Hội Nghị Liễu Châu 5/7/1954: Chu Ân Lai Ra Lệnh Hồ Chí Minh Khi ...
Có thể bạn quan tâm
Hội nghị Liễu Châu (3-5.7.1954): Chu Ân Lai triệu tập Hồ Chí Minh qua Liễu Châu họp, và ra lệnh cho cộng sản VN khi đàm phán với Pháp tại hội nghị Geneve 20-7-1954, sẽ phải chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17, Quảng Trị. Ở miền Nam, Ngô Đình Diệm vừa mới từ Mỹ trở về, được Quốc trưởng Bảo Đại cử lên làm thủ tướng ngày 7-7-1954. TT Diệm không đồng ý chia đôi đất nước vì ông không muốn mang tội với tiền nhân, ông ra lệnh cho Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ không đặt viết ký bất kỳ văn kiện nào trong nghị hội nghị Geneve để Miền Nam Việt Nam không bị ràng buộc bất cứ điều gì với Cộng Sản và Pháp.
Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954
Hội nghị Liễu Châu then chốt
Tiền Giang (钱江/Qian Jiang)
Bản dịch của Dương Danh Dy
Bài này là Chương 27 của cuốn Chu Ân Lai dữ Nhật Nội Ngoã hội nghị (周恩来与日内瓦会议 / Chu Ân Lai và Hội nghị Genève, nhà xuất bàn Trung Cộng Đảng Sử Xuất Bản Xá, 2005), mà tác giả là Tiền Giang. Chúng tôi cảm ơn dịch giả Dương Danh Dy đã cho phép Diễn Đàn công bố bản dịch này (và công bố toàn văn bản dịch cuốn sách trong tháng 1.2009 tới đây).
Hội nghị Liễu Châu (3-5.7.1954) là bước ngoặt trong quá trình thương lượng tại Genève, chấm dứt cuộc Kháng chiến lần thứ nhất, với những thành quả và hậu quả mọi người đều biết.
Tiếc rằng cho đến nay, hầu như không có nghiên cứu sử học nào đã được công bố ở Việt Nam về cuộc gặp ở Liễu Châu.
Bài này cho ta biết cách trần thuật và quan điểm của phái đoàn Trung Quốc do thủ tường Chu Ân Lai dẫn đầu. Như chú thích số 4 cho biết, những ghi chép của Mã Liệt (thư kí đối ngoại của Chu) đã bị Chu Ân Lai xoá đi rất nhiều, “đại bộ phận phần xoá bỏ là những điểm bất đồng của hai bên”. Qua những nguồn tài liệu khác, chúng ta biết rằng Trung Quốc đã gây sức ép lớn để buộc phía Việt Nam phải chấp nhận giải pháp phân vùng theo giới tuyến, chấp nhận vĩ tuyến 16 (thay vì 13 hay 14), để rồi cuối cùng, trong những ngày chót ở Genève , là vĩ tuyến 17. (xem, chẳng hạn, China & The Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai (Trạch Cường), The University of North Carolina Press, 2000).
Tuy phiến diện và đơn phương, đây là một tài liệu tham khảo quan trọng, giúp ta tìm hiểu thêm về một giai đoạn quan trọng của lịch sử hiện đại Việt Nam.
Diễn Đàn
Từ trái sang phải: Nam Il của Bắc Triều Tiên; V.M. Molotov, Liên Xô, Chu Ân Lai, Trung Cộng, Phạm Văn Đồng, Việt Minh, tại biệt thự của Chu ở Genève trong thời gian đàm phán Hiệp định.
Đang lúc giữa hè nóng nực nhất, lãnh đạo hai bên Trung Việt tiến hành tám lần họp trong ba ngày tại Liễu Châu, đưa ra quyết định trọng đại cho số phận tương lai của Việt Nam, điều hoà lập trường của hai bên tại Genève được nhất trí. Chu Ân Lai là người định ra luận cứ cho Hội nghị Liễu Châu, sự lý giải và ủng hộ của Hồ Chí Minh cũng có tác dụng then chốt. Hoàn toàn thực hiện dự tính của Chu Ân Lai, Hội nghị Liễu Châu đã lát con đường cho hội nghị Genève cuối cùng giải quyết được vấn đề Đông Dương.
Ngày 30 tháng 6 [1954], Chu Ân Lai đáp chuyên cơ “Công chúa” do Ấn Độ cung cấp, trở về Quảng Châu, rồi tập trung tinh lực chuẩn bị cho cuộc gặp mặt Hồ Chí Minh, điều hoà lập trường của hai nước Trung Việt tại Genève, bởi vì tại Genève, ý kiến của Phạm Văn Đồng, đại biểu Việt Nam chưa thể thống nhất với ý kiến của hai Ngoại trưởng Trung Xô.
Truy ngược lại thời gian thì rõ, khi chuẩn bị tham gia Hội nghị Genève, ba phía Trung, Xô, Việt chưa hoàn toàn nhất trí ý kiến về dự án đàm phán vấn đề Việt Nam ; rốt cuộc là vạch một giới tuyến quân sự Nam Bắc hay là xác định vùng tập kết quân sự của hai bên Việt Pháp, phương án nào là lợi nhất, còn đang trong thương lượng. Chu Ân Lai nghiêng về vạch giới tuyến Nam Bắc và cho rằng vĩ tuyến 16 là thích hợp. Lúc này chiến dịch Điện Biên Phủ còn đang gay go quyết liệt, chưa phân thắng bại ; vì vậy, mặt trận phương Đông quyết định sau khi đến Genève, sẽ căn cứ vào kết cục của chiến dịch Điện Biên Phủ mà xác định phương án đàm phán.
Tại Genève, phương án giới tuyến dần dần rõ thêm. Ngày 7 tháng 5, quân đội Việt Nam toàn thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thái độ của Phạm Văn Đồng nhanh chóng cứng rắn lên, đưa ra ý tưởng to gan, vạch giới tuyến quân sự tại vĩ tuyến 13. Như thế Việt Minh có thể khống chế hai phần ba lãnh thổ cả nước. Các cường quốc phương Tây, phản đối dữ dội phương án này.
Phạm Văn Đồng phản đối mạnh mẽ việc rút quân đội Việt Nam ra khỏi Lào và Campuchia. Thái độ của nhà đương cục Việt Nam như vậy đã làm cho Chu Ân Lai, Molotov cảm thấy vô cùng tế nhị, không tiện nói. Sau nhiều lần khuyên can của Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng mới đồng ý rút quân đội Việt Nam ra khỏi Lào và Campuchia ; nhưng trên vấn đề vạch giới tuyến, Phạm Văn Đồng chỉ đồng ý lùi có giới hạn. Ngày 19 tháng 6, khi Hội nghị Genève thông qua quyết nghị về việc trước tiên rút quân đội ra khỏi Lào và Campuchia ; sau hội nghị, Phạm văn Đồng đã biểu thị có bảo lưu với đại biểu Trung Xô.
Trước việc giữa đoàn đại biểu Liên Xô và đoàn đại biểu Việt Nam xuất hiện bất đồng, ngày 19 tháng 6, Chu Ân Lai gửi điện cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ ra nếu trong vấn đề Lào và Campuchia có nhượng bộ thì tại Việt Nam có thể yêu cầu được nhiều hơn một chút, “ tình hình trước mắt là, nếu trong hội đàm quân sự ta đưa ra phương án cụ thể, hợp lý thì có thể tranh thủ Pháp nhanh chóng giải quyết vấn đề, đạt được đình chiến. Như vậy có thể thúc đẩy chính phủ mới của Pháp chống lại sự can thiệp của Mỹ, lại vừa có thể kéo dài vấn đề quân đội châu Âu. Điều này có lợi cho cả Đông, Tây. Vì thế, những vấn đề có tính quan trọng như vậy cần phải bàn cho rõ.” Do đó, nhân dịp Ngoại trưởng các nước rời Hội nghị Genève, tôi “ cần phải, sau khi thăm Ấn Độ và trên đường về nước, giữa đường cùng đoàn đi Nam Ninh, Quảng Tây, mời mấy vị phụ trách Trung ương ĐLĐ Việt Nam để tôi báo cáo tình hình với họ, thuyết minh trọng điểm phương châm chia vùng.”1
Ngày 20 tháng 6, Chu Ân Lai gửi điện cho Đặng Tiểu Bình, chuyển Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, nói đã bàn và được sự đồng ý của Molotov và Phạm Văn Đồng, sau khi thăm Ấn Độ trên đường về nước sẽ đến Nam Ninh gặp Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, và La Quí Ba, Vi Quốc Thanh, giới thiệu “ tình hình đàm phán và vấn đề chia vùng, mong được nhất trí ý kiến nhằm làm cho đàm phán Genève tiến triển ” Chu Ân Lai dự tính trong ngày sẽ được phê chuẩn.
Lúc này trong nước [Trung Quốc] đã chuẩn bị nơi hội đàm lãnh đạo Trung Việt tại Nam Ninh. Thế nhưng khi về tới Quảng Châu, Chu Ân Lai lại một lần nữa tỏ ra thận trọng, cho rằng Nam Ninh cách biên giới Trung Việt quá gần, lại đông dân, khó bảo mật, nên chuyển lên phía bắc thì tốt hơn. Tuân theo ý kiến của ông, địa điểm gặp gỡ lãnh đạo Trung Việt lần này tạm thời được đổi đến Liễu Châu.
Lãnh đạo Việt Nam đồng ý việc đổi địa điểm hội nghị của phía Trung Quốc. Hồ Chí Minh cử Võ Nguyên Giáp đến Trung Quốc trước. Trung Quốc cử La Quí Ba, Vi Quốc Thanh cố vấn chủ yếu ở Việt Nam, ngoài ra còn có Giải Phương, nguyên Tham mưu trưởng chí nguyện quân Trung Quốc tại Triều Tiên, vừa đến Việt Nam không lâu, trợ giúp lãnh đạo quân sự Việt Nam tiến hành đàm phán quân sự [với Pháp tại] Trung Giã, và Phùng Mục Minh, cán bộ Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã tham gia đàm phán đình chiến Triều Tiên cũng theo đoàn về Quảng Tây.
