HỘI HOẠ QUA CÁC CHẤT LIỆU - Vanvi Gallery

Là một trong những loại hình nghệ thuật truyền thống lâu đời nhất, hội hoạ đi cùng với sự phát triển của văn hoá, xã hội. Vào khoảng 30,000 năm tới 10,000 năm TCN, hội hoạ đã xuất hiện cùng với thuỷ tổ loài người, những hình ảnh đơn sơ trên vách đá chính là bước đi đầu tiên của loại hình nghệ thuật rực rỡ này. Điều hấp dẫn ở hội hoạ này là có thể thưởng thức một tác phẩm ở nhiều khía cạnh khác nhau. Và một trong những yếu tố đó chính là chất liệu mà hoạ sĩ sử dụng. Một bức tranh có thể được sáng tạo từ sơn dầu, sơn mài, màu nước, màu bột, phấn sáp,… Hãy cùng khám phá nền hội hoạ qua sự phân loại của các chất liệu.

Sơn dầu

Trước khi có sơn dầu, các hoạ sĩ thường sử dụng chất liệu tempera, chính tính chất dẻo quánh của tempera là một trong những yếu tố định hình sơn dầu bây giờ. Ngay cả khi sơn dầu được ra đời, thì kĩ thuật tempera cũng không bị mai một, các hoạ sĩ thời Trung cổ thường vẽ các lớp bên dưới của tranh sơn dầu bằng tempera, sau đó họ phủ các lớp màu sơn dầu lỏng lên theo lối vẽ tráng (scumbling). Phải đến thời anh em họa sĩ Van Eyck (khoảng 1390-1441) kĩ thuật vẽ tranh sơn dầu mới được hoàn thiện và phát triển. Màu sắc sơn dầu thời kỳ này trong trẻo tươi sáng hơn, có độ bóng đẹp, không thấm nước, bền vững và chịu được thử thách của thời gian. Từ đó, sơn dầu được sử dụng rộng rãi, được dùng phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Có thể nói, việc hoàn thiện chất liệu sơn dầu là một cuộc cách mạng kỹ thuật lớn, làm chuyển biến và nâng cao nghệ thuật tranh vẽ. Người vẽ càng hiểu rõ kĩ thuật thì tác phẩm càng chất lượng, càng có thể bảo tồn được lâu hơn.

Riêng ở Việt Nam, kĩ thuật vẽ tranh sơn dầu được du nhập vào nước ta khi thực dân Pháp mở trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1925. Dưới sự đào tạo của Victor Tardieu Joseph Inguimberty, một thế hệ các danh hoạ lần lượt ra đời như Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái,… Trải qua gần 100 năm, tuy kĩ thuật sơn dầu không có những bước nhảy vọt hay phát triển đáng kể nhưng các hoạ sĩ trẻ đều rất đang cố gắng kế thừa và phát triển kĩ thuật này. Điển hình là cuốn sách “Kỹ thuật vẽ sơn dầu” của hoạ sĩ, nhà nghiên cứu khoa học Nguyễn Đình Đăng được xuất bản năm 2009 của NXB Đông A. Sách của ông là một đóng góp không hề nhỏ cho nền hội hoạ Việt Nam.

Tranh sơn dầu "Đi tìm Lucy" - Hoạ sĩ Dương Thuỳ Dương

Sơn mài

Kỹ thuật sơn mài xuất hiện đầu tiên ở Nhật Bản và Trung Quốc nhưng vẫn còn hạn chế, chỉ dừng lại ở mức gia công trên các đồ thủ công mỹ nghệ. Phải đến khi du nhập vào Việt Nam, chất liệu sơn mài được đưa vào hội hoạ. Trở thành một trong những chất liệu được sử dụng trong việc sáng tác nghệ thuật. Kỹ thuật mài chính là một trong những điểm đặc biệt của nghệ thuật sơn mài Việt Nam. Những hoạ sĩ của trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã cùng nhau hoàn thiện và phát triển kỹ thuật này. Tranh sơn mài sử dụng các vật liệu màu truyền thống của nghề sơn như sơn then, sơn cánh gián làm chất kết dính, cùng các loại son, bạc thếp, vàng thếp, vỏ trai,... vẽ trên nền vóc màu đen. Tranh có thể được vẽ và mài nhiều lần cho đến khi hoạ sĩ mong muốn, từ đó thuật ngữ “sơn mài” hay “tranh sơn mài” được sử dụng rộng rãi. Đi cùng với lịch sử của tranh sơn mài Việt Nam chính là những tên tuổi như Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Đức Nùng, Hoàng Tích Chu,… Để làm ra một tác phẩm sơn mài, hoạ sĩ có thể phải mất đến hàng tháng. Một bức tranh sơn mài được bảo quản tốt, có thể tồn tại từ 400 đến 500 năm.

