quân Châu Âu 2020 Đội bóng
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 27 tháng 4 năm 2024‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 23 tháng 3 năm 2024

Jacob Harry Maguire (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Premier League Manchester United và đội tuyển bóng đá quốc gia Anh.

Sinh ra ở Sheffield, Maguire đã tham gia đội bóng thanh thiếu niên tại Sheffield United trước khi lên đội một vào năm 2011. Anh đã có tổng cộng 166 trận đấu chuyên nghiệp cho Blades và là Cầu thủ của năm ba lần liên tiếp, cũng góp mặt trong Đội hình của năm của PFA cho League One nhiều lần. Năm 2014, Harry Maguire chuyển đến Hull City với giá 2,5 triệu bảng, sau đó anh đã được câu lạc bộ này cho Wigan Athletic mượn vào năm 2015. Anh gia nhập Leicester City vào năm 2017 với mức phí tiềm năng 17 triệu bảng. Tháng 8 năm 2019, Maguire rời Leicester City và gia nhập Manchester United với mức phí chuyển nhượng kỉ lục 80 triệu bảng, khiến anh trở thành trung vệ đắt giá nhất thế giới,[5] và chỉ sáu tháng sau thì trở thành đội trưởng của câu lạc bộ.

Maguire đã chơi một trận cho đội tuyển U-21 Anh vào năm 2012. Vào tháng 10 năm 2017, anh đã có trận ra mắt đội tuyển quốc gia, và đã được chọn vào đội hình tham dự FIFA World Cup 2018 và UEFA Euro 2020, giành được một suất trong Đội hình của Giải đấu sau đó.

Sự nghiệp câu lạc bộ

Sheffield United

Maguire chơi cho Sheffield United vào năm 2011

Maguire sinh ra ở Sheffield, Miền nam Yorkshire.[6] Sau khi trải qua thời gian đào tạo tại Sheffield United, anh ấy được đôn lên đội 1 và có trận ra mắt câu lạc bộ ở trận gặp Cardiff City vào tháng 4 năm 2011.[7] Anh đã có 4 lần ra sân trong mùa giải đó nhưng không thể giúp cho câu lạc bộ tránh bị xuống hạng ở League One.[8]

Sau khi củng cố vị trí của mình trong đội một, Maguire đã ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng có biệt danh là "Lưỡi dao" trong chiến thắng 2-0 trước Oldham Athletic ở mùa giải League One 2011–12.[9] Đã góp mặt từ đầu mùa giải, Maguire đã được trao một hợp đồng gia hạn vào tháng 10 để giữ anh ta ở lại sân Bramall Lane cho đến năm 2015.[10] Anh tiếp tục với phong độ tuyệt vời khi giúp The Blades chút nữa thăng hạng và được câu lạc bộ bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất mùa và cầu thủ trẻ xuất sắc nhất mùa.[11] Maguire bước vào mùa giải tiếp theo với tư cách là cầu thủ trụ cột ở vị trí trung vệ, anh lập cú đúp trong trận đấu ở Cúp Liên đoàn với chiến thắng 4-1 trước Notts County trên sân Meadow Lane vào ngày 17 tháng 10 năm 2012.[11] Vào cuối tháng 2 năm 2013, Maguire đã đạt cột mốc 100 trận cho Sheffield United trong trận hòa 0-0 với Leyton Orient tại Bramall Lane ở tuổi 19.[12][13]

Hull City

Maguire sau chiến thắng của Hull City trước Sheffield Wednesday trong trận chung kết play-off Football League Championship 2016

Vào ngày 29 tháng 7 năm 2014, Maguire gia nhập Hull City trong một thỏa thuận trị giá 2,5 triệu bảng, ký hợp đồng ba năm.[14] Anh ra mắt cho Hull City vào ngày 21 tháng 8 tại vòng play-off UEFA Europa League lượt đi gặp đối thủ đến từ Bỉ đó là K.S.C. Lokeren Oost-Vlaanderen, thất bại với tỷ số 0-1.[15]

Sau khi chỉ có sáu lần ra sân trên tất cả mọi đấu trường cho Hull, Maguire chuyển tới Wigan Athletic tại Championship trong một hợp đồng cho mượn một tháng vào ngày 10 tháng 2 năm 2015.[16] Một tuần sau, anh ra mắt trong chiến thắng 1–0 tại Reading.[17] Vào ngày 28 tháng 2, anh ghi bàn bằng một cú đánh đầu từ đường chuyền của Jermaine Pennant trong chiến thắng trên sân khách với tỷ số 3–1 trước Blackpool.[18][19]

Trong khi Maguire được cho mượn, Hull đã bị xuống hạng tại Championship. Vào ngày 28 tháng 5 năm 2016, họ đã giành chiến thắng trận chung kết play-off với tỷ số 1–0 trước Sheffield Wednesday trên Sân vận động Wembley, anh thay thế cho Mohamed Diamé ở phút cuối cùng của trận chung kết.[20]

