HDI - Chỉ Số Phát Triển Con Ngươi - Tài Liệu Text - 123doc
Có thể bạn quan tâm
- Trang chủ >>
- Giáo án - Bài giảng >>
- Địa lý
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.24 KB, 25 trang )
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI(HUMAN DEVERLOPMENT INDEX - HDI)I.1. Sự cần thiết phải đánh giá chỉ số phát triển con ngườiTài sản thực sự của một quốc gia là con người và mục đích của phát triểnlà tạo môi trường cho phép người dân được hưởng thụ một cuộc sống trườngthọ, mạnh khoẻ và sáng tạo. Con người là vốn quý nhất, là mục tiêu phảihướng tới của mọi hoạt động kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và toàn thế giới.Việc lựa chọn chỉ tiêu phản ánh sự phát triển con người có ý nghĩa rất quantrọng, đặc biệt là trong xã hội hiện đại ngày nay. Trước đây, người ta thườngdựa vào các chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người(GDP/người) hoặc tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người (NGI/người)để phân chia thành các nhóm nước giàu, nghèo. Nhưng trên thực tế, khôngphải cứ nước nào có thu nhập cao thì trình độ dân trí đều cao và đều chú ýchăm lo sức khoẻ, phúc lợi xã hội cho con người. Ngược lại, không ít nước tuycó thu nhập bình quân đầu người thấp, đời sống vật chất còn khó khăn, nhưnglại quan tâm tới mục tiêu giáo dục, y tế, sức khoẻ cho mọi thành viên. Chính vì vậy, Cơ quan Báo cáo phát triển con nguời của chương trìnhphát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đã lựa chọn và đưa ra chỉ số phát triểncon người (Human Development Index - HDI). Việc đưa ra chỉ số này là vôcùng cần thiết, bởi việc xếp hạng về HDI toàn cầu giúp cho các nước biết đượckết quả phát triển con người của mình trong một giai đoạn dài, giúp các nướccó thể đề ra các chính sách và chiến lược phát triển hợp lý trong thời gian tiếptheo nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi thành viên trong xã hội.1.2 Quan niệm về HDI và chỉ số đánh giá, đo lường HDI* Chỉ số phát triển con người (HDI) là thước đo tổng hợp về sự pháttriển con người, phản ánh mức độ đạt được những khát vọng của họ. Chỉ sốHDI được Cơ quan Phát triển con người của Liên Hợp quốc đưa ra để kiểmsoát, đánh giá tiến bộ trong sự phát triển con người. HDI đo thành tựu trungbình của mỗi quốc gia trên 3 phương diện của sự phát triển, đó là:- Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh được đo bằng tuổi thọ trung bìnhdự kiến từ lúc sinh.- Kiến thức của dân cư được đo bằng tỷ lệ người lớn biết chữ (với trọngsố 2/3) và tỷ lệ nhập học các cấp (với trọng số 1/3). Theo công thức tính:1G =2a + b3- Mức sống của con người được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GrossDomestic Product - GDP) bình quân đầu người và điều chỉnh theo phươngpháp sức mua tương đương (Purchasing Power Parity - PPP), tính bằng đôlaMỹ (USD). Trong đó:+ Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụtiêu dùng cuối cùng mà một nền kinh tế tạo ra bên trong một quốc gia, trongmột thời kỳ nhất định, thường là một năm.+ Phương pháp sức mua tương đương (PPP) do Liên Hợp Quốc đưa racho phép có sự so sánh chuẩn về giá thực tế giữa các quốc gia. + GDP và PPP bình quân đầu người, được tính bằng tổng sản phẩmquốc nội và GDP được chuyển đổi theo phương pháp sức mua của một quốcgia chia cho tổng số dân cư ở một thời kỳ nhất định, đơn vị tính là USD/người.Như vậy, HDI là thước đo tổng hợp so với các chỉ tiêu khác. Thu nhậpvà thu nhập bình quân chỉ là phương tiện để có được sự phát triển con người,còn các chỉ tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người lại chỉ phản ánh từngmặt cụ thể. Chính vì vậy, bắt đầu từ năm 1990, cơ quan báo cáo phát triển conngười của Liên Hợp Quốc đã sử dụng chỉ tiêu này để thực hiện việc xếp thứhạng các nước theo tình trạng phát triển con người.Ở Việt Nam, chỉ số HDI được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1996, căncứ vào kết quả tổng điều tra dân số 1989. Lần thứ hai dựa vào tổng điều tra dânsố năm 1999, được tính HDI vào năm 2001.* Để tính được giá trị HDI, trước hết cần phải tính ba chỉ số thành phần:tuổi thọ, kiến thức và thu nhập. Quy tắc chung để tính các chỉ số thành phầnnày là sử dụng các giá trị tối thiểu và tối đa cho từng chỉ số theo công thức sau:Chỉ số thước đo thành phần =Giá trị thực - Giá trị tối thiểuGiá trị tối đa - Giá trị tối thiểuCác giá trị biên (tối đa - max và tối thiểu - min) của tuổi thọ, kiến thứcvà GDP/ người thực tế theo PPP là giá trị quốc tế, chung cho tất cả các nước.2Trong đó, G: Chỉ số phát triển giáo dục a: tỉ lệ người lớn biết chữ (%) b: tỉ lệ nhập học các cấp (%)Các giá trị quốc tế để tính chỉ số HDIChỉ tiêu Max MinTuổi thọ (năm) 85 25Tỷ lệ người lớn biết chữ (%) 100 0Tỷ lệ nhập học các cấp (%) 100 0GDP thực tế/ người (PPP. USD) 40.000 100 (GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng - Giáo trình Kinh tế phát triển, 2005)Việc tính chỉ số thu nhập có phức tạp hơn, được thống nhất tính theocông thức sau:I3 =log (giá trị thực) - log (giá trị tối thiểu)log (giá trị tối đa) - log (giá trị tối thiểu)Tổng hợp ba chỉ số thành phần, có được chỉ số HDI theo công thức sau:Giá trị của chỉ số HDI dao động trong phạm vi từ 0,000 đến 1,000. Trêncơ sở giá trị này, Cơ quan báo cáo con người của Liên Hợp Quốc đã phân chiathành 3 nhóm như sau:+ Nhóm HDI thấp, có giá trị từ 0,000 đến 0,499.+ Nhóm HDI trung bình, có giá trị từ 0,500 đến 0,799.