Series tranh sơn mài "Bản thể" - Hoạ sĩ Nguyễn Đình Văn

Ngày nay, hoạ sĩ chuộng sử dụng nguyên liệu sơn Nhật khi vẽ tranh sơn mài. Do sơn ta có thể gây tác dụng phụ bào mòn da, hơn nữa, việc sử dụng sơn ta phụ thuộc khá nhiều vào điều kiện thời tiết. Khi thời tiết ẩm ướt thì sơn càng nhanh khô, ngược lại khi thời tiết khô ráo thì sơn rất lâu khô. Trong khi đó, sơn Nhật lại nhanh khô và dễ dàng kiểm soát hơn. Nhưng khi sử dụng sơn Nhật không thể tạo được độ sâu như sơn ta cũng như có được sự bóng bẩy như sơn ta. Vậy nên, để tranh được bóng, bây giờ người ta thường dùng một lớp sơn trong (sơn cánh gián) phủ ra bên ngoài tranh. Nhưng dù thế nào, các tác phẩm sơn mài sử dụng sơn ta vẫn được ưa chuộng hơn vì sự công phu để tạo nên nó.

Màu nước

Màu nước trở thành một trong những chất liệu trong hội hoạ dưới thời kỳ Phục Hưng. Họa sĩ người Đức thời Phục hưng Albrecht Dürer (1471–1528) có một vài bức tranh về cây cối, động vật hoang dã và phong cảnh bằng màu nước nên ông được coi như một trong những người đi tiên phong trong việc sử dụng kỹ thuật vẽ màu nước. Một điều thú vị là màu nước không chỉ đóng vai trò như một chất liệu làm nên giá trị nghệ thuật mà còn là một trong những chất liệu được sử dụng rộng rãi phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học như là vẽ minh hoạ động thực vật, vẽ bản đồ, vẽ khảo cổ, vẽ thiết kế,… Khác với tính chất dẻo quánh lâu khô của sơn dầu hay sự mài giũa bóng bẩy công phu của sơn mài, màu nước là một chất liệu nhẹ nhàng, thuần khiết và đặc biệt nhanh khô. Màu nước hình thành do các sắc tố (thường dưới dạng bột) được hòa tan vào nước tạo ra một dung dịch có màu sắc và thường được vẽ trên các chất liệu phổ biến như là giấy, giấy giang, giấy dó, lụa,… Ở Trung Quốc, tranh thủy mặc hay thư pháp được vẽ, được viết bằng mực cũng là một trong những dòng tranh màu nước.

Tranh lụa "Hộ pháp khuyến tâm an" - Hoạ sĩ Hồ Tuấn Duy

Tuy cũng có ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa, nhưng hội hoạ Việt Nam cũng trải qua sự rèn giũa của nghệ thuật Pháp, những bức tranh màu nước của hoạ sĩ Việt Nam đều có tính chất độc đáo riêng biệt. Bản thân tranh lụa của Mai Trung Thứ chính là minh chứng điển hình khi kết hợp sự đối chọi rực rỡ trong hoà sắc phương Tây cùng với tạo hình phóng khoáng nhẹ nhàng của phương Đông Đông. Ở Việt Nam sau năm 1960 cho đến nay, các họa sĩ dùng phổ biến màu nước của Nga, mang nhãn hiệu Leningrad. Theo họa sĩ Phan Cẩm Thượng, thời chiến tranh, họa sĩ Việt Nam dùng màu nước vẽ tranh ký họa và trực họa tại thực tế rất phổ biến. Nhiều họa sĩ vẽ hoàn chỉnh ngay tại nơi vẽ, vượt lên ý nghĩa của một ghi chép thông thường. Chính sự phóng khoáng trong sáng tạo đó đã tạo nên một kĩ thuật vẽ màu nước riêng biệt. Ngày nay các hoạ sĩ không chỉ dừng lại ở việc sử dụng màu nước đơn thuần, mà còn kết hợp màu nước với các kĩ thuật khác như là sáp, chì, màu tự nhiên, màu bột,… Hoạ sĩ Phan Cẩm Thượng cũng là một trong những người đóng góp lớn cho sự phát triển của nền hội hoạ Việt Nam. Bản thân hoạ sĩ nghiêm túc nghiên cứu kĩ thuật vẽ màu tự nhiên trên lụa, trên giấy dó nhiều năm và đã tự đúc kết sự tinh tuý trong kĩ thuật pha màu, nhuộm lụa, khiến tranh lụa, tranh giấy dó có tuổi thọ không kém gì so với các tranh sơn mài, sơn dầu.

