Hình Thức Của Dân Chủ - BBC

BBCVietnamese.com

27 Tháng 3 2006 - Cập nhật 13h18 GMT

Hoàng NghĩaNghiên cứu sinh, đại học Manchester Metropolitan, Anh

Hình thức của dân chủ

Tiếp tục bài viết về dân chủ, trong phần hai này, tác giả Hoàng Nghĩa bàn về hình thức của dân chủ.

Dân chủ, với tính cách là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, là hình thức của nhà nước thì nó là một phạm trù lịch sử, nó ra đời, phát triển gắn liền với nhà nước và sẽ biến mất khi nhà nước không còn nữa. Nó biến đổi và phát triển không ngừng cả về chất và lượng trong từng giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội loài người.

Tuy nhiên, dân chủ với tính cách là giá trị xã hội, là thành quả giá trị nhân văn, trước hết được sinh ra từ phương thức tổ chức hợp tác sản xuất vật chất và cấu kết cộng đồng giữa người với người thì đã tồn tại ngay từ khi lịch sử thành văn, từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Và do đó, với ý nghĩa này, dân chủ sẽ tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, là một trong những phương thức tồn tại của con người ngay cả khi nhà nước đã biến mất.

Đọc phần một bài viết tại đây

Đọc phần ba bài viết tại đây

Chẳng hạn, trong các cộng đồng thị tộc, bộ lạc, trước khi xã hội phân chia thành giai cấp và có nhà nước, đều tồn tại hình thức tự quản, với những đặc điểm như: 1. Người đứng đầu thị tộc, bộ lạc do tất cả các thành viên trong thị tộc bầu ra; 2. Mọi thành viên trong thị tộc đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau; 3. Tất cả mọi công việc trong thị tộc, bộ lạc đều được các thành viên tham gia bàn bạc và đóng góp ý kiến dù đó là vấn đề mang tính chung của cộng đồng hay mang tính riêng của mỗi thành viên trong cộng đồng; 4. Ðối với khu vực có cư dân đông hơn và lãnh thổ rộng lớn hơn, dân chủ nguyên thuỷ được thực hiện một cách gián tiếp. Người đứng đầu do hội đồng gồm các tộc trưởng của bộ lạc bầu ra. Tuy nhiên, về cơ bản, dân chủ nguyên thuỷ vẫn được coi dân chủ trực tiếp, và hình thức dân chủ phổ biến đầu tiên của xã hội loài người không phải là dân chủ đại diện mà là dân chủ trực tiếp.

Như vậy, có thể thấy rằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức biểu hiện của cùng thực thể dân chủ, cả hai hình thức này đều đóng một vai trò quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện dân chủ.

Dân chủ trực tiếp: Là sự thể hiện một cách trực tiếp ý chí của chủ thể quyền lực về những vấn đề quan trọng nhất. Về mặt lý luận, dân chủ trực tiếp thực chất là chế độ chính trị ở đó công dân được thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình một cách trực tiếp mà hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ sự đại diện nào.

Chính vì vậy, bộ máy của chủ thể chỉ đơn thuần đóng vai trò tổ chức bảo đảm các điều kiện để thực hiện ý chí đó. Ở đây đòi hỏi cần có sự đồng nhất giữa người người quản lý và người bị quản lý, giữa công dân và người đại diện cho quyền lực của công dân. Chủ thể của quyền lực, tự mình có thể giải quyết được các vấn đề chung: về lập pháp, về hành chính và về quản lý tư pháp. Hình thức khởi thuỷ của dân chủ trực tiếp đó chính là Dân chủ công xã nguyên thuỷ, tuy nhiên chế độ dân chủ trực tiếp chỉ ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ, với Quốc hội Athens (Hy Lạp) và Florenxia (Italia).

Ngày nay những hình thức dân chủ trực tiếp phổ biến nhất đó là trưng cầu dân ý (trong phạm vi toàn quốc), chẳng hạn, trưng cầu dân ý về đóng góp các ý kiến pháp luật, sửa đổi Hiến pháp, luật,.v.v.; việc công dân bỏ phiếu trực tiếp trong quá trình lựa chọn ứng viên và trong các kỳ Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp, hoạt động của các tổ chức xã hội, hiệp hội quần chúng và nghề nghiệp, các hình thức tự quản trong sản xuất và cơ sở địa phương...