+ Nhóm HDI cao, có giá trị từ 0,800 đến 1,000.Việc đánh giá chỉ số HDI cho thấy, quốc gia nào có thu nhập cao, cóchính sách giáo dục và chăm sóc sức khoẻ dân cư thích đáng thì vị trí HDI sẽcao. Một số nước có mức thu nhập cao, nhưng không quan tâm đầy đủ tới việcnâng cao dân trí và chăm sóc sức khoẻ dân cư thì vị trí HDI sẽ giảm đi. Đối vớimột số quốc gia, trong đó có Việt Nam, tuy mức thu nhập thấp nhưng do chínhsách của nhà nước quan tâm đến y tế, giáo dục nên giá trị HDI tăng lên. Nhưvậy thách thức đặt ra với mỗi quốc gia trên toàn thế giới là phải tìm ra nhữnggiải pháp để rút ngắn khoảng cách về HDI nhằm nâng cao chất lượng cuộcsống toàn diện của mỗi người dân trong xã hội.II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VỀ SỰ PHÂN HOÁ CHỈ SỐPHÁT TRIỂN CON NGƯỜI - HDI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM3HDI = I1 + I2 + I33Trong đó, I1: Chỉ số tuổi thọ I2: Chỉ số giáo dục I3: Chỉ số thu nhậpII.1. Sự phân hoá HDI trên thế giớiII.1.1. Sự phân hoá HDI trên thế giới theo thời gianII.1.1.1. Khái quát chungKể từ năm 1990, Cơ quan Báo cáo phát triển con nguời của chương trìnhphát triển của Liên Hợp Quốc bắt đầu dùng chỉ số HDI để đánh giá các thànhtựu trong phát triển con người qua ba chỉ số thành phần và để thực hiện xếpthứ hạng các nước. Về cơ bản, những số liệu tổng hợp về HDI trên toàn thếgiới từ thập kỉ 90 của thế kỉ XX đến nay đã có những tiến bộ vượt bậc. Tuổithọ trung bình tăng lên và đạt mức 68,1 tuổi cho toàn thế giới (năm 2005), tỷ lệbiết chữ của người lớn và tỷ lệ nhập học các cấp cũng được tăng lên rõ rệt,GDP bình quân đầu người được cải thiện với mức tăng trung bình năm 1%.Giá trị của HDI cũng thay đổi đáng kể.Chỉ số phát triển con người thời kì 2001 - 2005Nhóm nước2001 2005HDITuổithọTỉ lệbiếtchữTỷ lệnhậphọcThunhậpHDITuổithọTỉ lệbiếtchữTỷ lệnhậphọcThunhậpThế giới 0,722 67 79,0 64,0 7.370 0,743 68,1 78,6 67,8 9,543Đang phát triển 0,655 65 74,5 60,0 5.390 0,691 66,1 76,7 64,1 5,282Kém phát triển 0,448 52 53,3 43,0 2.190 0,488 54,5 53,9 48,0 1,499Phát triển 0,929 78 99,0 93,0 26.650 0,947 79,4 99,0 99,0 33.831 (Nguồn: Human Development Reports 2007)Thứ bậc xếp hạng về chỉ số HDI của các quốc gia trên thế giới có sự thayđổi tương đối mạnh mẽ theo thời gian. Sự thay đổi này diễn ra đối với cảnhững quốc gia có giá trị HDI cao nhất thế giới cũng như các quốc gia có giátrị HDI thấp nhất thế giới. Sự thay đổi thứ bậc này được thể hiện qua các bảngsố liệu dưới đây:Sự thay đổi thứ bậc của 10 nước có giá trị HDI đứng đầu thế giớigiai đoạn 1990 - 2003STT Tên nước 1990 1995 2000 20031 Na Uy 0.912 0.936 0.956 0.9632 Aixơlen 0.915 0.919 0.943 0.9563 Ôxtrâylia 0.893 0.933 0.960 0.9554 Lucxembua 0.884 0.911 0.929 0.94945 Canada 0.929 0.934 …. 0.9496 Thuỵ Điển 0.897 0.929 0.958 0.9497 Phần Lan 0.910 0.921 0.940 0.9478 Ailen 0.870 0.894 0.929 0.9469 Bỉ 0.899 0.929 0.949 0.94510 Hoa Kỳ 0.916 0.929 0.938 0.944Đối với 10 đứng đầu thế giới về chỉ số HDI giai đoạn 1990 - 2003 có sựthay đổi về thứ bậc. Năm 1990, Hoa Kỳ là nước đứng đầu thế giới về chỉ sốHDI, tiếp theo là Aixơlen, Na Uy, Phần Lan… Đến năm 2003, Na Uy vươn lênđứng đầu thế giới về HDI, tiếp theo là Aixơlen, Ôxtrâylia, Lucxembua…, HoaKỳ đứng ở vị trí thứ 10.Sự thay đổi thứ bậc của 10 nước có giá trị HDI thấp nhất thế giớigiai đoạn 1990 - 2003STT Tên nước 1990 1995 2000 20031 CH Côngô 0.422 0.393 …. 0.3852 Môdămbich 0.311 0.328 0.360 0.3793 Burundi 0.353 0.324 …. 0.3784 Êtôpia 0.311 0.323 0.352 0.3675 CH.Trung Phi 0.383 0.367 …. 0.3556 Ghinê - Bitxau 0.313 0.341 0.353 0.3487 Mali 0.283 0.307 0.330 0.3338 Bukinafaso 0.305 0.311 0.328 0.3179 Seria Leon …. …. …. 0.29810 Nigiê 0.249 0.256 0.271 0.281Đối với 10 quốc gia có chỉ số HDI thấp nhất thế giới. Năm 1995, Nigiêlà nước có giá trị thấp nhất, tiếp đó là Mali, Bukinafaso…, Đến năm 2003,nước có giá trị HDI thấp nhất thế giới vẫn là Nigiê, tiếp đó là Seria Leon,Bukinafaso, Mali…, CH Côngô đứng ở vị trí thứ 10 từ dưới lên. Các nước cóchỉ số HDI thấp nhất thế giới tập trung hầu hết ở Châu Phi. Sự thay đổi về thứbậc của 10 nước có giá trị HDI thấp nhất thế giới diễn ra chậm chạp.II.1.1.2. Sự phân hoá HDI theo các chỉ tiêua. Về chỉ tiêu y tế, chăm sóc sức khoẻSự phân hoá chỉ số HDI trên thế giới thông qua các chỉ tiêu về y tế, chămsóc sức khoẻ được thể hiện qua 2 biểu đồ dưới đây:5 Biểu đồ thể hiện mức tử vong của trẻ em trên thế giới năm 2003 Biểu đồ thể hiện tuổi thọ thế giới năm 2003Thông qua, hai biểu đồ trên ta thấy, về mặt y tế chăm sóc sức khoẻ thếgiới đã đạt được những tiến bộ to lớn: - Mức độ tử vong trẻ em, từ năm 1960 đến năm 2003 có xu hướng giảmliên tục, đặc biệt từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây. Mức độ giảmnhanh nhất, đó là các nước thuộc khu vực Tây Á, Nam Á, Trung Đông donhững công bước đầu của công cuộc, cải cách xã hội ở các nước này. Tuynhiên thông qua biểu đồ này chúng ta cũng thấy, có sự phân hoá giữa các khuvực trên thế giới. Tỉ lệ tử vong trẻ em ở châu Phi vẫn là cao nhất khoảng170o/oo, tỉ lệ này thấp nhất ở các nước phát triển chỉ khoảng dưới 10o/oo.- Về tuổi thọ của các nhóm nước chúng ta lại thấy có chiều hướng tráingược với biểu đồ tỉ lệ tử vong trẻ em. Tuổi thọ bình quân của tất cả các nhómnước đều tăng (trừ khu vực châu Phi nghèo đói), thể hiện được thành côngtrong lĩnh vực y tế của thế giới. Cao nhất trong chỉ tiêu này là các nước pháttriển với tuổi thọ đạt khoảng xấp xỉ 80 tuổi. Thấp nhất là các nước châu Phinghèo đói, con số này chỉ dừng lại ở khoảng 47 tuổi. Với hiện tượng châu Phinghèo đói tuổi thọ có giảm đi đôi chút so với năm 1990 có thể là một trườnghợp cá biệt do sự khó khăn khắc nghiệt về tự nhiên, dịch bệnh đặc biệt là đạidịch HIV - ADSIA đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến tuổi thọ của cácquốc gia ở khu vực này.Một vài chỉ tiêu về y tế thế giới giai đoạn 1990 - 2000Bình quân tính trên 1 vạn dân Ngân sách dànhcho y tế (% GDP)Bác sĩ Y tá6Thế giới 12,2 24,1 2,5Thu nhập thấp 1,4 2,6 1,3Thu nhập trung bình 7,6 8,5 3,1Thu nhập cao 28,7 78,0 6,2Như vậy sự chênh lệch về các chỉ tiêu là rất lớn giữa các quốc gia trênthế giới. Về chỉ tiêu bình quân bác sĩ/1 vạn dân của các nước thu nhập cao caogấp 20,5 lần so với các nước thu nhập thấp. Sự chênh lệch về bình quân y tá/1vạn dân giữa hai nhóm nước này chênh nhau tới 30 lần.b. Về chỉ tiêu giáo dụcBiểu đồ số năm đến trường trung bình của các khu vực trên thế giớinăm 1990 và năm 2001Thông qua biểu đồ trên ta thấy, giữa năm 1990 và 2001, số năm đếntrường trung bình của người dân các khu vực trên thế giới đều có sự gia tăngđáng kể (trừ các nước thuộc khu vực Trung Á). Mức