Giải Phương là Tham mưu trưởng rất được Bành Đức Hoài, Tư lệnh quân chí nguyện tín nhiệm, sinh năm 1908, vốn tên là Giải Bái Nhiên. Ông sớm gia nhập quân Đông Bắc, biết rất rõ hai anh em Trương Học Lương, Trương Học Minh2; sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông được hai người này bảo đảm, đưa tới học tập tại Trường Sĩ quan lục quân Nhật Bản, sau khi tốt nghiệp lại trở về quân Đông Bắc, nhanh chóng được thăng là thiếu tướng. Ông bí mật gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1936, là một trong những đảng viên hoạt động bí mật đầu tiên trong quân Đông Bắc. Sau khi cuộc kháng chiến bùng nổ toàn diện, ông gia nhập Bát lộ quân, từng công tác tại Bộ tham mưu Diên An, sau đó ra mặt trận. Trong chiến dịch vượt biển giải phóng đảo Hải Nam, ông là phó quân đoàn trưởng kiêm tham mưu trưởng quân đoàn 40, Dã chiến quân thứ tư, trợ giúp quân đoàn trưởng Hàn Tiên Sở chỉ huy quân đội giải phóng Hải Nam. Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) bùng nổ, ông giữ chức Tham mưu trưởng quân chí nguyện, phò tá Bành Đức Hoài xuất mưu tính kế. Bành Đức Hoài kiêu dũng thiện chiến gọi ông là “ Gia-cát Lượng trong quân ”.
Sau khi tham gia chỉ huy “ năm chiến dịch ” trên chiến trường Triều Tiên, Giải Phương được cử làm đại biểu đàm phán của phía Trung-Triều. Ông giỏi tiếng Nhật, hơi hiểu tiếng Anh, đầu óc nhanh nhạy, trí tuệ hơn người, ngoan cường kiên định trên bàn đàm phán, từng làm cho đại biểu đàm phán phía Mỹ trực tiếp nếm đủ những lợi hại của ông. Sau khi chiến trường Triều Tiên yên tĩnh dần, Bành Đức Hoài đã nhiều lần nói : “ Sau khi về nước tôi phải giới thiệu Giải Phương với Thủ tướng Chu, để anh ta làm ngoại giao, nhân tài ngoại giao như thế không nhiều ! ”
Vì thế, vào đêm trước của cuộc đình chiến Triều Tiên năm 1953, sau khi về nước, Giải Phương cứ đi ở không quyết giữa việc lưu lại quân đội hay sang ngoại giao. Hội nghị Genève quyết định tiến hành cuộc gặp gỡ Tư lệnh hai bên tại mặt trận Việt Nam thảo luận vấn đề cụ thể của đình chiến, Hồ Chí Minh đề xuất với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đề nghị cử cán bộ hiểu biết về đàm phán quân sự sang Việt Nam giúp đỡ, thế là Giải Phương tự nhiên trở thành nhân vật đầu tiên có tên trong danh sách. Nhưng ban đầu, lãnh đạo Quân uỷ còn có chút chưa muốn để Giải Phương vừa mới rời khỏi chiến trường Triều Tiên phải tới ngay chiến trường Việt Nam, nên đã từ chối, ngay cả Chu Ân Lai đang ở Genève cũng gửi điện về nước nói, các tướng lĩnh quân sự quan trọng như Đặng Hoa, Đỗ Bình, Giải Phương có kinh nghiệm quân sự tại Triều Tiên không thể điều đi, “ nếu cần thiết chỉ có thể điều đồng chí Phùng Mục Minh tương đối có kinh nghiệm đàm phán tại Triều Tiên đi công tác [tại Việt Nam] ”.3
Lưu Thiếu Kỳ phê chuẩn Phùng Mục Minh đi Việt Nam. Không ngờ phía Việt Nam kiên trì mời Giải Phương đi, kết quả là vào tháng 6, Giải Phương và Phùng Mục Minh cùng đi Việt Nam, rồi lại cùng về nước tham gia Hội nghị Liễu Châu.
Về đoạn thời gian đã qua này, Phùng Mục Minh còn nhớ như in. Ông là người Thiên Tân, sinh năm 1913, tốt nghiệp chuyên ngành tiếng Anh, Khoa Ngoại ngữ Trường Đại học Bắc Kinh, trong kháng chiến tới Diên An, sau khi thành lập nước công tác tại Phòng Ngoại vụ Thiên Tân. Ông tham gia đàm phán Bàn Môn Điếm, sau đình chiến vẫn tiếp tục ở lại Bàn Môn Điếm giải quyết vấn đề tù binh.
Đầu tháng 6 năm 1954, ông và Giải Phương tới Việt Nam. Khi hội kiến họ, Hồ Chí Minh đã biểu thị hoan nghênh nhiệt liệt. Hồ Chí Minh nói, Việt Nam đã đánh nhau nhiều năm, đã học được cách đánh nhưng chưa học được cách đình chiến, cho nên mời các đồng chí đến giúp đỡ.
Theo ấn tượng của Phùng Mục Minh thì Tham mưu trưởng Giải Phương tự coi mình là khách nợ về ngoại giao. Trên đường từ căn cứ địa Việt Nam trở về Liễu Châu, khi chợt thấy những ngọn núi nhô cao, như Thạch Lâm xinh đẹp của Quế Lâm, mọi người đều vui vẻ, đua nhau nói ngọn núi đó giống nơi nào, nơi nào. Không ai ngờ, Giải Phương đã bất thình lình nói xen vào một câu : “ Ngọn núi này không có giá trị quân sự.”
Thế nhưng đối với vấn đề đình chiến ở Việt Nam sẽ phải đối mặt, Giải Phương hiểu biết vô cùng sâu sắc, trên đường đi xe lửa tới Liễu Châu, ông chậm rãi nói với Phùng Mục Minh : “ Các đồng chí Việt Nam có chút miễn cưỡng đối với đình chiến.”
Trên đường đi Liễu Châu, Hồ Chí Minh thường cùng ngồi với các cố vấn Trung Quốc, dọc đường các địa phương đều chiêu đãi, ăn thịt gà rất nhiều. Võ Nguyên Giáp thường gắp thức ăn cho Hồ Chí Minh, đủ thấy quan hệ thân thiết của họ.4
Sau khi về Quảng Châu, do tiết trời nóng bức, ăn uống kém nên sức khoẻ của Chu Ân Lai có chút không tốt, nên đã nghỉ một ngày, đến trước trưa ngày 2 tháng 7 mới đáp máy bay rời Quảng Châu, buổi trưa đến Liễu Châu. Ông không kịp nghỉ ngơi, lập tức đến thăm Hồ Chí Minh vừa đến trước, trao đổi ý kiến bước đầu.
Lúc này các trợ thủ thân cận chủ yếu của Chu Ân Lai là Kiều Quán Hoa, Chương Văn Tấn, phiên dịch chủ yếu của Hội nghị Liễu Châu là Trương Dực. Thư ký đối ngoại của Chu Ân Lai là Mã Liệt cũng tới. Mã Liệt tham gia công tác tại nhóm quân sự của Hội nghị Genève, tương đối nắm được tình hình. Cộng thêm các cố vấn từ Việt Nam trở về và Trần Mạn Viễn, Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân [tỉnh] Quảng Tây, phụ trách viện trợ Việt Nam, nhân tài của Hội nghị Liễu Châu rất đông.
Phiên họp thứ nhất của hội nghị bắt đầu lúc 9 giờ sáng ngày 3 tháng 7, phía Trung Quốc tham dự có Chu Ân Lai, Vi Quốc Thanh, La quí Ba, Giải Phương, Trần Mạn Viễn, Kiều Quán Hoa, phía Việt Nam là Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan. Phùng Mục Minh làm nhiệm vụ ghi chép.
Trước tiên Hồ Chí Minh mời Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình thực chiến trường của cuộc chiến tranh Đông Dương.
Võ Nguyên Giáp lấy ra bản đồ tình hình hai bên giao chiến ở Đông Dương, báo cáo về bốn bộ phận : tình hình chung của chiến tranh, so sánh lực lượng địch ta, tình hình Việt Nam, tình hình Lào và Campuchia.
Võ Nguyên Giáp chỉ ra : sau chiến dịch Điện Biên Phủ, tình hình rất có lợi. Trước mắt vùng Tây Bắc Việt Nam đã được giải phóng hoàn toàn và đang được củng cố, chiến trường Lào cũng phát sinh thay đổi trọng đại. Tại Liên khu Năm, hơi nằm về phía nam Trung bộ Việt Nam, lực lượng quân đội Việt Nam vốn tương đối yếu, nhưng hiện nay kẻ địch đã rút chạy khỏi nhiều nơi, quân đội Việt Nam đã giành được quyền chủ động chiến tranh.
Trên toàn Đông Dương, tổng binh lực quân Pháp và quân đội của Bảo Đại ước khoảng hơn 400.000 người, trong đó gồm cả hương dũng5 địa phương. Do bị chiến tranh tiêu hao, nước Pháp đã tăng thêm binh lực từ trong nước, trong tổng số 190.000 quân viễn chinh Pháp có khoảng 120.000 quân Âu, Phi. Quân đội của Bảo Đại vào khoảng 240.000, quân đội Vương quốc Lào ước khoảng 17.000 người. Quân đội của chính phủ Campuchia ước khoảng 15.000 người. Trong số quân trên, gồm quân chính quy và quân bổ sung, lính hậu cần và hải quân, không quân. Quân Pháp phân tán cao, quân cơ động không quá 110.000 người. Tại vùng đồng bằng sông Hồng, tổng binh lực của địch có khả năng đạt 180.000 người.
Võ Nguyên Giáp nói, tổng binh lực của chúng ta khoảng 300.000 người (bao gồm bộ đội địa phương, đội du kích) trong đó 295.000 người là bộ đội Việt Nam, có sáu sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn pháo binh do Tổng bộ chỉ huy. Ngoài ra còn có 4.000 bộ đội Lào và khoảng 3.000 bộ đội Campuchia, nhưng trong những bộ đội này, phân đội cấp đại đội biên chế hỗn hợp cả người Việt Nam, người Lào, người Campuchia.