Việc thực hiện dân chủ trực tiếp phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, chẳng hạn phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế và xã hội, trình độ văn hoá chính trị, văn hoá pháp lý,..của xã hội đó. Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức không thể thiếu được trong việc quản lý và điều hành xã hội của bất kỳ một chế độ xã hội nào, đồng thời nó cũng là một cơ chế hữu hiệu để kiểm soát quyền lực công (quyền lực nhà nước) và thực thi quyền lực của nhân dân, ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Dân chủ đại diện là hình thức dân chủ chung nhất nếu xét từ góc độ cơ chế thực hiện quyền lực của nhân dân; là chế độ, trong đó việc ra những quyết định chủ yếu thuộc thẩm quyền của hội nghị những người đại diện (chẳng hạn, các đại biểu Quốc hội); các hội nghị hiệp thương nhân dân. Những người này cùng với hội nghị là do chủ thể quyền lực bầu ra và lập nên. Chủ thể quyền lực giữ cho mình quyền được kiểm tra và tác động vào hoạt động của cơ quan đại diện. Hình thức đầu tiên của dân chủ đại diện là chế độ đại nghị tư sản, ra đời trong lòng của chế độ quân chủ đẳng cấp như là một công cụ đấu tranh chính trị hữu hiệu của giai cấp tư sản chống lại và lật đổ chế độ phong kiến. Ở nước ta, Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp là hình thức chủ yếu của chế độ dân chủ đại diện.

Trong xã hội hiện đại, do quy mô và tính chất của cơ cấu và tổ chức xã hội không thể cho phép việc áp dụng duy nhất và phổ biến hình thức dân chủ hiệu quả nhất trong lịch sử: nền dân chủ trực tiếp.

Bởi thế, dân chủ đại diện ra đời như một tất yếu khách quan, và nó trở nên ưu thế áp đảo và làm suy yếu hình thức trực tiếp của dân chủ.

Tuy vậy, xét về bản chất, dù là chế độ dại diện, song không thể thiếu được hình thức trực tiếp, nhất là ở những hoàn cảnh nhất định mà thiếu vắng nó, nền dân chủ đại diện sẽ khó đứng vững. Chẳng hạn, những nền dân chủ Bắc Âu là đại diện, song việc biểu quyết trực tiếp của người dân, chẳng hạn liên quan đến tương lai của việc mở rộng châu Âu hay tham gia đồng tiền chung châu Âu, đóng vai trò quan trọng đến sự tồn vong của thể chế ấy.

Dân chủ đại diện cùng với dân chủ trực tiếp là hai hình thức không thể thiếu được của việc quản lý, điều hành, kiểm soát và thực thi quyền lực của nhân dân. Việc vận dụng chúng hoàn toàn phụ thuộc vào tình hình cụ thể.

Giữa hai hình thức này có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại và chuyển hoá cho nhau. Ðể thực hiện được dân chủ đại diện thì phải cần đến dân chủ trực tiếp, chẳng hạn việc bầu cử lựa chọn ra các đại biểu Quốc hội hay Hội đồng nhân dân, nghĩa là trước khi mỗi công dân chuyển giao quyền lực của mình cho người đại diện - những đại biểu dân cử và cho nhà nước thì họ đã phải thực hiện dân chủ trực tiếp bằng cách: 1. thứ nhất, tham gia trực tiếp vào việc lựa chọn các ứng cử viên tại các hội nghị hiệp thương nhân dân hoặc thông qua tiếp xúc trực tiếp với một hay một số ứng cử viên mà mình sẽ lựa chọn; 2. thứ hai, thông qua việc bỏ phiếu kín, trên nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, công bằng, công khai và minh bạch, để lựa chọn cho mình một đại biểu ưu tú dựa trên ý chí quyết định của chính mình. Ngược lại, đến lượt mình, các đại biểu Quốc hội (nghị sĩ) khi thực hiện quyền lực của công dân (cử tri) giao cho thì lại cần phải dựa trên phương thức dân chủ trực tiếp, nghĩa là việc tham gia một cách trực tiếp và thể hiện ý chí của mình trong quá trình lập pháp cũng như các công việc quan trọng khác của nhà nước.

Xét về góc độ, bản chất và nội dung của dân chủ thì dân chủ trực tiếp là hình thức quan trọng nhất và có tính quyết định đến việc hiện thực hoá quyền dân chủ của công dân.