trung bình của thế giớihiện nay là 11 năm: các khu vực thấp hơn mức trung bình của thế giới là NamÁ, Tây Á, các nước Trung Đông và khu vực châu Phi nghèo đói; trong khi đócác nước ở khu vực châu Âu, châu Mỹ lại có mức trung bình cao hơn thế giới.Bên cạnh đó, chúng ta còn nhận thấy số năm đến trường của khu vực Mỹlatinh và Cribê có tốc độ tăng nhanh nhất do sự cải cách các chính sách giáodục thuộc các gia này. Đồng thời, dẫn đầu về số năm đến trường vẫn thuộc vềnhóm nước OECD, với số năm trung bình đến trường của người dân đạtkhoảng từ 16 - 17năm. Tuy nhiên ở đây, trường hợp của các nước ở khu vựcTrung Á, ta thấy số năm đến trường năm 2001 so với năm 1990 không thay đổivà có chiều hướng giảm do một số biến động về tình hình xã hội, suy thoái,biến động kinh tế….c. Về chỉ tiêu thu nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người7Về chỉ số này chúng ta cũng nhận thấy sự phát triển chung của thế giới,tổng giá trị thu nhập của các quốc gia đều tăng qua các năm, trong đó các nướcphát triển (OECD) vẫn là khu vực có mức thu nhập bình quân theo đầu ngườilà cao nhất trên 30.000 USD/năm; trong khi đó các quốc gia thuộc khu vựcchâu Phi thì ngược lại có sự gia tăng không đáng kể qua các năm và nhìnchung cư dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.Tóm lại, về sự phân hoá các chỉ tiêu theo thời gian, chúng ta có thể rút ranhững nhận xét tổng quát đó là: chỉ số HDI của các nước trên thế giới đều cósự gia tăng qua các năm. Trong đó chất lượng cuộc sống cao nhất vẫn thuộc vềcác quốc gia thuộc nhóm OECD, còn lại các quốc gia khác trên thế giới đều cósự phát triển nhưng nhìn chung, chất lượng cuộc sống ở nhiều quốc gia cònhạn chế, đặc biệt là các nước thuộc khu vực châu Phi (khu vực Sahara) vẫn lànơi có chất lượng cuộc sống thấp nhất thế giới do nguyên nhân khó khăn về tựnhiên - thiên tai, dịch bệnh kết hợp cùng với những bất ổn về mặt chính trị…II.1.2. Sự phân hoá HDI trên thế giới theo không gianTrong số 177 quốc gia cung cấp số liệu để xây dựng HDI cho năm 2003,57 nước được xếp hạng HDI cao với giá trị từ 0,801 đến 0,963; 88 nước (trongđó có Việt Nam) được xếp hạng HDI trung bình với giá trị từ 0,505 đến 0,799và 32 nước được xếp hạng HDI thấp với giá trị từ 0,275 đến 0,499. Theo Báocáo năm 2005 có 18 nước, với tổng cộng số dân là 460 triệu người, đã bị thụtlùi về HDI kể từ năm 1990 khi Báo cáo Phát triển con người đầu tiên đượcxuất bản. Tuy nhiên, xét về tổng thể đã đạt được một số tiến bộ: nói chung,người dân ở các nước đang phát triển đã có cuộc sống khoẻ mạnh hơn, đượchọc hành tốt hơn và ít bị nghèo túng hơn.Sự chênh lệch về giá trị HDI giữa các quốc gia và khu vực trên thế giớilà rất lớn, được thể hiện qua bảng số liệu sau:Mười nước đứng đầu thế giới về chỉ số HDI năm 2005STT Tên nước HDITuổi thọtrung bìnhTỉ lệngười lớnbiết chữTỉ lệnhập họccác cấpThu nhậpbình quân(PPP)1 Aixơlen 0,968 82 100,0 95,4 36.5102 Na Uy 0,968 80 100,0 99,2 41.4203 Ôxtrâylia 0,962 81 100,0 100,0 31.7944 Canada 0,961 80 100,0 99,2 33.37585 Ai len 0,959 78 100,0 99,9 38.5056 Thuỵ Điển 0,956 81 100,0 95,3 32.5257 Thuỵ Sĩ 0,955 81 100,0 85,7 35.6338 Nhật Bản 0,953 82 100,0 85,9 31.2679 Hà Lan 0,953 79 100,0 98,4 32.68410 Pháp 0,952 80 100,0 96,5 30.684 (Nguồn: Human Development Reports 2007)Mười nước có chỉ số HDI thấp nhất thế giới năm 2005STT Tên nước HDITuổi thọtrungbìnhTỉ lệngườilớn biếtchữTỉ lệnhập họccác cấpThu nhậpbình quân(PPP)1 CH Côngô 0,411 46 67,2 33,7 7142 Êtôpia 0,406 52 35,9 42,1 1.0553 Sát 0,388 50 25,7 37,5 1.4274 CH.Trung Phi 0,384 44 48,6 29,8 1.2445 Môdămbích 0,384 43 38,7 52,9 1.2426 Mali 0,380 53 24,0 36,7 1.0337 Nigiê 0,374 56 28,7 22,7 7818 Ghinê - Bitxau 0,374 46 - 36,7 8279 Buốckinafasô 0,370 51 23,6 29,3 1.21310 Siera Leon 0,336 42 34,8 44,6 806 (Nguồn: Human Development Reports 2007)Qua hai bảng số liệu trên ta thấy, chỉ số HDI của nước đứng thế giới làAixơlen cao gấp 2,88 lần so với nước có chỉ số HDI thấp nhất thế giới là XieraLeon. Chênh lệch HDI giữa các quốc gia trong phạm vi một khu vực cũngđáng kể. Ở khu vực Đông Nam Á, giá trị HDI cao nhất thuộc về Singapo(0,884), còn thấp nhất là Lào (0,525). Trong thế giới Ả Rập, quốc gia có giá trịHDI cao nhất là Baranh (0,839), thấp nhất là Gibuti (0,462). Đáng chú ý là mối quan hệ giữa các chỉ số thành phần tạo nên giá trịHDI ở mỗi quốc gia rất khác nhau, nên có những nước có chỉ số HDI nhưnhau, song mức thu nhập lại không giống nhau; nhưng có những nước có cùngmức thu nhập, song lại khác nhau về giá trị HDI.9Các nước có cùng giá trị HDI nhưng khác nhau về mức thu nhậpTên nước Giá trị HDIGDP/người thực tế(PPP.USD)Côoét 0,891 26.321Cộng hoà Séc 0,891 20.538Thổ Nhĩ Kỳ 0,755 8.407Acmênia 0,755 4.945CH Nam Phi 0,674 11.110Vanuatu 0,674 3.225Bảng số liệu trên phản ánh rất rõ những nước có chỉ số HDI như nhau,nhưng mức thu nhập lại không giống nhau, thậm chí có mức chênh lệch nhaukhá cao về chỉ tiêu này.Các nước có cùng mức thu nhập nhưng khác nhau về giá trị HDITên nướcGDP/người theo PPP.USDTuổi thọtrung bình(năm)Tỉ lệngười lớnbiết chữ (%)Giá trịHDIViệt Nam 3.071 74 90,3 0,733Lêsôthô 3.335 43 82,2 0,549Như vậy, sự phân hoá chỉ số HDI giữa các quốc gia và khu vực trên thếgiới là rất sâu sắc. Các nước đứng đầu thế giới về HDI thường tập trung ởChâu Âu và khu vực Bắc Mỹ. Các nước có giá trị HDI thấp nhất thế giới là cácnước khu vực Châu Phi.II.1.3. Những thách thức trong việc phát triển chỉ số phát triển conngười (HDI) của thế giớiViệc các chỉ số phát triển nhân bản của thế giới đều có xu hướng tăngqua các năm đã đánh dấu những thành tựu to lớn của con người trong nỗ lựcphấn đấu không ngừng nghỉ cho việc cải thiện nâng cao cuộc sống về mọi mặt.Tuy nhiên bên cạnh những đặc điểm như chúng ta vừa phân tích ở trên, chúngta cũng gặp những thách thức to lớn trong việc cải thiện đời sống xã hội, đó là:- Sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia và khu vực trên thếgiới. Thách thức đặt ra với các nước là phải tìm các giải pháp hữu hiệu để giảmkhoảng cách này trong sự phát triển con người. - Sự bất bình đẳng trong một số khía cạnh của các quốc gia trên thế giới.Chẳng hạn như ở Việt Nam: "Mỗi lần đi bệnh viện tiêu tốn 40% thu nhập hàng10tháng của người dân trong số 20% nghèo nhất ở Việt Nam. Mức chi của hộ giađình cho việc khám chữa bệnh cao như vậy đã đẩy 3 triệu người dân lâm vàocảnh nghèo túng".