Trong mùa giải 2016–17, Huấn luyện viên Mike Phelan tạo cơ hội cho Maguire thi đấu thường xuyên với đội 1.[21] Maguire ghi bàn thắng đầu tiên cho Hull trong chiến thắng 2–1 ở Cúp EFL trước Bristol City vào ngày 25 tháng 10 năm 2016.[22] Maguire đeo băng đội trưởng cho Hull City trong trận thắng trước Middlesbrough vào ngày 5 tháng 4 năm 2017 và ghi bàn thắng đầu tiên tại Premier League trong chiến thắng với tỷ số 4–2.[23]

Leicester City

Vào ngày 15 tháng 6 năm 2017, Maguire đã ký hợp đồng với câu lạc bộ Premier League là Leicester City theo hợp đồng 5 năm với mức phí 12 triệu bảng, kèm điều khoản tăng thêm 17 triệu bảng.[24] Anh ra mắt vào ngày 11 tháng 8 khi mùa giải mới bắt đầu trong trận thua 3–4 trước Arsenal,[25] và tám ngày sau, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Bầy cáo, trong tình huống đá phạt góc của Riyad Mahrez ở trận thắng 2–0 trước Brighton & Hove Albion tại Sân vận động King Power.[26] Anh đã chơi trọn vẹn mùa giải 2017–18 và được bình chọn cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của câu lạc bộ.[27][28]

Manchester United

Mùa giải 2019–20

Vào tháng 7 năm 2019, Manchester United đã trả giá 70 triệu bảng cho Maguire nhưng sau đó họ rút lui thương vụ này vì mức giá của anh quá cao.[29] Họ tiếp tục tăng giá mua Maguire lên tới 80 triệu bảng và được phía Leicester chấp nhận vào ngày 2 tháng 8. Khoản phí này vượt qua 75 triệu bảng mà Liverpool đã trả cho Virgil van Dijk vào tháng 1 năm 2018, biến Maguire trở thành hậu vệ đắt giá nhất thế giới.[30] Việc chuyển nhượng được hoàn tất vào ngày 5 tháng 8, với Maguire ký hợp đồng sáu năm kèm điều khoản tự động gia hạn thêm một năm.[31] Anh ra mắt United trong trận mở màn mùa giải Premier League, với chiến thắng 4–0 trên sân nhà trước Chelsea vào ngày 11 tháng 8 và nhận giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu.[32]

Vào ngày 17 tháng 1 năm 2020, anh được huấn luyện viên Ole Gunnar Solskjær chọn làm đội trưởng mới của câu lạc bộ sau khi Ashley Young chuyển tới Inter Milan.[33] Chín ngày sau, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho United trong trận thắng 6–0 ở đấu trường Cúp FA trước Tranmere Rovers.[34] Maguire ghi bàn thắng đầu tiên của anh ở Ngoại hạng Anh trong trận đấu với Chelsea trên sân Stamford Bridge ngày 17 tháng 2 năm 2020 (United thắng 2-0).[35] Sau thời gian thể thao bị hoãn do Đại dịch COVID-19, Maguire đã ghi bàn thắng ở phút bù giờ trong trận tứ kết FA Cup gặp Norwich City giúp Manchester United thắng 2-1 và lọt vào bán kết.[36] Maguire được coi là một trong những cầu thủ có đóng góp quan trọng nhất cho Manchester United trong mùa bóng,[37] với việc thi đấu toàn bộ 38 trận ở Ngoại hạng Anh, và là cầu thủ có thời gian thi đấu nhiều nhất trên thế giới trong năm 2020 (4.745 phút).[38]

Mùa giải 2020–21

Phong độ của Maguire bắt đầu có dấu hiệu sa sút khi giải Ngoại hạng Anh trở lại sau thời gian tạm dừng vì COVID-19. Sự cố cá nhân ở Hy Lạp cùng việc thời gian chuẩn bị cho mùa giải mới của Man Utd quá ngắn, có vẻ đã ảnh hưởng tới phong độ của Maguire. Dễ nhận thấy nhất là việc anh thường xuyên bị đối thủ qua mặt trong các pha đua tốc độ. Ngày 5 tháng 10 năm 2020, trong trận thua 1-6 trước Tottenham ngay trên sân nhà, Maguire mắc hai lỗi trực tiếp, trong đó có pha bóng khó hiểu trong bàn thua đầu tiên khi liên tiếp chuyền hỏng, từ quả đánh đầu trả về cho David De Gea, cho tới nỗ lực phá bóng ra xa, dù không chịu sức ép lớn. Ở tình huống quyết định, anh tỏ ra thiếu ăn ý với Luke Shaw khi vô tình làm ngã đồng đội lúc đó đang cố gắng phá bóng, tạo thời cơ cho cầu thủ đối phương băng từ dưới lên, sút cận thành gỡ hòa. Ở bàn thua thứ hai, Maguire bất cẩn để Harry Kane đá phạt nhanh cho Son Heung-min thoát xuống ghi bàn. Anh còn để Serge Aurier chuyền "xâu kim", dẫn đến bàn thứ tư của Tottenham.