Dân chủ trực tiếp tạo ra nhiều khả năng cho sự tham gia trực tiếp và nhiều mặt của người dân vào các công việc của Nhà nước và xã hội, là cơ chế hữu hiệu để mỗi công dân thực hiện các quyền chính trị của mình. Bởi vì, nền dân chủ phổ biến hay chật hẹp phải là sự thể hiện trước hết và phụ thuộc hoàn toàn vào mức độ và phạm vi tham gia của nhân dân vào các công việc của nhà nước, tức là sự thực hiện và bảo đảm đầy đủ hay hạn chế các quyền chính trị của công dân.

Dân chủ, theo định nghĩa của "Ðại Từ điển tiếng Viêt" là "nhân dân có quyền tham gia, bàn bạc vào công việc chung, được tôn trọng quyền lợi của từng thành viên trong xã hội".

Chế độ xã hội của nước ta là dựa trên nền dân chủ đại diện. Tuy nhiên, điều đó cũng không có nghĩa là chỉ tồn tại đơn thuần hình thức dân chủ đại diện hay hình thức dân chủ đại diện là duy nhất, là quyết định, do bản thân dân chủ đã luôn luôn bao chứa trong nó cả hai hình thái tồn tại và chỉ có như vậy thì dân chủ mới thực hiện theo đúng nghĩa đầy đủ của nó, mà cần phải thấy rằng chính hình thức dân chủ trực tiếp là nội dung, là cái quyết định đối với nền dân chủ đại diện này.

Chỉ khi nào mức độ dân chủ trực tiếp được hiện thực hoá một cách đầy đủ, hiệu quả và sâu rộng thì đó chính là tiền đề quan trọng cho việc thực hiện tốt hình thức dân chủ đại diện và do đó nền dân chủ đại diện.

Chẳng hạn, khi quyền làm chủ của nhân dân đã được uỷ thác cho những đại diện của mình - đại biểu Quốc Hội thì đòi hỏi những đại biểu này cần thường xuyên lắng nghe và phản ánh về những vấn đề thiết yếu hàng ngày của người dân, những cuộc tiếp xúc trực tiếp với các cử tri và xử lý kiến nghị của cử tri cũng chính là một hình thức của dân chủ trực tiếp giúp cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cấp đại diện (Quốc Hội) được bảm đảm hiệu quả hơn và phản ánh đúng và sâu sát với những bức xúc, trăn trở của nhân dân.

Hơn nữa, quyền lực của nhân dân do được thực hiện thông qua người đại diện của mình (đại biểu Quốc hội) cho nên đôi khi nó 'bị khúc xạ' qua lăng kính trình độ và trách nhiệm của những người đại biểu này hoặc 'bị tha hoá' trở thành lực lượng thống trị và nô dịch nhân dân hoặc ít nhất là cũng trở thành 'xa lạ' và 'bánh vẽ' đối với nhân dân.

Do vậy, việc thực hiện dân chủ đại diện không thể tách rời dân chủ trực tiếp còn ở chỗ dân chủ trực tiếp chính là thước đo và là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm, giám sát và đánh giá dân chủ gián tiếp.

Chẳng hạn, trước khi một dự luật được Quốc Hội thông qua hay một chính sách, nghị định nào của chính phủ được ban hành thì điều hết sức quan trọng là nó cần phải được gửi cho tất cả mọi công dân để lấy ý kiến của nhân dân, hay nói cách khác là phải tiến hành trưng cầu dân ý - đây chính là một hình thức của dân chủ trực tiếp. Hình thức này cần phải được coi là một nguyên tắc nền tảng để thực hiện dân chủ trực tiếp cũng như là cơ chế hết sức quan trọng để thực hiện quyền dân chủ của mọi công dân. Nghĩa là, trưng cầu dân ý cần phải trở thành luật, thành nguyên tắc Hiến định đối với hoạt động thực thi và giám sát quyền lực của nhân dân.

Quy chế dân chủ ở cơ sở là hết sức quan trọng và cần thiết bảo đảm cho việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân thông qua hình thức dân chủ trực tiếp nhưng như thế vẫn chưa đủ, cần phải xây dựng một dự luật về trưng cầu dân ý. Chỉ có như vậy mới giúp cho việc lập pháp và việc hoạch định chính sách tránh được những bất cập, thiếu tính khả thi và chưa thực sự hiệu quả.