- Những thách thức về thương mại quốc tế đối với các nước đang pháttriển trong đó có Việt Nam. Việc đánh thuế "đánh thuế bấp hợp lý" đối với cácnước nghèo nhất trên thế giới chưa hợp lí. Chẳng hạn thuế nhập khẩu của HoaKỳ áp dụng cho những nước như Việt Nam và Băng-la-đét cao hơn khoảng 10lần so với hầu hết các nước trong Liên minh Châu Âu.- Tình trạng giá cả thị trường bị bóp méo do chính sách trợ cấp trong lĩnhvực xuất khẩu cũng có tác động trực tiếp đến các nhà sản xuất nhỏ. Trong năm2002 - 2003, giá thành sản xuất lúa gạo ở Hoa Kỳ là 415 USD/tấn và xuất khẩuvới giá 275 USD/tấn, buộc các đối thủ xuất khẩu gạo như Thái Lan và ViệtNam phải điều chỉnh theo sự cạnh tranh bất bình đẳng này.II.2. Sự phân hoá chỉ số HDI ở Việt Nam II.2.1. Thành tựu phát triển con người của Việt NamKể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội đất nước. Đặcbiệt là trong vòng một thập kỷ trở lại đây, Việt Nam đã đạt được những thànhtựu đáng kể trong sự nghiệp phát triển con người. Điểm đáng chú ý là chỉ sốHDI đang tăng lên đáng kể, vị trí về chỉ số HDI của Việt Nam so với các quốcgia được đánh giá trên thế giới đã không ngừng tăng lên qua các năm. Thể hiệnqua bảng số liệu sau:Thành tựu phát triển con người (HDI) của Việt Namgiai đoạn 1995 - 2005Chỉ số 1995 1999 2000 2001 2003 2005Tuổi thọ trung bình 65,2 67,4 67,8 67,8 68,6 73,7Tỷ lệ người lớn biết chữ 91,9 91,9 92,0 93,1 92,0 90,3Tỷ lệ nhập học các cấp 49,0 62,0 63,0 67,0 63,9GDP/người theo PPP 1.010 1.630 1.860 1.860 2.070 3.071Chỉ số phát triển con người 0,611 0,666 0,671 0,682 0.688 0,733Xếp hạng HDI 121/174 110/174 108/177 101/162 109/175 105/177 (Nguồn: Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2007 và VnExpress)Giá trị HDI của Việt Nam tăng liên tục từ 0,611 năm 1995 lên 0,671 năm2000 và đạt 0,733 năm 2005. Nước ta duy trì được mức xếp hạng về phát triểncon người ở vị trí trung bình là 105 trong tổng số 177 nước được xếp hạng. Giátrị HDI của Việt Nam tăng, phản ánh mức tăng về tuổi thọ từ 67,8 năm 200011lên 73,7 năm 2005 và GDP theo đầu người tăng từ 1.860 năm 2000 lên 2.070(2003) và 3.071 USD/người vào năm 2005.Những thay đổi tích cực trong chỉ số HDI của Việt Nam phản ánh nhữngthành tựu đạt được trong các lĩnh vực phát triển chủ chốt như mức sống, y tế,giáo dục. Giá trị HDI tăng từ 0,583 năm 1985 lên 0,605 năm 1990; 0,611 năm1995 và 0,733 vào năm 2005. Xếp hạng HDI của Việt Nam trong các nước vàvùng lãnh thổ đã tăng từ 120/174 quốc gia năm 1992 lên 105/177 quốc giatrong năm 2005.Trong khu vực ASEAN, so sánh về thứ hạng chỉ số phát triển con người(HDI), Việt Nam chưa bằng Singapore, Brunei, Thái Lan hay Malaysia, nhưngvới chỉ số HDI đạt mức 0,733 trong năm 2005 thì Việt Nam có kết quả pháttriển con người liên tục tăng hằng năm khá cao, (chỉ số này là 0,583 năm 1985và 0,691 năm 2004). Tuổi thọ trung bình ở Việt Nam từ 68,6 tuổi vào năm2003 tăng lên 69 tuổi năm 2004, và năm 2005 là 73,3 tuổi. Giá trị HDI củaViệt Nam đã tăng từ thứ 7 lên thứ 6 trong các quốc gia ASEAN. Ở Châu Á, giátrị HDI của Việt Nam đã tăng từ 32 lên 28.Mức thu nhập bình quân đầu người tính theo sức mua của Việt Nam tăngtừ 2.070 USD/người năm 2003 lên 3071 USD/người năm 2005. Thống kê củaUNDP cho biết 1 USD ở Việt Nam có thể mua được lượng hàng gấp 4,5 đến 5lần ở nước khác. Do đó, tuy thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam thấphơn nhiều nước như Nam Phi, Indonesia, Ai Cập, nhưng vị trí của Việt Namtrong bảng xếp hạng theo chỉ số HDI lại cao hơn. Chính vì vậy, thứ bậc vềHDI đã cao hơn thứ bậc về GDP/người tính theo PPP tới 18 bậc (xếp theoGDP/người Việt Nam đứng thứ 123/177).Theo báo cáo phát triển con người của UNDP năm 2005, Việt Nam đượccoi như một ví dụ thành công tiêu biểu cho nhóm các nước đang phát triển vềkhả năng tương tác cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển con người.Báo cáo của UNDP nêu rõ tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm mạnh. Với mứctăng trưởng kinh tế tương đương và mức thu nhập thấp hơn, Việt Nam đã vượtqua Trung Quốc về giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Điều này khẳng định tăngtrưởng kinh tế của Việt Nam hướng vào sự phát triển xã hội, sự phát triển conngười, phù hợp với nền kinh tế mà Việt Nam lựa chọn đó là nền kinh tế thịtrường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.12II.2.2. Sự phân hoá chỉ số HDI ở Việt NamII.2.2.1. Về chỉ tiêu thu nhập quốc dân và vấn đề xoá đói giảm nghèoNhững thành tựu đạt được trong việc phát triển con người ở Việt Namtrong gần hai thập kỷ qua là rất to lớn và đáng tự hào với nhân dân thế giới.Nhưng trên phạm vi cả nước, sự phân hoá về chỉ số HDI giữa các vùng miềnvẫn còn tương đối lớn và đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong đó, nhữngvấn đề về thu nhập của người dân, vấn đề xoá đói giảm nghèo và đảm bảocông bằng xã hội luôn là vấn đề cấp thiết.GDP và GDP bình quân đầu người theo giá thực tếgiai đoạn 1991 - 1995Năm 1991 1995 2000 2005GDP (triệu đồng) 76.707 288.892 441.646 837.858GDP/người (triệu đồng) 1,141 3,179 5,659 10,083Như vậy, trên phạm vi toàn quốc, GDP và GDP bình quân đầu người củanước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao trong gần hai thập kỷ trở lại đây. Tuy nhiênthu nhập bình quân đầu người giữa các vùng lãnh thổ còn rất lớn, thể hiện quabảng số liệu sau đây:Thu nhập và chênh lệch thu nhập bình quân đầu ngườigiữa các vùng theo giá thực tế giai đoạn 1995 - 2005Các vùngThu nhập bình quânđầu người (triệuđồng)Chênh lệch của từngvùng so với cả nước(lần)1995 1999 2005 1995 1999 2005Cả nước 2,47 3,54 5,50 1,00 1,00 1,00Đồng bằng sông Hồng 2,41 3,36 6,30 0,97 0,95 1,14Đông