Maguire ghi bàn đầu tiên trong mùa giải trong trận đấu trên sân khách với Newcastle United ngày 17 tháng 10 năm 2020, bàn thắng gỡ hòa giúp Manchester lội ngược dòng thắng 4-1.[39] Maguire tiếp tục ghi bàn trong trận gặp Sheffield United F.C., trận mà Manchester United thất bại 1-2 trên sân Old Trafford ngày 27 tháng 1 năm 2021.[40] Trong trận gặp kình địch cùng thành phố Manchester City, Maguire đã chơi xuất sắc ở hàng thủ, giúp United thắng thuyết phục 2-0.[41]

Ngày 9 tháng 5 năm 2021, Maguire ra sân trong trận đấu thuộc vòng 35 Ngoại hạng Anh, và lập kỷ lục thi đấu liên tục 72 trận đấu thuộc Ngoại hạng, phá kỷ lục 71 trận lập bởi cựu cầu thủ Manchester United Gary Pallister (1989 - 1998) lập trong quá khứ (1993 - 1995).[42] Ở trận đấu này, Manchester United đã thắng 3-1 sau khi bị dẫn trước bởi Aston Villa F.C., nhưng Maguire đã bị chấn thương và buộc phải rời sân ở phút thứ 68. Ngày 26 tháng 5, anh vắng mặt trong trận chung kết Europa League với Villareal vì chấn thương, phải chứng kiến đội nhà để thua trên chấm luân lưu sau khi hòa 1-1.

Mùa giải 2021–22

Harry Maguire chơi cho Manchester United năm 2021

Phong độ của Maguire tiếp tục sa sút vào mùa giải này, sau khi dính chấn thương cuối mùa trước nhưng vẫn cố tham dự Euro 2020. Anh liên tục mắc nhiều lỗi sơ đẳng và khiến đội nhà nhận những bàn thua đáng tiếc, đặc biệt là trong các trận cầu đỉnh cao. Theo thống kê hai mùa gần nhất, Maguire đã chơi 62 trận và bảy lần mắc sai lầm, qua đó đứng đầu danh sách mắc lỗi ở Ngoại hạng Anh.[43] Ngày 17 tháng 10 năm 2021, Maguire ít nhiều mắc lỗi trong cả bốn bàn thua của Man Utd trước Leicester (thua 2-4), chủ yếu là do không kèm người và đứng sai vị trí. Ngày 7 tháng 3 năm 2022, Maguire cũng mắc ba lỗi khiến đội nhà thua Man City 1-4, trong đó có hai pha để bóng qua háng và một pha giơ chân phá bóng vô tình khiến Man Utd nhận bàn thua. Sau khi mắc lỗi ở hai trong 4 bàn thua của đội nhà trong thảm bại 0-4 trước kình địch Liverpool ngày 19 tháng 4,[44] nhà của Maguire đã nhận một email cảnh báo dọa đặt bom khiến anh phải gọi cảnh sát can thiệp. Phong độ sa sút cũng khiến Maguire bị nhiều đồng đội soi xét. Họ nghi ngờ với tư chất thủ lĩnh của anh, và cảm thấy màn trình diễn của Maguire không đáp ứng tiêu chuẩn cao của câu lạc bộ.[45]

Sự nghiệp quốc tế

Đội trẻ

Maguire đủ điều kiện để chơi cho Anh, cũng như Bắc Ireland và Cộng hòa Ireland thông qua ông bà của anh ấy. Tuy nhiên, anh được gọi vào đội tuyển U-21 quốc gia Anh lần đầu tiên vào tháng 11 năm 2012 cho trận giao hữu với Bắc Ireland. Danny Wilson nói rằng "Anh ấy đã có một sự trưởng thành đáng kinh ngạc so với tuổi của mình, anh ấy có mọi thứ trong bước đi của mình và không có gì khiến anh ấy lo lắng. Tôi cũng không mong đợi cuộc gọi này vì anh ấy là một nhân vật có đẳng cấp như vậy." Maguire có trận ra mắt đội tuyển U-21 Anh với tư cách là cầu thủ dự bị vào sân thay cho Andre Wisdom của Liverpool ở phút 60 trong chiến thắng 2–0 trước đội U-21 Bắc Ireland tại Bloomfield Road.

Đội tuyển quốc gia

Maguire thi đấu cho đội tuyển Anh tại FIFA World Cup 2018.