Tranh vẽ màu tự nhiên trên giấy gió "Tiền kiếp" - Hoạ sĩ Phan Cẩm Thượng

Sơn acrylic

Sơn acrylic là loại sơn khô nhanh được làm bằng bột màu trong nhũ tương polyme acrylic. Hầu hết sơn acrylic có gốc nước, nhưng trở nên kháng nước khi khô. Tùy thuộc vào lượng sơn được pha loãng với nước, hoặc được sửa đổi bằng gel, môi trường hoặc bột nhão acrylic, bức tranh acrylic thành phẩm có thể giống màu nước, bột màu hoặc tranh sơn dầu hoặc có những đặc điểm riêng biệt không thể đạt được bằng các phương tiện khác. Giữa năm 1946 và năm 1949, Leonard BocourSam Golden đã phát minh ra sơn acrylic dung dịch với thương hiệu sơn Magna. Đây là những loại sơn có nguồn gốc từ tinh linh khoáng vật và được bán trên thị trường những năm 1950. Với lịch sử hình thành còn mới mẻ như vậy, bản thân sơn acrylic không hẳn là một chất liệu được ưa chuộng của các hoạ sĩ được đào tạo hàn lâm, nhưng lại rất phổ biến đối với các nghệ sĩ sáng tác tự do, những nghệ sĩ thực hành nghệ thuật thử nghiệm hay các hoạ sĩ với các tác phẩm đa chất liệu. Acrylic có khả năng liên kết với nhiều bề mặt khác nhau như là trên giấy, vải, gương,... Chúng cũng có thể được sử dụng để xây dựng các lớp sơn dày tạo gel và hồ dán hoặc được sử dụng để tạo ra các bức tranh với tính chất phù điêu. Sơn acrylic là một loại sơn tổng hợp, tuy có linh hoạt nhưng chỉ có thể tồn tại từ 15 đến 20 năm. Thế nhưng sơn acrylic vẫn là một chất liệu được yêu thích trong mỹ thuật ứng dụng và có rất nhiều hoạ sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng sử dụng chất liệu này trong các tác phẩm của họ như làAndy Warhol, Robert Motherwell, Kenneth Noland, …

Tranh acrylic "Frenchie" - Hoạ sĩ Dương Thuỳ Dương

Đa chất liệu

Hội hoạ tập trung vào tạo hình không gian trên mặt phẳng. Không còn bị bó buộc vào những vật liệu truyền thống như toan, gỗ, lụa, đi cùng với sự sáng tạo của hoạ sĩ, những mặt phẳng được sử dụng ấy trở nên đa dạng dần theo thời gian. Ngày nay chúng ta thậm chí có thể được chiêm ngưỡng những tác phẩm trên tường, bảng nhôm, gương… Sự xuất hiện của tranh đa chất liệu chính là một bước nhảy của hội hoạ. Một bức tranh đa chất liệu là một bức tranh kết hợp các chất liệu và phương pháp vẽ khác nhau, thay vì chỉ một chất liệu. Bất kỳ vật liệu nào cũng có thể được sử dụng, bao gồm các vật phẩm cắt dán như các trang từ tạp chí, báo, ảnh, vải, bao bì hoặc một phần vật liệu hỗn hợp có thể "đơn giản" như sử dụng hai chất liệu, chẳng hạn như sơn acrylic với màu phấn ở trên toan. Tranh đa chất liệu không phải là một hiện tượng của thế kỷ 20, mà đã xuất hiện từ các thế kỉ trước. Hoạ sĩ Leonardo da Vinci thường thêm vàng lá vào các bức tranh nhà thờ, William Blake sử dụng màu nước rửa trong các bản in của mình và Edgar Degas kết hợp phấn màu với than và mực in.

Tranh đa chất liệu "Đêm xanh" - Hoạ sĩ Nguyễn Ngọc Phương

Bản thân các nghệ sĩ Việt Nam cũng đang thực hành và phát triển tranh đa chất liệu khoảng 20 năm trở lại đây. Tuy chưa có nhiều thành tựu đáng kể so với thị trường nghệ thuật quốc tế. Nhưng bản thân sự thử nghiệm trong đó đã đẩy phương thức tư duy sáng tác nghệ thuật sang một trang khác. Tranh đa chất liệu là sự khởi đầu cho những tác phẩm xoá nhoà đi ranh giới giữa những quy ước khắt khe về kĩ thuật và sự thả hồn tự nhiên. Giúp cho hội hoạ Việt Nam có một cái nhìn bay bổng và lãng mạn hơn trong sáng tác. Bản thân hoạ sĩ không chỉ tập trung vào tạo hình, vào kĩ thuật mà còn lan toả sự trải nghiệm quá trình sáng tác trong chính tác phẩm của mình.

Ahndoar

Từ khóa » Hoạ Sĩ Việt Nam