Chiến trường Việt Nam là chiến trường chính của Đông Dương, 90 % lực lượng của đối phương ở tại Việt Nam. Hiện nay các trung tâm kinh tế đều đang dưới sự khống chế của quân Pháp, như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng v.v.. Xem xét từ lực lượng kinh tế thấy, một phần ba là ở Bắc Bộ, chủ yếu là công nghiệp than, xi măng. Thực lực kinh tế Nam Bộ chiếm hai phần ba.
Lào đất rộng người thưa, ven bờ sông Mekong sản xuất nhiều lúa gạo. Hiện nay liên quân Việt, Lào khống chế một vùng rộng 130.000 km2, miền bắc đã được củng cố, nhưng vùng mới khống chế miền nam còn chưa nối liền thành một mạng. Quân đội Việt Nam đã tiến vào Lào là 14.000 người, cộng thêm mấy ngàn bộ đội của Souphanouvong, tình hình quân sự tương đối có lợi. Nhưng nếu quân đội Việt Nam rút khỏi đây, thì bộ đội của Souphanouvong sẽ lâm vào khó khăn. Hiện nay ở Lào số người tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương6 ước khoảng 220 người, có cơ cấu lãnh đạo.
Võ Nguyên Giáp cho rằng, hoàng thân Sihanouk còn có ảnh hưởng ở Campuchia. Trong lịch sử Việt Nam và Campuchia thường xuyên có chiến tranh, nước Pháp thường dùng cái đó để xúi giục quan hệ hai bên. Hiện nay quân đội Việt Nam có khoảng 1.000 người đã vào Campuchia. Có khoảng hơn 100 người là đảng viên Campuchia của Đảng Cộng sản Đông Dương7.
Vì báo cáo của Võ Nguyên Giáp cần phải phiên dịch, nên trình bầy cả buổi sáng vẫn chưa xong, buổi chiều còn phải bổ sung. Sau đó đến Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc, Vi Quốc Thanh phát biểu. Vi Quốc Thanh chỉ ra, những số liệu nêu trong báo cáo của Võ Nguyên Giáp tương đối mới, có thể thấy quân Pháp đã bổ sung binh lực vì vậy không giảm bớt về tổng số nhưng chất lượng thì thấp. Do quân đội Pháp đang rút gọn lớn ở vùng đồng bằng sông Hồng, bây giờ nếu tấn công vào đó sẽ khó khăn tương đối lớn.
Trong khi Vi Quốc Thanh phát biểu, Chu Ân Lai đã hỏi xen vào : nếu Mỹ không can thiệp, Pháp gia tăng binh lực như cũ, tiếp tục đánh nhau thì phải bao lâu nữa chúng ta mới lấy được toàn Đông Dương ?
Vi Quốc Thanh cho rằng : trong tình hình sửa chữa tốt đường sá, vẫn còn cần hai, ba năm, mà cũng chưa có căn cứ tuyệt đối. Ông nói thêm, La Quí Ba cũng đồng ý quan điểm này.
Hồ Chí Minh cũng đồng tình nói, trong điều kiện nói trên, phía Việt Nam phải đánh thêm từ ba đến năm năm nữa mới có thể giành thắng lợi.
Buổi chiều khi kết thúc hội nghị, Chu Ân Lai đã trình bày tóm tắt cách nhìn về tình hình quốc tế. Ông chỉ ra, vấn đề Đông Dương đã quốc tế hoá, Mỹ và Liên Xô chưa bị cuốn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, nên đều muốn cục bộ hoá vấn đề. Vấn đề Đông Dương cũng ảnh hưởng đến cả Đông Nam Á, ảnh hưởng đến tình hình châu Âu và thế giới. Hội nghị Genève có ảnh hưởng tới nội các Pháp khiến nước Pháp phải thay đổi nội các, có thể thấy có mối liên hệ giữa địa vị của nước Pháp tại châu Âu và mâu thuẫn trong nước. Vấn đề Đông Dương cũng ảnh hưởng tới nước Anh. Nước Anh có liên hệ với bảy lãnh thổ như Pakistan, Ấn Độ, Xây Lan, Malaysia, Hongkong, Australia và New Zealand. Vấn đề Đông Dương cũng ảnh hưởng tới Mỹ. Nước Mỹ đang đặt ra tuyến phong toả trên toàn thế giới mà Đông Dương là một khâu quan trọng. Đông Dương đã trở thành sợi dây xích nối liền ba châu Á, Phi, Âu.
Chu Ân Lai nói, chúng ta nên tranh thủ hoà bình, mở rộng lực lượng hoà bình. Phải phát triển hoà bình khiến Mỹ không thể tìm được cớ gây chiến. Phải đề phòng Mỹ can thiệp vũ trang vào ba nước Đông Dương. Ông chỉ ra, vấn đề Triều Tiên phức tạp hoá là do Mỹ tăng viện, mà tăng viện của họ nhanh như vậy là ngoài dự kiến. Nhân lúc Liên Xô không có mặt tại Hội đồng Bảo an, LHQ tiến hành can thiệp. Nếu không có tăng viện của Mỹ, phía Triều Tiên đã đuổi Lý Thừa Vãn xuống biển từ lâu. Bây giờ Đông Dương lại là một vấn đề như vậy. Những nhà đương cục thường bị cục bộ hạn chế. Gần đây Mỹ, Xô họp hội nghị ở Wasington, Mỹ cũng chuẩn bị hai con đường, nếu Đông Dương không hoà bình được, Mỹ sẽ tiến hành can thiệp. Từ điểm đó cho thấy, chúng ta còn chưa có khả năng ngay lập tức được cả Đông Dương.
Chu Ân Lai đề xuất, nếu như tại Việt Nam lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến ; Lào, Campuchia trung lập, cô lập Bảo Đại, hai năm sau do LHQ giám sát bầu cử, ĐLĐ có khả năng thành công trong bầu cử. Làm tốt công tác, có khả năng giành được cả Việt Nam, xu thế này có thể khẳng định. Vì thế hiện nay chỉ có một nhiệm vụ, đó là tranh thủ Đông Dương hoà bình, dùng phương thức hoà bình giành được cả Việt Nam, tiến hành cạnh tranh hoà bình, khiến tình hình thế giới phát sinh thay đổi có lợi cho chúng ta.
8 giờ tối, cử hành phiên họp lần thứ ba. Chu Ân Lai đã phát biểu dài về đề tài “ Vấn đề chiến tranh và hoà bình ”. Tư tưởng trung tâm của bài nói là, phải toàn lực tranh thủ giải quyết hoà bình vấn đề Đông Dương. Nếu không làm được điểm này, cuộc chiến Đông Dương có nguy cơ mở rộng. Nếu như vậy là nguy hiểm, sẽ phải trả giá nặng nề.
Ông chỉ ra, áp dụng mô hình Triều Tiên vào vấn đề Việt Nam, vạch ra một giới tuyến tạm thời, xem ra phải cắt miền Nam, miền Nam tạm thời không có lợi. Nhưng có thể chờ đợi bầu cử, và có thể giành thắng lợi trong bầu cử. Vấn đề là phải nhìn về lâu dài, nếu Mỹ tiến hành can thiệp thì có khả năng mọi cái đều mất hết. Nếu Mỹ xây căn cứ ở Xiêng Khoảng, Bảo Đại ngả vào lòng Mỹ thì miền Nam Việt Nam cũng sẽ chịu ảnh hưởng, thậm chí bị tàn phá. Cho nên phải xem xét vấn đề từ trong thay đổi và phát triển. Dù cho không thay đổi, tiếp tục đánh cũng phải 3 năm. Nếu Mỹ tiến hành can thiệp thì khu Đỏ sẽ biến thành Trắng. Kinh nghiệm của Trung Quốc về mặt này quá nhiều. Hồng quân công nông Trung Quốc khi trường chinh đã từng để lại [ở khu Xô viết Giang Tây] mấy ngàn người địa phương, sau này không còn ai.
Nếu như theo phương châm của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tranh thủ Đông Dương hoà bình vạch đường giới tuyến, đối với Việt Nam mà nói, đã có thể củng cố được địa phương, vùng giải phóng có 12, 13 triệu dân, so với Bắc Triều Tiên còn nhiều hơn, lại có cửa biển, có thể thành một cục diện ở Đông Nam Á. Tương lai khi Trung Quốc và Việt Nam sửa thông đường sắt, cho dù miền Nam Việt Nam nhất thời chưa thể tuyển cử, chúng ta vẫn có thể ảnh hưởng tới nó. Lào, Campuchia cho dù có lạc hậu một chút thì vẫn tốt hơn là biến thành căn cứ của Mỹ.
Lật ngược lại vấn đề mà nói, nếu tình hình Đông Dương bước đầu không lợi, nếu Mỹ can thiệp, trước tiên Đông Dương sẽ bị tàn phá. Có khi một địa phương chậm giải phóng, nhưng lại có lợi cho toàn cục, cho nên có khi phải biết chờ đợi một chút. Phải căn cứ vào khả năng mà làm việc. Điểm này phải nói cho rõ. Trung Quốc đã có ví dụ như vậy, chúng tôi rút khỏi vùng đã chiếm, như Đại Biệt sơn, Đông Giang, Quảng Đông v.v… Chúng tôi rút đi, cách một, hai năm hoặc bốn năm, rồi chúng tôi lại trở lại. Phải nói rõ cho cán bộ, đại bộ phận cán bộ sẽ rút đi, để lại một bộ phận cán bộ, tương lai sẽ tốt. Cũng nên nói rõ với dân chúng, sau này không nên oán trách. Nên nói rõ với uỷ viên Trung ương, cán bộ cao cấp, cán bộ trung cấp và cấp dưới, thuyết minh nếu đánh nhau nữa, về quân sự không thể giành được cả Việt Nam, mà lợi ích trước mắt cũng không thể giữ nổi. Còn nếu sử dụng phương thức hoà bình thì có khả năng giành được cả Việt Nam, nhưng cũng không phải là nói nhất định giành được, phải xem sự phát triển.