Trong một chế độ dân chủ thực sự, nền tảng quan trọng nhất, không phải, như lý luận của một số học giả, chỉ là quyền lực nhà nước bị hạn chế đến mức tối thiểu trong những trường hợp không cần thiết, mà hơn thế là việc sử dụng hiệu quả và đặc biệt là không bị tha hoá của quyền lực nhà nước, là sự chuyển giao và uỷ thác hoàn hảo quyền lực của nhân dân cho nhà nước nhờ đó nhân dân thực hiện được các quyền của mình.

Ðó chính là một xã hội mà ở đó, chỉ báo đích thực và cuối cùng chính là quyền công dân và quyền con người tăng lên không ngừng cả về chất và lượng.

Chừng nào quyền lực của nhà nước càng phình to và tăng cường, trong khi đó tính hiệu quả hạn chế và bị lạm dụng, bị tập trung chuyên quyền và bị tha hoá thì chừng đó chưa thể chỉ ra điều gì khác hơn là quyền và tự do cơ bản của công dân vẫn đang bị vi phạm hay chưa được thực hiện đầy đủ.

Ðiều này đã được các nhà kinh điển mác-xít khẳng định hùng hồn rằng sự tiêu vong của nhà nước chính là cơ sở thực sự của tự do, là dấu hiệu cho thấy con người được giải phóng hoàn toàn khỏi sự thống trị về mặt xã hội do chính con người tạo ra.

Dân chủ đích thực được nảy sinh trong một xã hội mà ở đó quyền lực nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống, tổ chức chính trị của xã hội được giảm thiểu và thay vào đó là quyền lực công cộng, các tổ chức dân sự,...và do đó quyền công dân, quyền con người ngày càng tăng lên.

Tuy nhiên điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội cũng như trình độ dân trí, trình độ văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật của nhân dân phải ngày càng không ngừng được nâng cao và hoàn thiện, tức là dân chủ với tính cách là nội dung của hình thái ý thức xã hội, thuộc về kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng vậy phải dựa trên một cơ sở hạ tầng nhất định mà xét đến cùng do lực lượng sản xuất của xã hội ấy quyết định.

Cũng như Nhà nước, là một phạm trù lịch sử, ra đời do sự phát triển của lực lượng sản xuất - đòi hỏi của thực tiễn, và cũng sẽ mất đi khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức làm cho cơ sở tồn tại của nó không còn nữa, dân chủ - với tính cách là một hình thức của nhà nước lúc ấy cũng sẽ mất đi và thay vào đó là sự tồn tại đích thực của dân chủ với tính cách là giá trị nhân văn của con người và giá trị xã hội của xã hội loài người.

Chỉ khi ấy, dân chủ, cũng như các quyền và tự do cơ bản con người mới thực sự là cái thuộc về bản chất đích thực của con người, mới khẳng định con người ở đúng tầm nhân vị của nó. Và điều này chỉ có thể có được ở trong một chế độ xã hội dựa trên phương thức sản xuất tiên tiến nhất của loài người-xã hội cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa: 'Dân chủ ngày nay là chủ nghĩa cộng sản. Dân chủ đã trở thành nguyên tắc của giai cấp vô sản, nguyên tắc của quần chúng' (C. Mác-Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.,1995, t.2, tr.791.)

Xã hội tương lai của loài người ấy sẽ sản sinh ra một nền dân chủ đích thực, 'dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản' - nền dân chủ XHCN. Ðúng như Lênin đã khẳng định : 'Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu Nhà nước, nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ', và 'Một nhà nước dân chủ phải thừa nhận vô điều kiện quyền tự do hoàn toàn'.

Nguyên tắc nền tảng của việc thực thi và bảo đảm dân chủ đó là "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", từ mục đích như vậy, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu này.

Tổng thể các biện pháp đồng thời này tạo ra một cơ chế hữu hiệu và duy nhất cho việc bảo đảm và thực thi quyền dân chủ rộng rãi trong xã hội.

Chẳng hạn, nếu dân không được biết, không được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật, vào công việc của nhà nước nghĩa là dân đã không được đảm bảo các quyền chính trị của mình.