Vào ngày 24 tháng 8 năm 2017, huấn luyện viên đội tuyển Anh, Gareth Southgate đã đưa Maguire vào đội hình của mình cho các trận đấu vòng loại FIFA World Cup 2018 với Malta và Slovakia.[46] Anh có trận ra mắt khi bắt đầu trong chiến thắng 1–0 trên sân khách của Anh trước Lithuania, đây là trận đấu cuối cùng của đội trong chiến dịch vòng loại World Cup thành công của họ.[47]

Maguire có tên trong danh sách 23 cầu thủ đội tuyển Anh tham dự FIFA World Cup 2018.[48] Anh kiến ​​tạo cho bàn thắng của Harry Kane trước Tunisia vào ngày 18 tháng 6 năm 2018 trong trận mở màn World Cup của đội tuyển Anh thắng 2–1.[49] Maguire ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Anh vào ngày 7 tháng 7 với cú đánh đầu ở phút 30 sau đường chuyền của Ashley Young trong chiến thắng 2–0 trước Thụy Điển ở tứ kết.[50]

Tại UEFA Euro 2020, anh chơi trận đầu tiên với Cộng hòa Séc trong trận đấu cuối cùng của vòng bảng.[51] Sau đó, anh góp mặt ở vòng 16, khi Anh giành chiến thắng 2–0 trước Đức, nhờ đó anh được trao giải Ngôi sao của trận đấu.[52] Vào ngày 3 tháng 7 năm 2021, Maguire ghi bàn thắng thứ hai cho đội tuyển Anh trong chiến thắng 4–0 trước Ukraine ở tứ kết.[53] Maguire xuất phát trong trận bán kết với Đan Mạch và trong trận chung kết với Ý. Anh hòa 1–1 sau 120 phút; trong loạt sút luân lưu Maguire đá quả luân lưu thứ hai cho đội tuyển Anh và thành công. Tuy nhiên, Anh thua 3–2.[54] Những màn trình diễn của anh ấy trong suốt giải đấu đã giúp anh ấy có một suất trong Đội hình tiêu biểu của UEFA Euro 2020.[55]

Vào ngày 15 tháng 11 năm 2021, Maguire ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 10–0 trước San Marino trong trận đấu cuối cùng của chiến dịch vòng loại FIFA World Cup 2022, trở thành hậu vệ ghi nhiều bàn nhất của đội tuyển Anh với bảy bàn thắng, vượt qua John Terry và Jack Charlton.[56][57]

Cuộc sống cá nhân

Anh em của Maguire là Joe và Laurence, họ đều là cầu thủ bóng đá.[58] Anh học tại trường trung học Công giáo La Mã St Mary ở Chesterfield, có thời điểm anh trở lại để tặng một chiếc áo có chữ ký cho trường.[59] Anh đính hôn với Fern Hawkins.[60] Vào ngày 3 tháng 4 năm 2019, Maguire tiết lộ trên trang Instagram của mình rằng Hawkins đã sinh đứa con đầu lòng của họ, một cô con gái tên Lillie Saint Maguire.[61]

Ẩu đả ở Hy Lạp

Vào ngày 21 tháng 8 năm 2020, Maguire bị bắt trên đảo Mykonos của Hy Lạp do có liên quan đến vụ xô xát với cảnh sát của một nhóm du khách người Anh. Manchester United cho biết trong một tuyên bố rằng Maguire "hoàn toàn hợp tác với các nhà chức trách Hy Lạp."[62] Maguire hầu tòa trên đảo Syros vào ngày hôm sau, sau khi bị tạm giam hai ngày.[63] Anh được thả ra khỏi nơi giam giữ và phiên tòa của anh bị hoãn lại cho đến ngày 25 tháng 8.[64] Vào ngày 25 tháng 8, Maguire bị kết án bởi một tòa án trên đảo Syros về các tội danh tấn công vũ lực nguy hiểm, chống lại sự bắt giữ và hối lộ. Maguire vắng mặt tại phán quyết của tòa án.[65] Cùng ngày, Maguire bị kết án treo 21 tháng 10 ngày vì đây là lần vi phạm đầu tiên và ba tội danh được xếp vào tội nhẹ.[66]

Vào ngày 26 tháng 8 năm 2020, nhóm pháp lý của Maguire đã nộp đơn kháng cáo phán quyết của tòa án. Trong khi Manchester United và một số nguồn truyền thông Anh đã khẳng định rằng tội danh của Maguire là vô hiệu, điều này bị cơ quan công tố bác bỏ.[67][68] Vào ngày 5 tháng 3 năm 2021, có thông tin cho rằng vụ kháng cáo của Maguire khó có thể diễn ra vào năm 2021, và mặc dù bên công tố mong muốn vụ án được giải quyết nhanh nhất có thể, nhưng về lý thuyết, thủ tục tố tụng có thể bị trì hoãn cho đến năm 2028.[69]

Đe dọa đánh bom

Năm 2022, Maguire bị nhắm tới với lời đe dọa đánh bom, dẫn đến cảnh sát phải quét nhà anh ta để tìm các thiết bị.[70]