Chiến dịch Điện Biên Phủ chứng minh chúng ta đang có sự thay đổi về chất, mặc dù còn chưa thể nói rằng chúng ta có thể giành được thắng lợi trên toàn Việt Nam. Thế nhưng chiến dịch này đã làm quân địch kinh hoàng tỉnh ngộ, thúc đẩy nó hạ quyết tâm can thiệp. Nhưng phương pháp can thiệp của kẻ địch có khó khăn. Kẻ địch sợ Trung Quốc “ bành trướng ” cho nên không muốn để một nuớc Việt Nam giành được thắng lợi quy mô lớn. Vì vậy, muốn dựa vào thắng lợi quân sự để giành được toàn Việt Nam, xét từ mặt nào cũng đều không có khả năng. Nhưng tồn tại khả năng hoà bình thì giành được toàn Việt Nam. Thế nhưng giành được vào lúc nào phải có bước đi. Đường số 9 hiện nay dường như không có vấn đề, chúng ta có thể bảo trì. Cảng Đà Nẵng có thể suy tính để cho nước Pháp một, hai năm, cũng có thể coi là một biện pháp. Vĩ tuyến 16 trở ra bắc là nơi Việt Nam hưng quốc, có 13 triệu dân, có thể xây dựng, có cảnh biển lại có thể sửa chữa đường sắt, cán bộ cũng có thể ra nước ngoài huấn luyện quân sự, chí ít có thể tăng cường vũ trang đã có, tương lai lưu lại ở vùng du kích làm công tác.
Vấn đề Đông Dương cần tham chiếu tình hình Triều Tiên. Bầu cử ở Triều Tiên cần hai bên hiệp thương, chế định biện pháp bầu cử. Hiệp thương hai bên Triều Tiên làm không tốt, Việt Nam cũng sẽ không thành, nói chung cần một, hai năm phát triển tình hình.
Chu Ân Lai chỉ ra thêm, hoà bình có thể làm tăng thêm mâu thuẫn Pháp, Mỹ, thậm chí Mendès-France cũng đã nói, nếu như không thể hoà bình chỉ có quốc tế hoá, nếu như Mendès-France thất bại, Đảng Cộng hoà Nhân dân hoặc Đảng Xã hội lên cầm quyền đều không có lợi đối với vấn đề Đông Dương.
Còn về điều kiện ngừng bắn tại Việt Nam, Chu Ân Lai chỉ ra, sau khi lên cầm quyền, Mendès-France tranh lấy Hải Phòng. Trong điều kiện ngừng bắn làm tốt, cuối cùng có thể lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến. Vạn nhất còn chưa được có thể tính tới việc lấy đường Chín làm giới tuyến. Cảng Đà Nẵng, Thuận Hoá [Huế] có thể coi là đặc biệt lưu lại cho Pháp một, hai năm, như thế chúng ta có thể đòi các điều kiện khác.
Điều kiện ngừng bắn ở Đông Dương là : một, ngừng bắn đồng thời ; hai, vạch vùng ; ba, không đưa vào quân đội mới và vũ khí đạn dược. Như vậy có thể bịt chặt Mỹ. Trước khi ngừng bắn, quân đội Việt Nam còn cần bao nhiêu vũ khí, chúng tôi có thể vận chuyển trước, sau đó trong nửa năm không vận chuyển vào bất kỳ vũ khí nào. Đề nghị các đồng chí làm một kế hoạch để tiện vận chuyển vào. Có thể vận chuyển vào những thứ mà mười sư đoàn bộ binh cần thiết.
Về vấn đề bầu cử. Khi thuyết minh với cán bộ và nhân dân, không nên nói bầu cử rất dễ, vấn đề này phải trải qua đấu tranh lâu dài. Tất nhiên Đông Dương không thể chia ra mà cai trị lâu dài.
Hội nghị ngày hôm ấy chia ra làm ba đoạn sáng, chiều và tối. Giữa hè nóng bức, lúc này còn chưa có điều hoà không khí, ngồi ở trong phòng mồ hôi ra như tắm. Do quá nóng bức, Hồ Chí Minh quấn khăn ướt lên đầu để giảm nhiệt, Chu Ân Lai vẫn quần áo chỉnh tề.
Để họp tốt Hội nghị Liễu Châu, Phòng Giao tế Quảng Tây đã cử tới những nhân viên đắc lực. Khương Chấn Kiệt, người phụ trách các phòng đại biểu Việt Nam vốn theo Dã chiến quân thứ tư từ Đông Bắc đánh xuống Quảng Tây, sau khi vào thành phố được cử làm công tác tiếp đón. Mấy năm qua, bà đã trở thành một cán bộ đón tiếp có kinh nghiệm. Hôm đó Hồ Chí Minh đi họp, Khương Chấn Kiệt tới phòng ngủ của Hồ Chí Minh kiểm tra vệ sinh, phát hiện thấy trên nền nhà có một mảnh vải. Suy nghĩ một lúc bà cũng không biết là dùng để làm gì, hay là Hồ Chí Minh đã dùng để buộc cái gì vậy ? Rồi bà thuận tay vứt vào một hộp giấy.
Ai ngờ sau cuộc họp, khi về đến phòng Hồ Chí Minh lập tức tìm người phục vụ hỏi : “ Cái thắt lưng của tôi đâu rồi ? ” Các nhân viên phục vụ đều nói không thấy, rồi báo cáo lên Khương Chấn Kiệt. Và điều này đã làm Khương Chấn Kiệt nghĩ ra, bà tới phòng Hồ Chí Minh, từ thùng giấy nhặt mảnh vải lên, hỏi Hồ Chí Minh : “ Có phải mảnh vải này không ạ ? ” Hồ Chí Minh gật đầu nói phải, đại khái là đặt vào lưng ghế tựa rồi bị rơi xuống đất, còn nói nó là cái ông cần dùng. Khương Chấn Kiệt nói một cách cảm khái : “ Hồ Chủ tịch, người thật gian khổ, giản dị vậy ! ”8
Vào hạ tuần tháng 6, bốn sư đoàn chủ lực quân đội Việt Nam hoàn thành chiến dịch Điện Biên Phủ đã về tới vùng tập kết ở tây bắc Hà Nội 80 km. Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng quân đội [Nhân dân] Việt Nam chỉ huy một bộ phận nhỏ sư đoàn 320 thâm nhập vào nơi chỉ cách Hà Nội 15 km. Để cố giữ chặt đồng bằng sông Hồng, Mỹ cho máy bay vận tải chở tới một trung đoàn 2.100 quân từ Bắc Phi, đến lúc này đã lộ rõ đó chỉ là đem muối bỏ biển, chẳng được tích sự gì. Chiến trường Việt Nam tiếp tục xảy ra những thay đổi có lợi cho quân đội Việt Nam.
Ngày 24 tháng 6, Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh chiếm thị xã An Khê trên đường quốc lộ 19 tại Trung bộ Việt Nam, một bộ phận Trung đoàn cơ động số 100 của Pháp rút từ An Khê về Pleiku, giữa đường bị Quân đội Nhân dân Việt Nam tập kích. Trong trận đánh này binh lực hai bên Việt, Pháp hầu như bằng nhau, binh lực của Việt Nam không nhiều hơn bao nhiêu, hai bên hoàn toàn có thể đánh nhau. Nhưng quân Pháp không còn sĩ khí, thần hồn nát thần tính, hoảng hốt sợ hãi vừa đánh đã thua, hơn 1.000 quân hầu như bị tiêu diệt toàn bộ. Qua trận đánh này quân đội Việt Nam hoàn toàn chiếm quyền chủ động trên chiến trường miền Trung Việt Nam.
Từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 6, tại miền Bắc Việt Nam quân Pháp rút bỏ năm huyện lỵ, hơn 60 cứ điểm, trong đó có thủ phủ hai tỉnh Ninh Bình và Thái Bình. Ngày 3 tháng 7 quân Pháp lại rút khỏi một thủ phủ tỉnh. Khi quân đội Pháp rút lui, quân đội Việt Nam tiến hành tấn công, quân Pháp tổn thất trên một ngàn người.
Trước tình hình này, dù đang ở Liễu Châu, nhưng Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh đều rất quan tâm chú ý.
Phiên họp thứ tư của Hội nghị Liễu Châu họp vào sáng ngày 4 tháng 7, do Chương Văn Tấn ghi chép.
Chu Ân Lai nhấn mạnh nói về những vấn đề có liên quan tới việc Việt Nam vạch giới tuyến tạm thời để cai quản. Ông chỉ ra, căn cứ vào mức độ mà hai bên có khả năng tiếp nhận, nói chung cuối cùng đạt được hiệp nghị ở vĩ tuyến 16 mới là tốt. Một bộ phận người lãnh đạo ở nam vĩ tuyến 16 có thể rút lên phần bắc vĩ tuyến 16, nhưng những người lãnh đạo chủ yếu có liên hệ với quần chúng, nói chung phải ở lại, chuẩn bị bầu cử. Công tác công khai và bí mật đều cần người. Nếu có thể tiến hành bầu cử tất nhiên là tốt rồi, còn nếu bầu cử chậm, thậm chí không thể tiến hành vẫn có thể công tác trong quần chúng. Về việc rút khỏi phần nam vĩ tuyến 16, phải thuyết phục quần chúng. Dù có khó khăn cũng phải thuyết phục họ, làm như vậy là vì lợi ích chung.
Về vấn đề Lào và Campuchia, Chu Ân Lai cho rằng, phương châm cần phải khác với Việt Nam. Việt Nam dựa vào sự phấn đấu của mình mà đi lên, mà bản chất là chủ nghĩa dân chủ mới. Nhưng Lào và Campuchia không giống thế, trước mắt chỉ cần họ được tự do, dân chủ, độc lập là tuyệt lắm rồi. Điều quan trọng là làm cho họ không ngả về phía đế quốc, bảo trì được trung lập.
Nhìn lại phía sau, một lần nữa Chu Ân Lai chỉ ra, Hội nghị Genève tám tuần lễ qua, nói chung cho rằng là có thành tích, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cũng cho là như vậy, chủ yếu là do lực lượng ba nước, thêm nữa là tác dụng lãnh đạo của Đoàn đại biểu Liên Xô. Đoàn đại biểu Liên Xô có nhiều kinh nghiệm, không chỉ cần họ nắm về sách lược mà kỹ thuật, văn kiện, cũng phải dựa vào họ. Tất nhiên họ cũng có một số khuyết điểm, có lúc chuẩn bị chưa được tốt, có khi nói quá nhiều, có khi lại nói ít.