Dân không biết, dân sẽ không thể bàn được, và do đó sẽ không làm được và không thể kiểm tra được quá trình hay công việc đó. Ðiều này tất yếu sẽ là điều kiện làm gia tăng sự mất dân chủ và độc đoán, chuyên quyền. Chẳng hạn, khi xây dựng và thực hiện chương trình thuỷ điện trên một diện tích rộng lớn có dân cư đang sinh sống cần phải đưa ra thảo luận, bàn bạc công khai về toàn bộ những vấn đề có liên quan đến việc di dời và tái định cư những hộ này trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp hiệu quả phù hợp với ý nguyện của họ.

Dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ:

Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và cùng với nó là văn hoá chính trị và văn hoá pháp luật của nhân dân được nâng cao và phát triển thì nguyên tắc tập trung - dân chủ có thể sẽ không còn phù hợp, bởi lẽ về mặt bản chất, theo ý nghĩa đích thực, dân chủ tự thân nó đã loại trừ sự tập trung, đặc biệt là sự tập trung quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Nhất là khi phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa đã được xác lập đầy đủ.

Còn trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thì càng cần phải có nguyên tắc này bởi nó gắn liền với sự sống còn của chế độ xã hội, gắn liền với chuyên chính vô sản.

Như vậy, tập trung dân chủ là phương tiện, là điều kiện cần thiết để giai cấp vô sản giành lấy sứ mệnh lịch sử lãnh đạo toàn xã hội, thực hiện quyền lực chính trị một cách đầy đủ nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước đó hoàn toàn thuộc về những người lao động và tất cả mọi tầng lớp trong xã hội, tức là thuộc về nhân dân theo đúng nghĩa của từ.

Nguyên tắc này chỉ có ý nghĩa như là nấc thang quá độ của việc xây dựng một xã hội thực sự dân chủ, công bằng và văn minh.

Tập trung dân chủ là một nguyên tắc có ý nghĩa vô cùng cần thiết nhất là trong một xã hội quá độ mà ở đó nếu như ngay từ đầu áp dụng dân chủ tuyệt đối có thể dẫn đến sự rối loạn và mất định hướng trong sự phát triển xã hội và thậm chí bất ổn về chính trị.

Bởi lẽ, khi ấy sự tập trung dân chủ có ý nghĩa như là một thuyền trưởng đang chèo lái con thuyền trong dông bão và hơn thế nữa là con thuyền mong manh ấy người thuyền trưởng là con người kinh nghiệm và am hiểu nhất về biển cả: ý chí quyết định của vị thuyền trưởng là chân lý, duy nhất đúng đắn và thực sự cần thiết.

Tuy nhiên, nếu trong điều kiện tương tự mà ý chí quyết định của người thuyền trưởng là sai lầm trong khi đó cũng cú nhiều thuỷ thủ cùng giỏi và am hiểu về biển cả, về dông tố thì lúc này ý chí của vị thuyền trưởng không hẳn là chân lý, hay việc gạt bỏ ý chí của các thuỷ thủ và nhất nhất khẳng định ý chí của mình thì đó lại là sai lầm ghê gớm. Và điều này có nghĩa rằng, dân chủ không tồn tại ở một hoàn cảnh như vậy.

Do vậy, việc tuyệt đối hoá nguyên tắc này có thể sẽ dẫn đến tác động tiêu cực, ngược chiều, cản trở việc thực hiện quyền dân chủ của công dân khi nó chỉ ra rằng nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và ý chí của tập thể thường là ý chí đúng đắn. Hay không khác gì hơn là việc thiểu số hoá nguyên tắc đa số mà dường như ngay từ đầu nó mang ý nghĩa hoàn toàn khác.

Tập trung dân chủ thực chất là con dao hai lưỡi trong thời kỳ quá độ của nền dân chủ XHCN. Nó làm tăng giá trị và sức mạnh của nền dân chủ nhân dân, với điều kiện phải luôn có một người lãnh đạo hay nhóm lãnh đạo sáng suốt và công minh, vì nó luôn có xu hướng hạn chế sự tuỳ tiện cuả cá nhân và nhóm nhỏ sử dụng quyền lực lực thống trị đối với đa số. Nhưng ngược lại, nó cũng rất dễ dàng dẫn đến sự lạm dụng quyền lực và nhân danh quyền lực số đông của nhóm nhỏ để áp đảo thiểu số rồi sau đó thao túng trở lại đối với số đông.

Từ khóa » Cong San Nguyen Thuy