Thống kê sự nghiệp

Câu lạc bộ

Tính đến ngày 27 tháng 4 năm 2024 Số lần ra sân và bàn thắng theo câu lạc bộ, mùa giải và giải đấu
Câu lạc bộ Mùa giải Giải đấu FA Cup League Cup Châu lục Khác Tổng cộng
Hạng đấu Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Sheffield United 2010–11[71] Championship 5 0 0 0 0 0 5 0
2011–12[72] League One 44 1 4 0 2 0 6[a] 0 56 1
2012–13[73] 44 3 4 0 1 0 4[b] 2 53 5
2013–14[74] 41 5 8 1 1 0 2[c] 0 52 6
Tổng cộng 134 9 16 1 4 0 0 0 12 2 166 12
Hull City 2014–15[75] Premier League 3 0 1 0 1 0 1[d] 0 6 0
2015–16[76] Championship 22 0 4 0 5 0 2[e] 0 33 0
2016–17[77] Premier League 29 2 1 0 6 1 36 3
Tổng cộng 54 2 6 0 12 1 1 0 2 0 75 3
Wigan Athletic (mượn) 2014–15[75] Championship 16 1 16 1
Leicester City 2017–18[78] Premier League 38 2 3 0 3 0 44 2
2018–19[79] 31 3 0 0 1 0 32 3
Tổng cộng 69 5 3 0 4 0 0 0 0 0 76 5
Manchester United 2019–20[80] Premier League 38 1 5 2 3 0 9[d] 0 55 3
2020–21[81] 34 2 4 0 3 0 11[f] 0 52 2
2021–22[82] 30 1 1 0 0 0 6[g] 1 37 2
2022–23[83] 16 0 4 0 4 0 7[d] 0 31 0
2023–24[84] 22 2 3 1 2 0 4[g] 1 31 4
Tổng cộng 140 6 17 3 12 0 37 2 206 11
Tổng cộng sự nghiệp 413 23 42 4 32 1 38 2 14 2 539 32
  1. ^ 3 lần ra sân tại Football League Trophy, 3 lần ra sân tại League One play-offs
  2. ^ 2 lần ra sân và 2 bàn thắng tại Football League Trophy, 2 lần ra sân tại League One play-offs
  3. ^ Ra sân tại Football League Trophy
  4. ^ a b c Ra sân tại UEFA Europa League
  5. ^ Ra sân tại Championship play-offs
  6. ^ 5 lần ra sân tại UEFA Champions League, 6 tại UEFA Europa League
  7. ^ a b Ra sân tại UEFA Champions League

Đội tuyển quốc gia

Tính đến ngày 10 tháng 12 năm 2022[85] Số lần ra sân và bàn thắng của đội tuyển quốc gia và năm
Đội tuyển quốc gia Năm Trận Bàn
Anh 2017 3 0
2018 13 1
2019 10 0
2020 4 1
2021 11 5
2022 12 0
Tổng cộng 53 7
Tính đến ngày 10 tháng 12 năm 2022 Tỷ số của Anh được liệt kê đầu tiên, cột điểm cho biết tỷ số sau mỗi bàn thắng của Maguire[85] Danh sách các bàn thắng quốc tế được ghi bởi Harry Maguire
STT Ngày Địa điểm Trận Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu Ref.
1 Ngày 7 tháng 7 năm 2018 Cosmos Arena, Samara, Nga 10  Thụy Điển 1–0 2–0 FIFA World Cup 2018 [86]
2 Ngày 12 thàng 11 năm 2020 Sân vận động Wembley, London, Anh 29  Cộng hòa Ireland 1–0 3–0 Giao hữu [87]
3 Ngày 31 tháng 3 năm 2021 Sân vận động Wembley, London, Anh 32  Ba Lan 2–1 2–1 Vòng loại FIFA World Cup 2022 [88]
4 Ngày 3 tháng 7 năm 2021 Stadio Olimpico, Rome, Ý 35  Ukraina 2–0 4–0 UEFA Euro 2020 [89]
5 Ngày 2 tháng 9 năm 2021 Puskás Aréna, Budapest, Hungary 38  Hungary 3–0 4–0 Vòng loại FIFA World Cup 2022 [90]
6 Ngày 12 tháng 11 năm 2021 Sân vận động Wembley, London, Anh 40  Albania 1–0 5–0 [91]
7 Ngày 15 tháng 11 năm 2021 Olympic Stadium, Serravalle, San Marino 41  San Marino 1–0 10–0 [92]

Danh hiệu

Câu lạc bộ

Hull City

  • Football League Championship play-offs: 2016[93]

Manchester United

  • FA Cup: 2023–24
  • EFL Cup: 2022–23

Đội tuyển quốc gia

  • UEFA European Championship: Á quân 2020[94]
  • UEFA Nations League: Hạng ba 2018–19[95]

Cá nhân

  • PFA Team of the Year: 2011–12 League One,[96] 2012–13 League One,[97] 2013–14 League One[98]
  • Football League One Team of the Season: 2013–14[99]
  • Football League Young Player of the Month: August 2011[100]
  • Sheffield United Player of the Year: 2011–12,[101] 2012–13,[102] 2013–14[103]
  • Sheffield United Young Player of the Year: 2011–12[101]
  • Hull City Fans' Player of the Year: 2016–17[104]
  • Hull City Players' Player of the Year: 2016–17[104]
  • Leicester City Player of the Season: 2017–18[105]
  • Leicester City Players' Player of the Season: 2017–18[27]
  • UEFA Europa League Squad of the Season: 2020–21[106]
  • UEFA European Championship Team of the Tournament: 2020[55]