Từ sau ngày 20 tháng 6, Ngoại trưởng các nước rời Genève. Ba tuần lễ sau đó, công tác của chúng ta là, tuần lễ thứ nhất làm tốt không khí. Vì vậy tôi đã gặp Mendès-France, cũng gặp Đoàn đại biểu Lào, Campuchia. Tuần lễ thứ hai, cố ý kéo dài ra một chút, thế là nước Pháp đề xuất một phương án về vạch giới tuyến ở Việt Nam, thể là nắm được con bài của ông ta. Tuần lễ thứ ba, cũng tức là hiện nay, chuẩn bị giải quyết một số vấn đề. Như thế là trong tuần lễ thứ ba, cũng có thể có tuần lễ thứ tư cố sức có thể bàn xong vấn đề. Sau đó trong tháng 7 phải họp Hội nghị Ngoại trưởng thông qua vấn đề nguyên tắc và bàn vấn đề chính trị. Hy vọng là Hội nghị Genève không đứt đoạn, đợi đến cuối năm mới họp một lần nữa, như thế thì LHQ không có tác dụng. Đợi sau khi đình chiến mấy tháng họp lại, đem cụ thể hoá vấn đề chính trị, đồng thời do các nước bảo đảm, thẩm tra tình hình đình chiến, cũng có thể suy tính tới việc mở rộng nước bảo đảm. Nếu như thu hút được các nước như Ấn Độ vào thì có chỗ tốt, có thể buộc chặt Mỹ.
Chu Ân Lai nói rất tỉ mỉ, trình bày ý kiến Trung Quốc hy vọng vạch đường phân giới tạm thời tại vĩ tuyến 16 vô cùng rõ ràng. Lúc này quan điểm hai bên về việc có thể đạt thành hiệp nghị tại vĩ tuyến 16 trên thực tế đã được phía Việt Nam tiếp thu. Tiếp đó đã thảo luận một số vấn đề cụ thể.
Chu Ân Lai chỉ ra, về vấn đề ĐLĐ Việt Nam bỏ một số căn cứ địa tại miền Nam, rút quân đội đi không phải là sẽ nộp vũ khí quân không chính quy. Chúng ta có thể giải thích, phàm là đơn vị quân đội đều rút đi, nhưng không rút đi tất cả vũ khí. Vũ khí, thứ nào cất giấu đươc thì cất giấu, cán bộ quân đội ai lưu lại được thì lưu. Cất giấu vũ khí phải phân tán, không được tập trung nhằm tránh rơi vào tay quân địch.
Võ Nguyên Giáp nói, bước đầu chúng tôi dự tính rút khỏi miền Nam khoảng 60.000 người, trong đó 50.000 bộ đội, 10.000 là những người làm công tác chính trị, những người “đỏ” quá phải rút đi. Cũng có tính toán, lưu lại một ít trong số 60.000 người. Ví dụ từ 5.000 đến 10.000 người ở lại miền Nam, chờ thời cơ.
Trong đối thoại liên tục, Chu Ân Lai nói, tình hình trước mắt có ba khả năng, tức là cũng có ba thượng, hạ và trung sách.Thượng sách là hoà được, trung sách là đánh rồi hoà, hạ sách là đánh tiếp. Nếu như tình hình đòi hỏi phải đánh, phương hướng chủ công của các đồng chí là ở đâu ?
Võ Nguyên Giáp nói, nếu chiến tranh mở rộng, chủ trương đánh trước ở đồng bằng sông Hồng, một bộ phận ở Lào và Liên khu Năm có tác dụng kiềm chế.
Chiều ngày hôm đó họp hội nghị lần thứ năm, vẫn Chu Ân Lai là người nói chủ yếu, giới thiệu vấn đề kiểm soát quốc tế một khi ngừng bắn. Sau khi nói xong vấn đề đó, ông kiến nghị, văn kiện về tình hình trước mắt và phương châm chính sách liệu có thể dùng danh nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh thảo luận tại hội nghị Bộ Chính trị ĐLĐ Việt Nam hay không ? Vì hiện nay thời cơ đã đến rồi, thảo luận trước tại Bộ Chính trị, rồi lại thảo luận tại hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương. Sau đó truyền đạt cho các địa phương, nhằm đạt được sự thống nhất tư tưởng chính trị trong cán bộ. Nếu không, qua bước ngoặt này không dễ. Ông chỉ ra, trong Hội nghị Genève, yêu cầu chính của chúng ta có khả năng là như thế này : tại Việt Nam lấy vĩ tuyến 16 vạch đường ranh giới. Tại Lào chúng ta yêu cầu tại Thượng, Trung, Hạ Lào mỗi nơi đều được một mảnh, cuối cùng là tranh thủ được Thượng Lào, còn có khả năng được thêm một mảnh ở Trung Lào. Tại Campuchia có thể yêu cầu vạch vùng tập kết, nhưng không thể có hy vọng tương đối lớn.
Hội nghị đã tới xế chiều, lúc này Hồ Chí Minh, người từ khi hội nghị họp đến nay phát biểu không nhiều, đã phát biểu. Ông nói, trên vấn đề lớn của Hội nghị Genève chúng ta phải giúp Mendès-France một chút, đừng để ông ta bị đổ. Mendès-France đối với hội nghị vẫn là tích cực, nếu đàm phán không thành, ông ta sẽ đổ, không có lợi đối với chúng ta. Phải có quan hệ tốt với Pháp, tranh thủ hoà bình. Mặc dù Hồ Chí Minh nói không nhiều nhưng phân lượng rất nặng, thuyết minh ông đã hạ quyết tâm, tranh thủ triển vọng hoà bình tại Hội nghị Genève.
Hội nghị Liễu Châu họp đến lúc này, lập trường và cách nhìn của hai bên đã điều hoà được.
Tối hôm đó không sắp xếp họp tiếp. Nhưng lãnh đạo hai bên cũng không nghỉ ngơi, Chu Ân Lai báo cáo tiến trình hội nghị với Trung ương, nói rõ, ngoài nói chuyện trong hội nghị ra, còn trao đổi ý kiến riêng với Hồ Chí Minh. Hội nghị Liễu Châu vốn dự định họp hai ngày, bây giờ thấy do liên quan đến phương án giải quyết cụ thể, ngày mai phải họp thêm một ngày nữa, nên phải lùi ngày về Bắc Kinh.
Nói một cách tương đối, các trợ thủ của Chu Ân Lai được thoải mái hơn một chút. Mấy hôm trước khi vừa tới Quảng Châu, đang lúc mùa vải chín, Mã Liệt ăn hơi nhiều, bị đau bụng. Sau khi đến Liễu Châu, Kiều Quán Hoa đã nói đùa với ông : “ Ăn tại Quảng Châu, chết tại Liễu Châu ”. Câu sau chỉ ở Liễu Châu có nhiều gỗ tốt có thể đóng quan tài. Tối hôm đó không có việc, hai người ra đường tìm kiếm. Kết quả chẳng thấy gì. Thì ra vật đổi sao rời, các khu rừng cổ của Liễu Châu đã bị người đời sau chặt hết, môi trường thiên nhiên rất đáng lo, nghề đóng quan tài đã mất từ lâu rồi.9
Đúng vào ngày hôm đó, 9 giờ sáng ngày 4 tháng 7, trên chiến trường miền Bắc Việt Nam, căn cứ vào [thoả thuận tại] Hội nghị Genève, đại biểu hai quân đội Việt, Pháp đã tiến hành hội đàm tại một địa điểm tên là Trung Giã, nằm trên đường quốc lộ số 3 cách thị xã Thái Nguyên 30 km về phía nam. Hai bên cử đoàn đại biểu mỗi bên đều gồm năm sĩ quan,, thiếu tướng Văn Tiến Dũng đại biểu Quân đội Nhân dân Việt Nam và đại tá [Marcel] Lennuyeux, đại biểu quân đội Pháp đều phát ngôn. Hai bên quyết định, trong khuôn khổ của hiệp nghị Genève thảo luận:
- Trong khuôn khổ hiệp nghị Genève thảo luận vấn đề tù binh.
- Vấn đề thực hiện ngừng bắn.
- Vấn đề điều chỉnh vùng tập kết.
- Vấn đề hai bên thành lập Uỷ ban Liên hiệp.
- Giải quyết những vấn đề cụ thể do Hội nghị Genève nêu ra.
Ngày 5 tháng 7, hai bên đạt được vấn đề trao trả trước tù binh bị thương, bị ốm, quyết định loạt tù binh bị thương, bị ốm đầu tiên sẽ được trao trả vào ngày 14 tháng 7.
Thế nhưng đàm phán trên chiến trường Việt Nam chỉ có thể tiến hành trong khuôn khổ hiệp định Genève qui định. Lúc này cuộc hội đàm Văn Tiến Dũng – Lennuyeux vừa cử hành đã phải dừng lại chờ Hội nghị Genève phát triển hơn nữa. Vì thế, giới hạn đàm phán cuối cùng của mặt trận phương Đông phải dựa vào Hội nghị Liễu Châu để xác định.
Sáng ngày 5 tháng 7 cử hành phiên họp thứ sáu Hội nghị Liễu Châu, Mã Mục Minh ghi chép. Hôm ấy, Hồ Chí Minh đề xuất với Chu Ân Lai nhiều vấn đề, bao gồm trong hiệp nghị sắp tới liệu có trình bầy lý luận hay không, xử lý ngụy quân như thế nào v.v.. Võ Nguyên Giáp cũng biểu thị với Chu Ân Lai đồng ý phương án vĩ tuyến 16, nhưng ông lại nói, hiện nay Phạm Văn Đồng đang đề xuất phương án vĩ tuyến 13 hoặc vĩ tuyến 14. Võ Nguyên Giáp cho rằng có thể lùi từng bước, nhưng đến vĩ tuyến 16 là giới hạn cuối cùng. Vì vậy yêu cầu đề xuất đối ngoại hiện nay có thể từ vĩ tuyến 13 đến vĩ tuyến 14.
Chu Ân Lai đồng ý với Võ Nguyên Giáp.
Hồ Chí Minh nói, nếu lấy vĩ tuyến 16 làm giới hạn thì cả Vịnh Bắc bộ thuộc về chúng ta.