Bắc 1,93 2,52 4,60 0,78 0,71 0,83Tây Bắc 1,93 2,52 3,20 0,78 0,71 0,58Bắc Trung Bộ 1,92 2,55 3,80 0,78 0,72 0,69Duyên hải Nam Trung Bộ 2,11 3,03 5,00 0,85 0,86 0,9013Tây Nguyên 2,89 4,14 4,70 1,17 1,17 0,85Đông Nam Bộ 4,07 6,33 10,00 1,64 1,79, 1,82Đồng bằng sông Cửu Long 2,66 4,10 5,70 1,08 1,16 1,04Về thu nhập và chênh lệch trong thu nhập bình quân đầu người có thểchia làm 3 nhóm vùng: Nhóm có mức thu nhập cao là Đông Nam Bộ. Nhóm cómức thu nhập trung bình là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông CửuLong. Nhóm có mức thu nhập thấp là Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ,Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.Khoảng cách về thu nhập giữa vùng thấp nhất (Tây Bắc) và vùng caonhất (Đông Nam Bộ) ngày càng lớn: từ 2,1 lần năm 1995 lên 2,5 lần năm 1999và 3,1 lần năm 2003.Trong khi khoảng cách về thu nhập giữa các vùng miền trong cả nướcvẫn còn cao, thì đói nghèo là một trong những thách thức lớn đối với sự nghiệpphát triển con người Việt Nam, tác động trực tiếp tới chỉ số HDI của VIệt Namtrong bảng xếp hạng thế giới. Mặc dù thời gian qua Việt Nam được đánh giá làmột trong những quốc gia đạt được những thành tựu xoá đói giảm nghèo ấntượng, nhưng thực tế cho thấy Việt Nam vẫn đang là một trong những nướcnghèo nhất thế giới với mức thu nhập bình quân đầu người khoảng 520 USD(2005), trên 76% dân số sống ở các vùng nông thôn có thu nhập bình quân đầungười dưới 200 USD, 32/64 tỉnh thành với 32 triệu dân có mức thu nhập bìnhquân dưới 200 USD/ năm.Tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam theo ngưỡng “1 USD/người/ngày”và “2 USD/người/ngày” thời kỳ 1990 - 2004 (đơn vị %)NămTỉ lệ dân số sống dưới mức1 USD/người/ngày 2 USD/người/ngày1990 50,8 87,01993 39,9 80,51996 23,6 69,41999 16,9 65,92000 15,2 63,5142002 13,6 58,22004 10,6 54,3 (Nguồn: www.worldbank.org.vn)Bảng số liệu trên cho thấy, thành tích đạt được trong công tác xoá đóigiảm nghèo của nước ta là khá ngoạn mục. Song công tác xoá đói giảm nghèochưa thật vững chắc. Tỉ lệ hộ nghèo vẫn còn cao, tính trung bình cứ 5 ngườidân thì có 1 người nghèo.Tổng số hộ và tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc thời kỳ 1992 - 2004Năm 1992 1994 1996 1998 2000 2002 2004Tổng số hộnghèo (hộ)3810,7 2633,2 2387,1 1615,0 2800,0 2056,7 1416,0Tỷ lệ hộnghèo (%)28,2 17,7 15,7 10,0 17,2 13,0 8,3Qua bảng số liệu ta thấy: Trong giai đoạn 1992 - 1997, có hai chuẩnnghèo, song chênh lệch không lớn; thành tựu xoá đói giảm nghèo là đáng kể, tỉlệ đói nghèo giảm 12,3%, bình quân mỗi năm giảm gần 2,5% với 235,5 nghìnhộ/năm. Giai đoạn 1998 - 2000, chuẩn nghèo có sự thay đổi nhưng khôngnhiều; tỉ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm nhưng giảm chậm (5,7%). Giai đoạn 2000, -2004, được tính theo chuẩn nghèo mới; cả nước giảm gần 1/2 hộ nghèo và gần9% tỉ lệ hộ đói nghèo; đây là thời kỳ thành công nhất trong quá trình xoá đóigiảm nghèo của nước ta.Tỷ lệ đói nghèo các vùng theo chuẩn năm 2005 (đơn vị %)Các vùng Tỉ lệ đói nghèoCả nước 21,9Đông Bắc 32,6Tây Bắc 44,0Đồng bằng sông Hồng 13,8Bắc Trung Bộ 36,1Duyên hải Nam Trung Bộ 23,715Tây Nguyên 36,5Đông Nam Bộ 8,7Đồng bằng sông Cửu Long 19,0Sang năm 2005, chuẩn mới cao hơn, phù hợp với phát triển kinh tế vàmức sống; tỉ lệ hộ nghèo tăng lên từ 8,3% năm 204 lên 21,9% năm 2005;chuẩn nghèo mới cao hơn chuẩn nghèo cũ tạo điều kiện cho các hộ nghèo tiếptục được hưởng lợi từ các chính sách xoá đói giảm nghèo để nâng cao mứcsống lên ngang với mặt bằng chung của xã hội. Tuy nhiên, tỉ lệ đói nghèotrong một số dân tộc còn cao, như Vân Kiều (82,2%), Pakô (76,5%), Dao(54,3%), Bana (53,3%)…Trong khi tình trạng đói nghèo vẫn còn là một thách thức lớn đối vớiViệt Nam thì vấn đề chênh lệch giàu nghèo đang có chiều hướng gia tăng trênphạm vi cả nước, giữa thành thị và nông thôn, cũng như giữa các tỉnh và địaphương trong cả nước. Nếu như trong năm 1994, thu nhập bình quân đầungười của 20% dân cư giàu nhất của tỉnh giàu nhất gấp 25 lần thu nhập bìnhquân đầu người của 205 dân cư nghèo nhất của tỉnh nghèo nhất thì con số nàyđã tăng lên 34 lần năm 1996 và 50 lần năm 1999. Đặc biệt sự chênh lệch giầunghèo trong nội bộ các tỉnh cũng đã gia tăng. Mức chênh lệch về thu nhập giữa20% giầu nhất và 20% nghèo nhất của tất cả các tỉnh đều tăng trong thời giantừ 1994 đến 1996 và càng trở nên sâu sắc hơn trong những năm gần đây. Trongđó mức chênh lệch tuyệt đối cao nhất là các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội,Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long.Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng so với mứcthu nhập bình quân đầu người. Một trong những nguyên nhân tạo ra sự chênhlệch về thu nhập là khả năng tiếp cận những cơ hội phát triển và tạo thu nhậpkhông giống nhau. Cơ hội tìm kiếm thông tin và việc làm ở nông thôn và khuvực miền núi rất hạn chế, hiệu quả kinh tế đem lại chưa cao mặc dù lực lượnglao động tập trung chủ yếu ở các khu vực này. Nhiều nguyên nhân đói nghèochưa được khắc phục một cách triệt để, nguy cơ tái nghèo còn lớn, đặc biệt làkhu vực nông thôn, miền núi.Có rất nhiều nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam, trong đó có thể nêề lênmột số nguyên nhân chính, như sau: 16+ Đói nghèo do thiếu thu nhập và tài sản: ở đây bao gồm thiếu thu nhậpvà những tài sản của con người, tài sản của tự nhiên, tài sản vật chất, tài sản tàichính, tài sản xã hội…+ Thiếu tiếng nói và quyền lực: người nghèo rất bị hạn chế về tiếng nóivà quyền lực của mình, họ không được hoặc không chủ động thể hiện quyềnlàm chủ của mình. + Dễ bị tổn thương trước các cú sốc bất lợi, không có khả năng chốngchọi, khả năng chịu tổn thất và rủi ro của người nghèo là rất cao, rủi ro về thiêntai đi liền với tình trạng phát triển thấp kém, sự thiếu vắng các cơ chế thíchứng dự phòng để giảm thiểu các rủi ro đó…II.2.2.2. Về giáo dụcSố lượng học sinh qua các năm học của Việt Nam (đơn vị: nghìn học sinh)Năm học 1992 - 1993 Năm học 2005- 2006Tổng số học sinh cả nước 12910,9 16649,2Học sinh Tiểu học 9527,2 7304,0Học sinh Trung học cơ sở 2813,4 6371,0Học sinh Trung học PT 570,4 2973,9So với năm học 1992 - 1993, từ sau năm học 1999 - 2000, số lượng họcsinh Tiểu học bắt đầu giảm, số lượng học sinh Trung học cơ sở và Trung họcphổ thong bắt đầu tăng dần. Các hệ thống giáo dục phát triển và mở rộng đểkhai thác các nguồn lực của xã hội, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.Tuy nhiên, mặc dù tỷ lệ biết chữ của dân số từ 10 tuổi trở lên khá cao(91,1% năm 1999), nhưng số năm học bình quân lại thấp, mới đạt 6,2 năm. Sốngười có trình độ cao còn ít, chỉ có 2,8 % dân số tốt nghiệp cao đẳng, đại học,còn trình độ trung cấp kỹ thuật là 8,1%.Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp so với tổng số học sinh tuy khá caonhưng có sự khác biệt giữa các vùng. Năm học 2001 - 2002, tỉ lệ này ở bậc tiểuhọc là 99,4%, Trung học cơ sở là 96,9% và Trung học phổ thông là 89,8%.Vùng Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp cao nhất,vùng Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ tốt nghiệp thấp nhất.17Về cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ học vấn và chuyên môn kỹthuật có sự chênh lệch giữa các vùng. Cao nhất là Đồng bằng sông Hồng,Đông Nam Bộ, thấp nhất là Tây Bắc và Tây Nguyên. Cơ cấu lao động đã quađào tạo còn bất hợp lý, dẫn đến tình trạng thừa thầy - thiếu thợ (theo chuẩnmực thế giới, tỉ lệ người tốt nghiệp các cấp là 1 cao đẳng hoặc đại học/4 trungcấp chuyên nghiệp/110 đào tạo nghề; trong khi đó ở Việt Nam, tỉ lệ này là1/0,98,3,02).Theo tạp chí “Nghiên cứu con người” số tháng 6(21)2005, chỉ số về giáodục của nước ta đang có dấu hiệu giảm đi: 0,83% năm 2000, 0,84% năm 2001,0,831% năm 2003, 0,815% năm 2004 và 2005, chỉ đứng thứ 6 trong khốiASEAN, thấp hơn Trung Quốc và kém xa Cuba.Hệ thống giáo dục đào tạo còn nhiều bất cập. Đối chiếu với các đòi hỏiphát triển, những điểm yếu kém và bất cập của hệ thống giáo dục và đào tạohiện nay là nghiêm trọng và đang bộc lộ ngày càng rõ. Yêu cầu đặt ra cho lĩnhvực này không còn là tiến hành đổi mới hay cải tiến một cách cục bộ. Mộtcuộc cải cách toàn diện và căn bản, từ chương trình giáo dục và cách dạy cáchhọc, cơ sở vật chất nhà trường, đến đội ngũ giáo viên… là vấn đề cấp bách.Khoảng cách giáo dục năm 1999LaiChâuGiaLaiBìnhPhướcTràVinhToànquốcHàNộiTháiBìnhNghệAnĐồngNaiTỷ lệ biết chữ củangười lớn (%)51,31 69,29 88,24 82,54 90,29 96,93 94,60 92,80 92,52Tỷ lệ đi học ròng(năm học 1998-1999) (%)27,98 38,56 43,36 42,88 69,95 76,19 67,91 55,67 54,89Số người có trìnhđộ trên đại học13 51 10 0 28.569 15.872 265 363 100Thứ hạngGDP/người trong61 tỉnh, thành.58 42 50 22 3 25 39 518Vấn đề khoảng cách về dân trí và giáo dục hiện rất gay gắt vì tính phổbiến của nó. Cuộc tổng điều tra dân số tháng 4 năm 1999 cho thấy 32/61 Tỉnh,thành có tỷ lệ người đi học thấp hơn mức bình quân cả nớc (54,2%) còn 23tỉnh có tỷ lệ người lớn biết chữ thấp hơn mức bình quân (90%).Cơ hội tiếp cận thông tin và tri thức còn hạn chế. Khi thông tin và trithức đã trở nên phổ biến hơn nhiều thì 3 yếu tố cơ bản quyết định việc tiếp cậnthông tin và tri thức cho người dân là: trình độ văn hoá, mức thu nhập, cơ chếchính sách tạo điều kiện tiếp cận. Mặc dù cả 3 yếu tố này đã có những biến đổitích cực trong qua trình đổi mới vừa qua song còn chứa đựng nhiều hạn chế sovới mức độ mở rộng luồng thông tin thực tế và yêu cầu phát triển trong điềukiện hội nhập quốc tế.Ngân sách đầu tư cho giáo dục ở Việt Nam ngày càng tăng, nhưng chưađáp ứng được yêu cầu và so với nhiều nước trên thế giới, còn ở mức thấp. Báocáo phát triển con người của Liên Hiệp Quốc năm 1998 cho biết ngân sách đầutư cho giáo dục (% trong GDP) năm 1995 của toàn thế giới là 4,9%, các nướccông nghiệp 5,2%, các nước đang phát triển 3,8% trong khi Việt Nam còn khákhiêm tốn ở mức 2,1%.II.2.2.3. Về y tế và chăm sóc sức khoẻSo với thế giới, các chỉ tiêu về y tế, chăm sóc sức khoẻ của nước ta vẫncòn thua kém và cần được cải thiện nhằm nâng cao sức khoẻ và tuổi thọ chongười dân.Một vài chỉ tiêu tổng hợp về y tế Việt NamNăm Bình quân tính trên 1 vạn dân Ngân sáchdành cho y tế(% GDP)Bác sĩ Y tá Giường bệnh1995 4,3 12,9 98,9 1,01999 4,8 12,6 97,0 1,22002 5,6 12,2 98,6 1,32005 6,2 12,2 98,0 1,5So với mức bình quân đảm bảo y tế/1 vạn dân của thế giới (12,2 bác sĩ;24,1 y tá) thì ở Việt Nam mới bằng 1/2. Tình trạng thể lực chung của ngườiViệt Nam tuy đã được cải thiện đáng kể, song tầm vóc và thể trạng vẫn còn19nhiều hạn chế, chiều cao và trọng lượng cơ thể thấp hơn so với những ngườicùng lứa tuổi ở các nước , tỉ lệ người gầy còn cao. Các tệ nạn xã hội chưa đượckiểm soát, đến cuối năm 2004, số người nhiễm HIV của Việt Nam đã lên tớicon số 84 nghìn người.Cũng như chỉ số thu nhập bình quân đầu người, chỉ số tuổi thọ trungbình có sự phân hoá giữa các vùng trong nước cũng như theo giới tính. Tuổithọ trung bình không đồng đều giữa các vùng được thể hiện qua bảng sau:Sự phân hoá tuổi thọ trung bình giữa các vùng ở Việt Namthời kỳ 1989 - 2005VùngTuổi thọ trung bình (năm)1989 1999 2002 2005Toàn quốc 65,3 68,6 68,9 71,3Tây bắc 63,0 63,1 64,7 66,6Đông Bắc 65,5 67,5 68,2 69,1Đồng bằng sông Hồng 69,8 71,5 71,5 73,3Bắc Trung Bộ 65,3 68,5 68,8 71,2Duyên hải Nam Trung Bộ 66,2 67,4 68,2 73,6Tây Nguyên 58,5 61,6 63,6 68,9Đông Nam Bộ 69,2 72,4 72,4 73,9Đồng bằng sông Cửu Long 66,4 68,9 69,1 73,0 (Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu con người 1(22)2006)Giữa 2 giới, tuổi thọ bình quân nữ cao hơn nam ( 74 - 67,4). Trong đó,Bắc Trung Bộ có độ chênh lệch về tuổi thọ trung bình giữa nam và nữ cao nhất(7,9), thấp nhất ở Đông Bắc (3,0). Sở dĩ có sự chênh lệch này nguyên nhân làdo cơ cấu nghề nghiệp, chất lượng lao động, đặc điểm phân bố dân cư, sự thayđổi cơ cấu bệnh tật, thiếu điều kiện y tế chăm sóc sức khoẻ, tai nạn… ở các địaphương, các vùng khác nhau.Mặt khác, tuổi thọ bình quân còn chịu sự chi phối của tỷ lệ tử vong sơsinh và tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi. Theo Niên giám Thống kê, tỷ suất