Tham khảo

  1. ^ “Updated squad lists for 2019/20 Premier League”. Premier League. 6 tháng 2 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2020.
  2. ^ “Harry Maguire: Overview”. ESPN. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2020.
  3. ^ “Harry Maguire: Overview”. Premier League. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  4. ^ “Harry Maguire”. Barry Hugman's Footballers.
  5. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2019.
  6. ^ Two appearances and two goals in Football League Trophy, two appearances in League One play-offs
  7. ^ “Sheffield Utd vs Cardiff City”. Sheffield United F.C. ngày 12 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2011.
  8. ^ Appearances in Football League Trophy
  9. ^ “Blades too sharp for Latics”. Sky Sports. ngày 6 tháng 8 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011.
  10. ^ “Long-term deal for Harry”. Sheffield United F.C. ngày 19 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2011.
  11. ^ a b “Evans named in League One team”. The Football League. ngày 23 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012.
  12. ^ Appearances in Championship play-offs
  13. ^ “Sheffield United: Blades made fresh offer to defender”. Sheffield Star. ngày 21 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2014.
  14. ^ “Tigers Complete Maguire And Robertson Deals”. Hull City A.F.C. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2014.
  15. ^ “KSC Lokeren 1–0 Hull City”. BBC Sport. ngày 21 tháng 8 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2018.
  16. ^ “Harry Maguire: Wigan Athletic sign Hull City defender on loan”. BBC Sport. ngày 10 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  17. ^ “Maguire reflects on victorious debut”. Wigan Athletic F.C. ngày 18 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2018.
  18. ^ Five appearances in UEFA Champions League, six in UEFA Europa League
  19. ^ “Harry Maguire: Wigan extend Hull City defender's loan deal”. BBC Sport. ngày 13 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2018.
  20. ^ “Hull City 1–0 Sheffield Wednesday”. BBC Sport. ngày 28 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2018.
  21. ^ Wright, Nick (ngày 25 tháng 10 năm 2017). “Harry Maguire's rise from Sheffield United to Leicester and England”. Sky Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2018.
  22. ^ “Bristol City 1–2 Hull”. BBC Sport. ngày 25 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  23. ^ “Hull City 4–2 Middlesbrough”. BBC Sport. ngày 5 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
  24. ^ “Harry Maguire: Leicester City sign Hull City defender in £17m deal”. BBC Sport. ngày 15 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2017.
  25. ^ Jurejko, Jonathan (ngày 11 tháng 8 năm 2017). “Arsenal 4–3 Leicester City”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2018.
  26. ^ Reddy, Luke (ngày 19 tháng 8 năm 2017). “Leicester City 2–0 Brighton & Hove Albion”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2018.
  27. ^ a b Stevens, Sam (ngày 1 tháng 5 năm 2018). “Maguire bags a brace of awards at end of season dinner”. Leicester City F.C. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2018.
  28. ^ Gallagher, Danny (ngày 9 tháng 8 năm 2018). “Claude Puel says world record bid for Harry Maguire would be rejected”. Sky Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2018.
  29. ^ Stone, Simon (ngày 2 tháng 7 năm 2019). “Harry Maguire: Manchester United bid £70m for Leicester City defender”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2019.
  30. ^ “Harry Maguire: Man Utd agree £80m deal for Leicester defender”. BBC Sport. ngày 2 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2019.
  31. ^ “Maguire signs for United”. Manchester United. ngày 5 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2019.
  32. ^ Smyth, Rob (ngày 11 tháng 8 năm 2019). “Man Utd 4–0 Chelsea”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2019.
  33. ^ “Harry Maguire made Manchester United captain to succeed Ashley Young”. BBC Sport. ngày 17 tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2020.
  34. ^ Stone, Simon (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Tranmere 0-6 Manchester United: Reds' fans voice anger during FA Cup win”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2020.
  35. ^ McNulty, Phil (17 tháng 2 năm 2020). “Chelsea 0 - 2 Manchester United”. BBC Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.
  36. ^ Chowdhury, Saj (27 tháng 6 năm 2020). “Norwich City 1 - 2 Manchester United”. BBC Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.
  37. ^ Booth, Dominic (29 tháng 7 năm 2020). “Gary Pallister responds to Harry Maguire equalling Manchester United record”. Manchester Evening News. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.
  38. ^ LDO (20 tháng 12 năm 2020). “Sao Man United "cày" nhiều nhất thế giới trong năm 2020”. laodong.com.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.
  39. ^ Chowdhury, Saj (17 tháng 10 năm 2020). “Newcastle United 1 - 4 Manchester United”. BBC Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.
  40. ^ Hafez, Shamoon (27 tháng 1 năm 2021). “Manchester United 1 - 2 Sheffield United”. BBC Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2021.
  41. ^ Judd, Nick (7 tháng 3 năm 2021). “Shaw, Martial both 8/10 as Man United win derby, snap City's 21-game winning streak”. ESPN.
  42. ^ Peter McVitie (9 tháng 5 năm 2021). “Maguire breaks one Man Utd record and falls short of another as Red Devils captain forced off vs Aston Villa”. goal.com. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2021.
  43. ^ “Maguire đứng đầu danh sách mắc lỗi ở Ngoại hạng Anh”. VnExpress. 25 tháng 4 năm 2022.
  44. ^ “Maguire lại bị chế giễu vì mắc lỗi trước Liverpool”. VnExpress. 20 tháng 4 năm 2022.
  45. ^ “Cầu thủ Man Utd nghi ngờ Maguire”. VnExpress. 4 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2022.
  46. ^ “England: Nathaniel Chalobah and Harry Maguire in squad for World Cup qualifiers”. BBC Sport. 24 tháng 8 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2017.
  47. ^ McNulty, Phil (8 tháng 10 năm 2017). “Lithuania 0–1 England”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2017.
  48. ^ “England World Cup squad: Trent Alexander-Arnold in 23-man squad”. BBC Sport. 16 tháng 5 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  49. ^ “Review – Tunisia 1–2 England – 18–06–18”. englandfootball.org. 18 tháng 6 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  50. ^ McNulty, Phil (7 tháng 7 năm 2018). “Sweden 0–2 England”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2018.
  51. ^ Ornstein, David (22 tháng 6 năm 2021). “England set to hand Harry Maguire start against Czech Republic tonight”. The Athletic. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  52. ^ “England 2–0 Germany”. UEFA. 29 tháng 6 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  53. ^ McNulty, Phil (3 tháng 7 năm 2021). “Ukraine 0–4 England: Ruthless England set up Denmark semi-final”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  54. ^ McNulty, Phil (11 tháng 7 năm 2021). “Euro 2020 final: England beaten by Italy on penalties”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  55. ^ a b “UEFA EURO 2020 Team of the Tournament revealed”. UEFA. 13 tháng 7 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  56. ^ Hytner, David (15 tháng 11 năm 2021). “England confirm World Cup 2022 spot with 10-goal demolition of San Marino”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2021.