Võ Nguyên Giáp còn đề xuất không ít ý kiến sửa chữa đối với những soạn thảo trong dự thảo hiệp nghị, cho thấy rõ ông suy xét vấn đề chặt chẽ tỉ mỉ. Nhiều chỗ, Chu Ân Lai biểu thị đồng ý, đồng thời yêu cầu Kiều Quán Hoa căn cứ vào ý kiến nhất trí của mọi người sửa chữa phương án.
Võ Nguyên Giáp còn đề xuất ý tưởng, khi rút quân khỏi miền Nam, các vùng từ cấp tỉnh trở lên, đơn vị từ cấp đại đội trở lên, đều rút ; nhưng từ cấp huyện trở xuống và đội du kích thôn không rút, đem cất giấu vũ khí, để lại phục vụ cho việc tranh giành miền Nam sau này.
Tại phiên họp thứ 7 buổi chiều hôm đó, Chu Ân Lai nhấn mạnh, nhất định cần phải giải thích nhiều lần cho cán bộ : “ trải qua bầu cử, đạt được thống nhất ”. Ở đây có hai hàm nghĩa, thứ nhất là nói, cán bộ có cố gắng công tác thì mới có thể giành được thắng lợi bầu cử. Thứ hai là nói, phải tạo thành cục diện bầu cử, tạo thành xu thế không bầu cử không được. Đặc điểm của Việt Nam là, bất kể là Anh, Pháp, Bảo Đại đều không dám phản đối thống nhất. Về phương diện này, điều kiện của Việt Nam tốt hơn so với Triều Tiên, Đức.
Võ Nguyên Giáp nói, phải thống nhất tư tưởng trong Đảng. Tháng 7 có thể họp hội nghị Trung ương. Khó khăn là đại biểu miền Nam không dễ dàng đến được, mà truyền đạt cho miền Nam rất khó khăn.
Chu Ân Lai nói, hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay đúng là vô cùng phức tạp, có sự khác biệt giữa vùng cũ, vùng mới, có sự khác biệt giữa thành thị, nông thôn, có sự khác biệt trong Đảng ngoài đảng, có sự khác biệt giữa miền Nam, miền Bắc, có sự khác biệt giữa ba nước, lại còn sự khác biệt với các nước khác. Quan hệ của sáu loại khác biệt này vô cùng tế nhị. Khi đạt được hiệp nghị, nhất định phải đồng thời tuyên bố các nguyên tắc cơ bản. Những nguyên tắc này là, nước Pháp công nhận nền độc lập, thống nhất của ba nước Đông Dương cũng như nước Pháp rút quân, tiến hành bầu cử v.v..
Vi Quốc Thanh phát biểu tiếp, biểu thị ủng hộ những ý kiến của Chu Ân Lai. Trung tâm tư tưởng của những phát biểu của Vi Quốc Thanh là nắm chắc thời cơ có lợi, chấm dứt chiến tranh vào lúc có thể chấm dứt được. “ Nếu tiếp tục đánh, có thể đuổi được kẻ địch yếu [Pháp] nhưng lại đưa vào kẻ địch mạnh [Mỹ]. Đó là tình hình, đòi hỏi chúng ta phải tránh né nhất.” Lúc này Chu Ân Lai nói xen vào : “ Đó không phải là giả thiết mà là sự thực. ”
Vi Quốc Thanh còn đề xuất, nếu khi đàm phán không đạt được dự án của hiệp nghị, nếu “hoà” không đến thì vào tháng 10 sẽ chuẩn bị đánh đồng bằng sông Hồng.
Vào lúc hội nghị gần kết thúc, Võ Nguyên Giáp phát biểu, nói “ trước đây được nghe Hồ Chủ tịch truyền đạt, [bây giờ] lại được [nghe] Chu Thủ tướng báo cáo, càng hiểu thêm tình hình mới và nhiệm vụ mới. Vấn đề trung tâm trước mắt là tranh thủ thống nhất tư tưởng trong Đảng. Mặc dù có khó khăn, nhưng lòng tin được nâng cao. Nếu Trung ương truyền đạt chính sách này xuống dưới, lòng tin của bên dưới càng nâng cao. Ở Lào và Campuchia cũng sẽ như thế. Đợi đến lúc đàm phán có kết quả, cán bộ miền Bắc nhìn thấy thắng lợi, tâm tình sẽ thoải mái nhẹ nhõm. Còn cán bộ miền Nam có thể xuất hiện tâm tình bi quan. Campuchia và Lào cũng có thể có tình hình giống như thế. Tất nhiên, vấn đề này cần phải giải quyết.”
Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến có tính tổng kết. Ông nói : đồng chí Chu Ân Lai không chỉ phấn đấu tại Hội nghị Genève hơn nữa còn đến Liễu Châu báo cáo, nói rất thấu triệt. Chúng tôi rất cám ơn ! Kể từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, 30 năm nay đều được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và đồng chí Chu Ân Lai giúp đỡ. Trong lần hội nghị này, các đồng chí bổ sung rất tốt, tôi đồng ý, còn phải cám ơn các loại giúp đỡ của các đồng chí Quảng Tây. Hiện nay Việt Nam đang đứng trước ngã tư đường, có khả năng hoà cũng có khả năng chiến. Phương hướng chủ yếu là tranh thủ hoà chuẩn bị chiến. Tính phức tạp của công việc đòi hỏi phải có hai loại chuẩn bị. Đối với người bình thường, thậm chí là cán bộ, vấn đề này rất phức tạp. Bởi vì khẩu hiệu trước đây là “ kháng chiến đến cùng ” bây giờ lại muốn hoà, “ rốt cuộc thì cái nào đúng đây ? ” Người ta có thể hỏi như vậy. Tôi đồng ý với cách nhìn của mọi người, vấn đề hàng đầu là đánh thông tư tưởng, tuy khó khăn nhiều, nhưng trước tiên phải dựa vào sự cố gắng của các đồng chí Việt Nam, ngoài ra còn phải dựa vào sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc.
Công tác của Trung ương ĐLĐ Việt Nam là phải đả thông tư tưởng của cán bộ cao cấp, còn phải đả thông tư tưởng các đồng chí Campuchia, Lào, thời gian rất khẩn trương. Vấn đề là cán bộ không nhiều mà công việc lại rất nhiều. Nếu chuẩn bị tiếp thu Hà Nội, Hải Phòng thì phải chuẩn bị một loạt cán bộ, hiện nay lo lắng nhất vẫn là cán bộ không đủ, nói những cái đó vì còn cần các đồng chí cố vấn giúp đỡ.
Hồ Chí Minh nói, tôi thay mặt hội nghị lần này hỏi thăm Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Đến đây Hội nghị Liễu Châu đạt được sự đồng thuận của cả hai bên. Cuối cùng Chu Ân Lai phát biểu, nói : cám ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi thăm Mao Chủ tịch. Kết luận vừa rồi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngoài phần khen ngợi ra, tôi hoàn toàn tiếp nhận. Mỗi chúng ta đều có khuyết điểm sai lầm, chủ yếu là dựa vào lực lượng tập thể.
Tối ngày 5 tháng 7, cử hành phiên họp thứ tám. Thời gian tương đối eo hẹp, chủ yếu thảo luận là một khi thực hiện ngừng bắn, những tình hình mới mà quân đội Việt Nam tiếp quản thành thị sẽ phải đối mặt. Hội nghị thảo luận và sửa chữa bốn điều trong “ Bố cáo yên dân khi vào thành phố ” do La Quí Ba khởi thảo, cũng thảo luận và sửa chữa “ Chính sách vùng tiếp quản” cũng do La Quí Ba khởi thảo. Cuối cùng Chu Ân Lai tuyên bố hội nghị kết thúc.
Trong Hội nghị Liễu Châu, Chu Ân Lai trình bầy thấu triệt, kiên nhẫn giải thích vấn đề đã để lại ấn tượng sâu sắc trong những người tham dự hội nghị. Tình hữu nghị giữa Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh cũng thường xuyên thể hiện ra. Trong tiến trình hội nghị, Chu Ân Lai phát hiện đồng hồ đeo tay của Hồ Chí Minh hỏng, ông bảo La Quí Ba tìm ngay cho Hồ Chủ tịch một chiếc đồng hồ khác. La Quí Ba làm theo, đã mang tới cho Chu Ân Lai một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ rất tốt, Chu Ân Lai đã tặng chiếc đồng hồ đó cho Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không từ chối, nói “cám ơn” rồi đeo vào tay. Theo ấn tượng của La Quí Ba, Hồ Chí Minh đã đeo chiếc đồng hồ đó trong một thời gian rất dài.10
Mã Liệt, sau này là đại sứ Trung Quốc tại Hungari chỉ ra, then chốt của Hội nghị Liễu Châu lần đó là “ vạch giới tuyến ”, vấn đề trung tâm là phải để nước Pháp rời khỏi Đông Dương, đồng thời không để Mỹ can thiệp vào. Đó là suy nghĩ rõ ràng của Chu Ân Lai khi đến Hội nghị Liễu Châu, kết quả đã thực hiện hoàn toàn dự kiến của ông.11
Chiều ngày 6 tháng 7, Chu Ân Lai trở về Bắc Kinh. Ngày 8 tháng 8, Nhân dân Nhật báo đăng “ Tuyên bố về cuộc hội đàm Trung Việt ” tại vị trí trang trọng đầu trang nhất, toàn văn như sau :
“ Thủ tướng nước CHND Trung Hoa Chu Ân Lai và Chủ tịch nước Việt Nam DCCH Hồ Chí Minh đã cử hành hội đàm tại biên giới Trung Việt từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao đổi ý kiến đầy đủ về vấn đề khôi phục hoà bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan khác. Tham gia hội nghị còn có Hoàng Văn Hoan, đại sứ nước Việt Nam DCCH tại Trung Quốc và Kiều Quán Hoa, cố vấn Đoàn đại biểu nước CHND Trung Hoa tại Hội nghị Genève. ”
1 Chu Ân Lai niên phổ : 1949-1976, quyển thượng, sđd, tr. 386.
2 Các con của Trương Tác Lâm, quân phiệt Đông Bắc Trung Quốc. Trương Học Lương nổi tiếng với Sự biến Tây An năm 1936.
3 Chu Ân Lai niên phổ 1949-1976, sđd, tr. 384.
4 Ghi chép của tác giả trong lần phỏng vấn Mã Liệt ngày 28 tháng 9 năm 1995 tại Bắc Kinh. Mã Liệt còn cho biết, tại hội nghị ông ghi chép rất nhiều, nhưng sau khi xem lại, Chu Ân Lai bảo không cần ghi chi tiết quá và cầm bút xoá đi rất nhiều. Đại bộ phận phần xoá bỏ là những điểm bất đồng của hai bên. Do vậy phần lưu trữ của Bộ Ngoại giao và người ghi chép đương thời có khác biệt nhất định.
5 Dân vệ.
6 Về danh nghĩa, thời gian này, Đảng Cộng sản Đông Dương không còn tồn tại nữa mà Đảng Nhân dân Lào và kế nhiệm nó là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào/ Phak Pasason Pativat Lao tới 22/3/1955 mới đại hội lần thứ nhất.
7 Về danh nghĩa, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia (kế tục Đảng Cộng sản Đông Dương) đã thành lập ngày 28/6/1951.
8 Phỏng vấn Hứa Kỳ Tình ngày 9 tháng 6 năm 2004.
9 Phỏng vấn Mã Liệt ngày 29 tháng 5 năm 1998.
10 Phỏng vấn La Quí Ba tại Bắc kinh ngày 18 tháng 4 năm 1990, theo tư liệu La Quí Ba bảo tồn được từ Hội nghị Liễu Châu.
11 Phỏng vấn Mã Liệt tại Bắc Kinh ngày 29 tháng 5 năm 1998.
Nguồn: https://www.diendan.org/dich-thuat/hoi-nghi-lieu-chau-3-5-7-1954
=================//////===============
Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM : Kẻ Sĩ Cuối Cùng (Phần 1)
Bài viết của Phạm Phong Dinh
“Tôi tiến, hãy theo tôi;
tôi lùi, hãy bắn tôi;
tôi chết, hãy trả thù cho tôi. (câu này đúng ra phải là “Tôi chết, hãy nối chí tôi !”)
Tôi không phải là thần thánh,
tôi chỉ là một người bình thường,
tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc,
một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc.
Ngô Đình Diệm
Đó là những lời tâm huyết, mà cũng là những lời trốitrăn đầy máu và lệ của một chiến sĩ quốc gia : Tổng Thống Ngô Đình Diệm, còn để lại cho những thế hệ đời sau, trước khi người từ giã đồng bào đi về phía Cõi Vĩnh Hằng. Mỗi năm đến ngày 1.11 cái chết của người vẫn như một vết thương còn mưng mủ, lại vỡ toác ra trong trái tim ứa máu của mỗi chúng ta nỗi ngậm ngùi tiếc thương. Hình ảnh Tổng Thống Diệm mặt đẫm đầy máu, vì bị bắn từ phía sau ót, hai tay bị trói quặt về phía sau, nằm co người trong lòng chiếc thiết vận xa M113 oan nghiệt, vẫn luôn là một cơn ác mộng chập chờn hiện về trong cõi ký ức của những người còn nhớ đến ông, tri ân ông như là một anh hùng dân tộc, mà đã dẹp tan loạn sứ quân Miền Nam sau lần chia cắt đất nước tháng 7.1954, trần ai khổ ải giành lại độc lập cho đồng bào ông từ tay thực dân Pháp. Chỉ với hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng son sắt, ông đã tống khứ được đạo quân viễn chinh 150,000 quân Pháp vĩnh viễn ra khỏi Việt Nam. Trên hết tất cả, là một con người phi thường đứng mũi chịu sào ngăn chống hai mặt trận lớn : sự kiêu ngạo ngu xuẩn của bạn đồng minh và sự hung hãn khát máu của giặc Cộng Sản.
Tổng Thống Diệm có gì trong tay để đối đầu với hai chiến trường nặng độ đó ? Ngay cả lực lượng bảo vệ trong những năm đầu làm tổng thống của ông cũng không có, đến nỗi tổng thống Phi Luật Tân Magsaysay phải gửi chuyên viên quân sự sang giúp thành lập và huấn luyện Tiểu Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống hỗ trợ cho người bạn cô đơn của mình. Một căn phòng làm việc nhỏ với một chiếc bàn gỗ cũ, vài cái ghế nghèo nàn để tiếp khách, một chiếc phản không nệm cùng một chiếc mùng nhỏ trong một căn phòng ngủ không có máy lạnh, chỉ có một chiếc quạt trần. Còn gì nữa cho những giờ phút thư thả sau một ngày làm việc căng thẳng. Trời ơi, chỉ có một gói thuốc lá đen hiệu Bastos rẻ tiền trong chiếc túi áo vải đã sờn. Ăn uống thì kham khổ như một nhà tu, buổi sáng chỉ là một tô hủ tiếu hay mì, buổi ăn chiều chỉ gồm có một dĩa cá kho và một tô canh rau hay đậu. Thế còn những giấc ngủ hằng đêm đã được người thu xếp như thế nào ? Người đi ngủ, thường thường lúc 1 giờ khuya và thức dậy lúc 5 giờ sáng ngày hôm sau,nghĩa là chỉ có 4 tiếng đồng hồ chợp mắt, mà chưa hẳn ông đã được ngủ ngon trong bối cảnh một quốc gia hãy còn quá nhiều công việc bề bộn, mà cái nào cũng hết sức cấp bách. Kết quả của sự hy sinh và đức tính khiêm cung cần kiệm ấy ? Hàng ngàn trường học, nhà thương trên khắp nẻo đường đất nước được xây dựng,hàng ngàn đền miếu, chùa chiền, nhà thờ, thánh thất hân hoan vươn mình lên phía trời xanh, hàng triệu mẫu ruộng phơi phới màu xanh của lúa, hàng triệu đồng bào di cư từ Miền Bắc có công ăn việc làm và đang tiến đến lằn ranh của sự giàu có thịnh vượng. Người đã xây dựng những quân trường tối tân nhất Đông Nam Á để đào tạo nhân tài lãnh đạo và bảo vệ nước Nam, nền kỹ nghệ được mở mang với những ống khói của hàng hàng lớp lớp nhà máy cuồn cuộn những khối mây đen tỏa rộng lên không gian, vực dậy sức sống của một đất nước nghèo nàn sau cơn chiến tranh.
Còn nhiều nữa những kỳ công của một con người khiêm tốn tự nhận mình là bình thường không thể kể ra hết, để đem nước Việt Nam Cộng Hòa ngẩng cao đầu trên trường thế giới, trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất Đông Nam Á thập niên 1950 – 1960. Tất cả những công lao to lớn ấy đã rất hiếm khi được một nhà viết sử thế giới phương Tây và Hoa Kỳ nào liệt kê ra để vinh danh TổngThống Diệm. Trái lại, những kẻ gọi là những nhà viết sử vô tư và khách quan đó, đã tỉ mỉ dùng kính khuếch đại rọi vào từng ngóc ngách khiếm khuyết của một chính quyền non trẻ thiếu thốn nhân lực, kinh nghiệm và cực nghèo nàn, hả hê một cách độc ác trưng lên từng trang sách những : “sự thật” về một chính thể “độc tài”, một chính quyền “tham nhũng”, một bộ máy “thối nát”, để che dấu và biện minh cho sự bất lực, hèn nhát, ngu dốt, đểu cáng, sát nhân và cuối cùng là sự tháo chạy của một cường quốc kiêu ngạo.
Tất cả những sự thất bại trên đất nước Việt Nam đều đượctàn nhẫn trút lên đầu quân và dân Việt Nam Cộng Hòa, biểu lộ cái hèn của một gã người lớn ăn trộm bị bắt quả tang nhưng cãi chầy cãi cối đổ tội cho một đứa trẻđói khát đang đứng ngơ ngác bên đường. Đó là cung cách viết sử của thế giới phương Tây và Hoa Kỳ, ngoại trừ một vài tiếng vang vọng lương tâm của những tácphẩm và con người còn biết tôn trọng lẽ phải cùng sự thật, nhưng hãy còn quáít. Đối với bạn thì độc ác như thế, còn đối với thù thì sao ?
Để biện minh chosự thất bại của mình, những nhà viết sử Pháp và Mỹ đã phải cực lực nâng đối thủ lên hàng siêu đẳng và huyền thoại. Rằng tướng A, tướng B đó chúng nó quá giỏi,rằng ông già râu đó là một trong 100 khuôn mặt lớn của thế giới, chúng tôi thualà phải, cái thua của chúng tôi là vô cùng … xứng đáng ! Nhưng họ không hề baogiờ viết lại cho hậu thế cùng biết rằng, gã râu xồm ấy, cũng những tướng A, tướngB đó của kẻ thù, đã từng nhiều lần là bại tướng nhục nhã dưới tay những tướngC, tướng D của một đất nước có tên là Việt Nam Cộng Hòa và một quân đội có tênlà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những cuốn sử đầy thành kiến và thiên lệch đó vẽra hình ảnh một ông vua ngồi ngất ngưởng trên ngai vàng, thỏa mãn với sự tunghô cúc cung tận tụy của bọn nịnh thần vô lại, phẩy tay một cái là bắt nhốt ngườinày, bỏ tù người kia. Nhưng trong thực tế, Tổng Thống Diệm là một con ngườisiêng năng, ông thường ít ngồi trong văn phòng làm việc, mà rất thường xuyên đithăm hỏi dân tình trên khắp nẻo đường đất nước. Rất hiếm một cuốn sách nào kể lạisự việc người thanh niên tên Hà Văn Trí đã dùng súng ám sát Tổng Thống Ngô ĐìnhDiệm, khi ông lên kinh lý Ban Mê Thuột trong nâm 1961. Thật may mắn, viên đạnchỉ bắn bị thương một vị bộ trưởng tháp tùng. Với cái tội tầy trời đó, anh Tríchỉ phải ngồi tù có 2 năm rồi được phóng thích. Chúng ta thách các nhà viết sửMỹ nào tìm được một sự kiện tương tự với một bản án khá hơn ở bất cứ quốc gianào. Hay ít cuốn sách nào tiết lộ việc Tổng Thống Diệm dùng ngân quỹ nghèo nàncủa quốc gia, hoan hỉ giúp xây dựng nên những ngôi chùa bề thế, uy nghi Xá Lợi,Vĩnh Nghiêm, Ấn Quang, Viện Hóa Đạo, thánh thất Cao Đài, v.v.. từ năm 1956 trởđi.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm sinh ngày 3.1.1901 ở làng ĐạiPhong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông là người con thứ ba trong một giađình qúy tộc nề nếp, nhiều đời làm quan trong triều đình nhà Nguyễn, và tronggiòng họ theo đạo Công giáo từ đầu thế kỷ thứ 17. Ông có hai người anh là NgôĐình Khôi và Ngô Đình Thục, các em trai là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô ĐìnhLuyện và hai em gái. Không ít người mang họ Ngô đã là những thánh tử đạo trongnhững cuộc bách hại người theo đạo Kitô của triều đình nhà Nguyễn, nhất là dướithời vua Minh Mạng. Theo tài liệu của các sử gia Mỹ, ông James S. Olson vàRandy Roberts trong quyển Where The Domino Fell, thì giòng họ Ngô là hậu duệ củaNgô Quyền, người anh hùng Nước Nam đã kiêu dũng giành lại được nền độc lập chodân tộc Việt Nam năm 939 từ xâm lược Bắc phương. Có phải chăng giòng máu anhhùng ấy sau một ngàn năm chảy luân lưu trong nhiều thế hệ, định mệnh đã chọn cậubé Ngô Đình Diệm tiếp nối con đường dựng nước và giữ nước của cha ông, là giànhlại độc lập từ xâm lược Bắc phương và Tây phương. Một công việc cao cả nhưng nặngoằn như núi Thái Sơn chất chồng trên vai, đòi hỏi con người ấy phải là một conngười kiệt xuất có ý chí bằng thép và trái tim yêu nước nồng nàn.