chết20sơ sinh của nước ta đã giảm nhưng còn ở mức cao 21%o (2003), 18%o(2004).Tỷ lệ chết chu sinh chiếm 58% tổng số chêt dưới 1 tuổi và 38% tổng số trẻdưới 5 tuổi. Đẻ non và ngạt thai chiếm 67% tổng số chết dưới 5 tuổi, số tửvong trẻ em dưới 2 tuổi do viêm đường hô hấp cấp và tiêu chảy chiếm 71,2%tổng số tử vong dưới 5 tuổi. Đây quả là những con số đáng lo ngại, báo độngvề chất lượng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em.Hiện nay người dân đã tiếp cận nhanh chóng với phương thức chăm sócsức khoẻ người dân bằng dịch vụ thẻ Bảo hiểm y tế. Tuy nhiên chất lượngphục vụ y tế cho người sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế còn nhiều vấn đề bất cậpnhư thái độ nhân viên y tế, cũng như chất lượng thuốc chữa bệnh. Hơn nữa sựbiến động về giá thuốc trong thời gian qua đã ảnh hưởng không nhỏ tới khảnăng chăm sóc sức khoẻ của phần lớn người nghèo.Nhìn về góc độ quản lý, mức độ bao phủ của các chương trình chăm sócsức khoẻ cộng đồng không đồng đều do ảnh hưởng của điều kiện địa lý, sinhthái, học vấn, mức sống dân cư. Nhìn chung các chương trình ở đô thị thườngxuyên và đều đặn hơn ở nông thôn, miền núi và những vùng khó khăn. Cácnhân viên của các chương trình được đào tạo nghiệp vụ, chuyên môn song mứcđộ khác nhau giữa các trạm y tế xã phường và phòng khám đa khoa thôn bản…II.2.3. Các giải pháp nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người ở Việt NamII.2.3.1. Đẩy mạnh quá trình đổi mới thể chế kinh tế thúc đẩy điều chỉnhcơ cấu kinh tếViệc đẩy mạnh đổi mới thể chế kinh tế tạo điều kiện quyết định thúc đẩyđiều chỉnh cơ cấu kinh tế. Đến lượt mình, cơ cấu kinh tế sẽ có tác động tíchcực đến việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực tạo việc làm và thu nhập, nângcao năng lực cạnh tranh và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tếtrong giai đoạn tới. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo ra hiệu quả kinh tếcao góp phần tăng trưởng nhanh và bền vững của GDP, đồng thời sẽ tạo thêmnhiều việc làm mới góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp thiếu việc làmcủa một bộ phận lớn dân cư. Mặt khác sẽ tạo ra những yêu cầu mới cho nênkinh tế và lực lượng lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sản phẩmhàm lượng chất xám cao, đẩy nhanh và mạnh quá trình công nghiệp hoá - hiệnđại hoá đất nước.- Cải cách khu vực Doanh nghiệp nhà nước.21- Cải cách hệ thống tài chính ngân hàng.- Phát triển mạnh kinh tế dân doanh, nhất là các công ty tư nhân vừa vànhỏ; thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài.Điều chỉnh cơ cấu đòi hỏi phải đổi mới chức năng và vai trò của Nhànước nhằm tạo dựng một môi trường kinh doanh cạnh tranh, năng động vàthực hiên tốt mục tiêu phát triển con người. Trong quá trình chuyển dịch cơcấu và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ không tránh khỏi những chi phí xã hội phátsinh, nhất là về ngắn hạn. Chính vì vậy, việc thiết lập một mạng lưới an sinh làhết séc cần thiết. Những yếu tố chính của mạng lưới này bao gồm hệ thống bảohiểm, quỹ hỗ trợ và sự giúp đỡ, cung cấp nhu cầu thiết yếu cho những ngườinghèo; sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp và của người dân cũng cầnđược đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên, việc hạn chế những chi phí xã hội chỉ cóthể được giải quyết một cách vững chắc thông qua sự thúc đẩy phát triển cóhiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân, tạo ra các kx năng lao động mới.II.2.3.2. Phát triển bền vững khu vực nông thôn Trong những năm qua, việc mở rộng cơ hội lựa chọn và khuyến khíchlao động và sự sáng tạo của người nông dân trên cơ sở các trao đổi thị trườngvà mở cở đã tạo ra những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển nôngnghiệp; đời sống nông dân ở nhiều vùng đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiêntrong thập niên tới, nông thôn vân là địa bàn và lĩnh vực sinh sống của đa sốdân cư và người nghèo, trong khi khoảng cách về mức sống giữa thành thị vànông thôn có nguy cơ gia tăng mạnh do chênh lệch cao về tốc độ tăng trưởngkinh tế giữa hai khu vực. hơn nữa, người nông dân vẫn phải đối mặt với nhữngrủi ro phát sinh do thiên tai và những biến động bất thường của thị trường nôngsản thế giới.- Nâng cao hiệu lực các quyền đối với ruộng đất của nông dân nhằm tạothuận lợi cho nông dân sử dụng ruộng đất một cách hiệu quả, hướng vàonhững sản phẩm có giá trị, kích thích quá trình đa dạng hoá sản xuất trong khuvực nông thôn và phát triển thị trường nông thôn…- Mở rộng cơ hội cho người nông dân đa dạng hoá sản xuất, theo hướngphá thế độc canh cây lương thực, chuyển sang phát triển mạnh những ngành,sản phẩm có giá trị gia tăng và thu nhập cao hơn: trợ giúp kỹ thuật, cung cấp22thông tin thị trường, hỗ trợ tài chính, tín dụng…và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm,cải thiện điều kiện mua bán sản phẩm của người nông dân…II.2.3.3. Chuyển dịch căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo, khoahọc và công nghệNhà nước đóng vai trò cơ bản, nhất là thông qua chi tiêu cho giáo dục;củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, từng bướcphổ cập trung học cơ sở trong cả nước… Đây là giải pháp quan trọng giúpđông đảo người nghèo, trước hết là các trẻ em nghèo có cơ hội tiếp cận tri thứccơ bản cũng như giúp nâng cao năng lực phát triển chung của xã hội. Sự giúp đỡ, hỗ trợ quốc tế cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo của Việt Nam,nhất là trong giai đoạn tới đóng vai trò tất quan trọng.Cải cách chương trình giáo dục, đào tạo và cách dạy và học đang là yêucầu bức xúc và có tầm quan trọng hàng đầu trong toàn bộ nhiệm vụ đổi mới hệthống giáo dục - đào tạo.Mối liên hệ cần thiết giữa cung cấp nhân lực được đào tạo với nhu cầusử dụng nhân lực sẽ được thiết lập và trở nên chặt chẽ thông qua việc phát triểnthị trường lao động và thị trường sản phẩm khoa học, công nghệ.Lựa chọn hướng phát triển khoa học và công nghệ ưu tiên hất quàn vớinhiệm vụ tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo… Tạo dựng sự gắn kết có hiệu quảgiữa hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ với các nhu cầukinh tế - xã hội.II.2.3.4. Hoàn thiện hệ thống y tế, chương trình dân số và các hoạt độngbảo trợ xã hộiĐối với hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ và chương trình dân số: tronggiai đoạn tới, đòi hỏi cấp thiết trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ chưaphải là việc phát triển các dịch vụ cao cấp và nâng cao chất lượng, mà là nhữngnỗ lực mở rộng diện cung cấp và nâng cao chất lượng các dịch vụ cơ bản. Tínhưu tiên của sự lựa chọn này xuất phát từ quan điểm phát triển vì tất cả mộingười và cũng nhằm giảm thiểu mức độ bất bình đẳng giữa các nhóm dân cưcó thu nhập khác biệt thuộc các vùng và các tầng lớp khác nhau. Các mục tiêucụ thể: mở rộng cơ hội để người dân tiếp cận dễ dàng đến y tế dự phòng, bảođảm mọi người dân được chữa các bệnh thông thường, giảm nhanh tỷ lệ trẻ em23và bà mẹ có thai bị suy dinh dưỡng, thực hiện tốt chương trình kế hoạch hoágia đình. Một số giải pháp cần thực hiện là: Tăng mức chi ngân sách cho lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khoẻ, trongđó cần ưu tiên hơn cho các vùng bị cô lập, các dịch vụ chăm sức khoẻ ban đầu,củng cố và nâng cấp mạng lưới y tế ở cấp thôn, bản và xã, các chương trìnhcung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm.Cho phép khu vực tư nhân tham gia vào lĩnh vực y tế, mở rộng phạm vibảo hiểm y tế. Tăng cường năng lực bộ máy y tế và chăm sóc sức khoẻ thôngqua việc mở rộng đào tạo cán bộ y tế, đặc biệt là đào tạo y tá và cán bộ bảo vệsức khoẻ cho các vùng nông thôn, miền núi…III. KẾT LUẬNChỉ số phát triển con người - HDI là thước đo tổng hợp của ba khía cạnhvề phát triển con người, đó là: tuổi thọ; tri thức (được đo bằng tỷ lệ biết chữ ởngười lớn cũng như tỷ lệ nhập học tổng hợp ở các cấp); và mức sống (được đobằng GDP bình quân đầu người và chi phí sinh hoạt thể hiện qua chỉ số sứcmua ngang bằng - PPP). Việc xếp hạng về HDI toàn cầu giúp cho các nướcbiết được kết quả phát triển con người của mình trong một giai đoạn dài, cònnhững thay đổi qua từng năm không có nhiều giá trị về mặt phân tích vì các sốliệu căn bản được xem xét, chỉnh lý theo từng giai đoạn.Việc phân tích, nghiên cứu về thực trạng phân hoá HDI trên thế giời vàViệt Nam trong những năm qua cho thấy, chỉ số HDI của thế giới đã có nhữngthay đổi, về cơ bản theo chiều hướng tốt lên. Mức HDI trung bình của thế giớităng từ 0.722 (2001) lên 0.741(2003), đã chứng tỏ những thành công to lớn củathế giới trong việc, cải thiện nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Tuynhiên, trong sự phát triển này, thế giới phải đối mặt với hàng loạt các tháchthức như khoảng cách giàu nghèo quá lớn giữa các quốc gia, sự phát triểnkhông bền vững về các mặt kinh tế - xã hội, môi trường… đòi hỏi các quốc giaphải có quyết sách phát triển hợp lí trong thời gian tới. Ở Việt Nam, trongnhững năm qua nhờ sự quan tâm đúng mức của Đảng và nhà nước chúng ta đãcó những thành tựu đáng tự hào trong công cuộc phát triển, góp phần thực hiệnmục tiêu của Đảng ta là xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, tạo điềukiện cho con người phát triển toàn diện về cả mặt thể chất và tinh thần.24Thông qua chuyên đề này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn trân trọng và sâusắc nhất tới PGS. TS Nguyễn Minh Tuệ, là người đã trực tiếp giảng dạy,hướng dẫn và cung cấp cho tôi những tư liệu hết sức cần thiết và quý báu trongsuốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề. Tuy nhiên, donhững hạn chế về thời gian nghiên cứu và nguồn tài liệu thu thập được, nên đềtài không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vậy tôi kính mong nhậnđược những ý kiến nhận xét đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và bạn bèđồng nghiệp kết quả nghiên cứu đề tài được hoàn chỉnh hơn. Hà Nội, tháng 01 năm 2008 Học viên: Vũ Kim Đức25
Tài liệu liên quan
- Mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục ở đồng bằng sông Cửu Long
- 114
- 1
- 4
- Tính toán các chỉ số phát triển con người
- 30
- 790
- 3
- Luận văn nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số phát triển con người tỉnh bắc giang
- 125
- 1
- 6
- Tài liệu Tính toán các chỉ số phát triển con người ppt
- 30
- 652
- 0
- Tài liệu Cách tính các chỉ số phát triển con người ppt
- 40
- 673
- 0
- Chỉ số phát triển giáo dục trong HDI cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu pot
- 232
- 957
- 3
- nghiên cứu hoàn thiện phương pháp tính và xây dựng quy trình tính chỉ số phát triển con người (HDI) ở việt nam
- 118
- 1
- 5
- Phân tích sự biến động của chỉ số phát triển con người (HDI) ở việt nam giai đoạn 2001 2012
- 34
- 3
- 21
- HDI - chỉ số phát triển con ngươi
- 25
- 6
- 48
- Nghiên cứu ứng dụng phương pháp tính chỉ số phát triển con người (HDI) theo thực trạng số liệu ở Việt Nam
- 131
- 673
- 0
Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về
(783.5 KB - 25 trang) - HDI - chỉ số phát triển con ngươi Tải bản đầy đủ ngay ×Từ khóa » Chỉ Số Hdi Của Thế Giới Năm 2003
-
0,741 (năm 2003) Là Chỉ Số HDI Của
-
Chỉ Số HDI (năm 2003) Của Các Quốc Gia An-giê-ri, Tuy-ni-di, Cap Ve ...
-
0,741 (năm 2003) Là Chỉ Số HDI Của A. Thế Giới B. Các Nước ... - Hoc24
-
0694 (năm 2003) Là Chỉ Số HDI Của A. Thế Giới B. Các Nước Phát Triển ...
-
Chỉ Số Phát Triển Con Người – Wikipedia Tiếng Việt
-
Danh Sách Quốc Gia Theo Chỉ Số Phát Triển Con Người - Wikipedia
-
3 Quốc Gia ở Châu Phi Có Chỉ Số HDI (năm 2003) - Thi Online
-
Thấy Gì Qua đánh Giá Mới Nhất Về Chỉ Số Phát Triển Con Người Của VN?
-
Dựa Vào Bảng 1.3, Kết Hợp Với Thong Tin ở Trên ...
-
3 Quốc Gia ở Châu Phi Có Chỉ Số HDI (năm 2003) . Trên 0,7
-
Dựa Vào Bảng 1.3, Kết Hợp Với Thong Tin ở Trên, Nhận ...
-
Dựa Vào Bảng Số Liệu Sau Về Chỉ Số HDI Của Thế Giới Và Các Nhóm ...
-
Chỉ Số HDI Của Việt Nam Liên Tục Tăng - Báo Tuổi Trẻ
-
Chỉ Số HDI Của Ô-xtrây-li-a Năm 2003 đạt 09555 – đứng T - Tự Học 365