  57. ^ Smith, George (16 tháng 11 năm 2021). “John Terry sends message to Harry Maguire after he breaks England record”. Manchester Evening News. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2021.
  58. ^ “Laurence Maguire – Defender – First Team”. Chesterfield F.C. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2017.
  59. ^ “Chesterfield school welcomes back England star and his Spireite brother”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2020.
  60. ^ McCallum, Shiona (ngày 9 tháng 7 năm 2018). “Harry Maguire memes himself with 'put the bins out' caption”. BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2018.
  61. ^ “Harry Maguire on Instagram: "Welcome Lillie Saint Maguire 💫 ❤️"”. Instagram. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2019.
  62. ^ “Manchester United captain Harry Maguire 'arrested' on Greek island”. Sky News. 21 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2020.
  63. ^ “Maguire released by Greek prosecutor, hearing next week”. Reuters. 22 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2020.[liên kết hỏng]
  64. ^ Jackson, Jamie; Smith, Helena (22 tháng 8 năm 2020). “Harry Maguire walks free – for now – after Syros court appearance”. The Guardian. Greece. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2020.
  65. ^ “Harry Maguire: Man Utd captain found guilty of aggravated assault, resisting arrest and attempted bribery in Greece”. Sky News. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2020.
  66. ^ “Harry Maguire: Man Utd captain given suspended jail term for assault and attempted bribery in Greece”. Sky News. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2020.
  67. ^ “Harry Maguire: Man Utd captain's legal team lodges appeal against guilty verdict”. BBC Sport. 26 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2020.
  68. ^ “Harry Maguire accused of 'fantasy tales' by Greek prosecution lawyer”. The Guardian. 28 tháng 8 năm 2020.
  69. ^ “Harry Maguire free to focus on United and Euros with Greek hearing delayed”. The Guardian. 5 tháng 3 năm 2021.
  70. ^ “Harry Maguire: Manchester United defender says line was crossed with bomb threat”. BBC Sport. 1 tháng 6 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2022.
  71. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2010/2011”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2019.
  72. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2011/2012”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2014.
  73. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2012/2013”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2014.
  74. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2013/2014”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2014.
  75. ^ a b “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2014/2015”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2015.
  76. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2015/2016”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2016.
  77. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2016/2017”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2017.
  78. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2017/2018”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2018.
  79. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2018/2019”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2019.
  80. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2019/2020”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2020.
  81. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2020/2021”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2021.
  82. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2021/2022”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2022.
  83. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2022/2023”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2022.
  84. ^ “Trận thi đấu của Harry Maguire trong 2023/2024”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2024.
  85. ^ a b “Harry Maguire”. National Football Teams. Benjamin Strack-Zimmerman. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  86. ^ “Sweden vs. England 0–2: Summary”. Soccerway. Perform Group. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2020.
  87. ^ “England vs. Republic of Ireland 3–0: Summary”. Soccerway. Perform Group. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2020.
  88. ^ “England vs. Poland 2–1: Summary”. Soccerway. Perform Group. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2021.
  89. ^ “Ukraine vs. England 0–4: Summary”. Soccerway. Perform Group. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2021.
  90. ^ “Hungary vs. England 0–4: Summary”. Soccerway. Perform Group. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2021.
  91. ^ “England vs. Albania 5–0: Summary”. Soccerway. Perform Group. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2021.
  92. ^ “San Marino vs. England 0–10: Summary”. Soccerway. Perform Group. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2021.
  93. ^ Williams, Adam (28 tháng 5 năm 2016). “Hull City 1–0 Sheffield Wednesday”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2016.
  94. ^ McNulty, Phil (11 tháng 7 năm 2021). “Italy 1–1 England”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2021.
  95. ^ McNulty, Phil (9 tháng 6 năm 2019). “Switzerland 0–0 England”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2019.
  96. ^ “Arsenal striker Robin van Persie named PFA Player of the Year”. BBC Sport. 22 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2018.
  97. ^ “Gareth Bale wins PFA Player of Year and Young Player awards”. BBC Sport. 28 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2018.
  98. ^ “Luis Suarez: Liverpool striker wins PFA Player of the Year award”. BBC Sport. 28 tháng 4 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2018.
  99. ^ “League 1 Team of the Season”. English Football League. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2018.
  100. ^ “Maguire scoops League award”. Sheffield United F.C. 16 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2012.
  101. ^ a b “Harry's a star at End of Season awards”. Sheffield United F.C. 30 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2012.
  102. ^ “Awards double for Harry”. Sheffield United F.C. 29 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2014.
  103. ^ “Clean sweep for Harry”. Sheffield United F.C. 6 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2014.
  104. ^ a b “Maguire: Personal Accolades Will Mean Very Little If We Don't Survive”. Hull City AFC. 12 tháng 5 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2017.
  105. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên LCFCAwards2
  106. ^ “UEFA Europa League Squad of the Season 2020/21”. UEFA. 28 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2021.

Chú thích

Liên kết ngoài

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Harry Maguire.
  • Profile at the Leicester City F.C. website
  • Profile at the Football Association website
  • Harry Maguire tại Soccerbase Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • x
  • t
  • s
Manchester United F.C. – đội hình hiện tại
  • Bayındır
  • Lindelöf
  • Mazraoui
  • De Ligt
  • Maguire
  • Martínez
  • Mount
  • Fernandes (c)
  • Højlund
  • 10 Rashford
  • 11 Zirkzee
  • 12 Malacia
  • 14 Eriksen
  • 15 Yoro
  • 16 Diallo
  • 17 Garnacho
  • 18 Casemiro
  • 20 Dalot
  • 21 Antony
  • 22 Heaton
  • 23 Shaw
  • 24 Onana
  • 25 Ugarte
  • 35 Evans
  • 36 Wheatley
  • 37 Mainoo
  • 41 Amass
  • 43 Collyer
  • 44 Gore
  • Huấn luyện viên: Amorim
Đội hình Anh
  • x
  • t
  • s
Đội hình AnhGiải vô địch bóng đá thế giới 2018
  • Pickford
  • Walker
  • Rose
  • Dier
  • Stones
  • Maguire
  • Lingard
  • Henderson
  • Kane (c)
  • 10 Sterling
  • 11 Vardy
  • 12 Trippier
  • 13 Butland
  • 14 Welbeck
  • 15 Cahill
  • 16 Jones
  • 17 Delph
  • 18 Young
  • 19 Rashford
  • 20 Alli
  • 21 Loftus-Cheek
  • 22 Alexander-Arnold
  • 23 Pope
  • Huấn luyện viên: Southgate
Anh
  • x
  • t
  • s
Đội hình AnhÁ quân Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
  • Pickford
  • Walker
  • Shaw
  • Rice
  • Stones
  • Maguire
  • Grealish
  • J. Henderson
  • Kane (c)
  • 10 Sterling
  • 11 Rashford
  • 12 Trippier
  • 13 D. Henderson / Ramsdale a
  • 14 Phillips
  • 15 Mings
  • 16 Coady
  • 17 Sancho
  • 18 Calvert-Lewin
  • 19 Mount
  • 20 Foden
  • 21 Chilwell
  • 22 White
  • 23 Johnstone
  • 24 James
  • 25 Saka
  • 26 Bellingham
  • Huấn luyện viên: Southgate
Anh
a Ramsdale thay D. Henderson sau trận đấu đầu tiên của đội tuyển Anh.
  • x
  • t
  • s
Đội hình AnhGiải vô địch bóng đá thế giới 2022
  • Pickford
  • Walker
  • Shaw
  • Rice
  • Stones
  • Maguire
  • Grealish
  • Henderson
  • Kane
  • 10 Sterling
  • 11 Rashford
  • 12 Trippier
  • 13 Pope
  • 14 Phillips
  • 15 Dier
  • 16 Coady
  • 17 Saka
  • 18 Alexander-Arnold
  • 19 Mount
  • 20 Foden
  • 21 White
  • 22 Bellingham
  • 23 Ramsdale
  • 24 Wilson
  • 25 Maddison
  • 26 Gallagher
  • Huấn luyện viên: Southgate
Anh

Từ khóa » Số 5 Của Mu