Thân phụ của ông Ngô Đình Diệm là cụ Ngô Đình Khả, làmquan triều vua Thành Thái (1889 – 1907). Trong những năm 1880, cụ Khả được giađình gởi sang Mã Lai Á học làm linh mục. Nhưng ở quê nhà đã xảy ra một cuộc náoloạn bách hại người Công giáo của những người theo đạo giáo khác, gia đình cụKhả gần như bị tuyệt diệt. Được tin chẳng lành cụ Khả bỏ học trở về Việt Nam, đểchỉ ngậm ngùi đau xót trước cái chết bi thảm của ông bà, cha mẹ, anh chị em,chú bác cùng thân nhân. Là một thanh niên có học thức, nói tiếng Pháp lưu loát,nên chẳng mấy chốc mà cụ Khả đã rất thành công trong chốn quan trường, dần dầnđược thăng lên đến chức Phụ Chính Đại Thần trong triều đình Huế. Người vợ lớn cụKhả mất sớm, bà cụ Khả là người vợ sau sinh cho ông chín người con, trong đó cóbảy trai. Cụ Khả đã khẳng khái phản đối thực dân Pháp bắt vua Thành Thái đi đàyở đảo Reunion, sau sự thất bại của cuộc binh biến Thành Mang Cá Huế năm 1885,và đã cởi áo từ quan. Để ngợi ca hành động trung quân ấy, trong dân gian truyềntụng câu vè : Đày Vua Không Khả, Đào Mả Không Bài. Thượng Thư Bộ Lại, ông NguyễnHữu Bài, bạn đồng liêu thân thiết với cụ Khả và gia đình nhà Ngô cũng đã đi vàolịch sử với hành động phản kháng thực dân Pháp hỗn láo muốn xúc phạm đến lăng tẫmnhà Nguyễn.
Lớn lên trong một gia đình thuần thành, ngoan đạo dựatrên nền tảng đức tin tuyệt đối cùng hạnh bác ái vị tha, được cụ thân sinh huntúc cho một nền học vấn dựa trên những nguyên tắc sĩ khí của Khổng giáo, TamCương, Ngũ Thường, Trung Quân và Ái Quốc, cậu bé Ngô Đình Diệm đã sớm tỏ ra làmột nhân vật lạ thường so với những đứa trẻ cùng hạng tuổi. Trong lúc bọn trẻ tụtập chơi đùa ngoài đường phố, thì cậu bé Diệm chỉ mải mê với sách vở, bởi cậumuốn khám phá thế giới kỳ diệu của văn chương, triết học và tôn giáo. Tuy sinhtrưởng trong một gia đình quyền quý, nhưng người trai trẻ Ngô Đình Diệm luônyêu mến giới cần lao chân lấm tay bùn. Có nhiều dịp gần gũi với lớp người này,trong đầu cậu bé đã hình thành một khái niệm về nỗi khổ của giới cần lao và cáinhục của những người mất nước : Làm sao nâng đỡ họ, tạo cho họ một đời sống xứngđáng, tự do hơn. Đó là cái nền tảng thúc đẩy cậu bé Diệm trở thành một con ngườidấn thân làm cách mạng tranh đấu giành độc lập cho xứ sở, kiến tạo một xã hộithịnh vượng cho dân tộc của cậu.
Đến tuổi đi học, cậu Diệm được cụ Khả cho vào Trường QuốcHọc Huế. Trong thời gian này, cậu học trò nhỏ ấy có dịp quen biết với một ngươihọc trò lớn hơn cậu đến mười tuổi, là cậu Nguyễn Sinh Cung, sau này đã đổi tênthành Hồ Chí Minh. Định mệnh đã khiến xui hai đối thủ chính trị gặp gỡ sớm, ngườinày biết rõ cá tính người kia và cùng kính trọng lẫn nhau, dẫu quan niệm vàphương cách đấu tranh khác biệt. Là một con người ngổ ngáo, quỉ quyệt và hung tợn,Hồ đã từng giết anh Cả của ông Diệm là Ngô Đình Khôi, sát hại Huỳnh Giáo Chủ củaPhật Giáo Hòa Hảo, nhiều chí sĩ khác như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, điềm chỉcụ Phan Bội Châu cho Pháp bắt. Nhưng khi ông Diệm bị quân Việt Minh bắt giao nộpcho Hồ trong năm 1946, thì Hồ đã không dám sát hại ông, chỉ giam lỏng. Thật maymắn, ông Diệm đã tìm cách trốn thoát được. Hồ Chí Minh không làm gì được ông Diệm,vì hắn vừa mới ký xong Hiệp Định Sơ Bộ ngày 6.3.1946, trong đó có điều khoản bảovệ người quốc gia do phía Pháp đưa ra. Chẳng những thế mà vài thập niên sau, nhậnthấy mình thua kém xa người bạn trường cũ về đạo đức, tác phong, cuộc sốngthánh thiện không chút tì vết, Hồ đã viết sách “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện” cangợi nâng bi lấy bản thân với bút hiệu Trần Dân Tiên, cho bọn văn nô đàn em thổiphồng Hồ lên ngang tầm với ông Diệm về mọi mặt. Ông Diệm sống cuộc đời độcthân, thì Hồ cũng xê li ba te (celibataire, không có vợ) hách xì xằng như ai.Ông Diệm hút thuốc Bastos, thì Hồ cũng ti toe hút thuốc thơm đầu lọc, có lẽ hútthuốc lá đen khét quá chịu không thấu. Cụ Diệm sống trong một căn phòng nhỏ đơnsơ, thì Hồ cũng cho thợ mộc cất cho Hồ một căn nhà toàn gỗ quý chở từ miền rừngthượng du về, chứ không chịu ở trong dinh Toàn Quyền cũ.
Năm 15 tuổi cậu Diệm có ý định theo ngành linh mục,nhưng ông anh là Ngô Đình Thục đã khuyên ngăn cậu, rằng cậu không thích hợp vớicông việc này, ông nhìn thấy trước một cái gì đó lớn lao cao cả hơn ngoài trầnthế đang chờ đợi cậu em. Con người thích hợp với việc đạo, chăn dắt con chiênchính là ông Thục, chứ không ai khác trong gia đình. Cậu Diệm nghe lời anh,nhưng thề hiến dâng linh hồn cho Chúa Trời, bằng cách nguyện sống đời độc thânvĩnh viễn. Năm 16 tuổi cậu Diệm tốt nghiệp Cao Đẳng Tiểu Học (tương đương bằngTrung Hoc Đệ Nhất Cấp) và trúng tuyển vào Trường Hậu Bổ Quốc Gia Huế (tương tựCao Đẳng Quốc Gia Hành Chánh sau này). Khi nghe tin chàng thanh niên Ngô ĐìnhDiệm đang học trong trường nhà nước, Hồ ở Pháp xốn xang sốt ruột quá, bèn gởiđơn xin triều đình Pháp cho Hồ vào trường Thuộc Địa Pháp, nhưng không được chấpthuận. Người Pháp đã bỏ lỡ một cơ hội đào tạo một loại hàng thần mẫn cán nhưHoàng Cao Khải, Trương Quang Ngọc, Huỳnh Công Tấn, lẽ ra đã có thể tránh đượctrận Điện Biên Phủ năm 1954, nếu Hồ đã nghiễm nhiên trở thành công bộc cúc cungphục vụ quyền lợi mẫu quốc Pháp.
Nhưng với chàng thanh niên trẻ Ngô Đình Diệm thì không,Người không đời nào chịu lòn cúi thực dân Pháp, dù cho chúng có đem danh lợi vàquyền lực làm mồi nhử. Sau khi ra trường, chỉ mới hai mươi tuổi, chàng đã đượcbổ làm Tri Huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thăng Tri Phủ năm 1932, rồi Tuần VũBình Thuận. Người Pháp bắt đầu chú ý đến cái tên Ngô Đình Diệm, khi trong năm1929, ông đã phá tan được một âm mưu khởi loạn của Cộng Sản. Năm 1933, chỉ mớicó 32 tuổi, ông Diệm đã được vua Bảo Đại (1925 – 1945) tín nhiệm cất nhắc lênlàm Thượng Thư Bộ Lại, một chức vụ tương đương Thủ Tướng sau này, kiêm Chủ TịchHội Đồng Thanh Tra, đặc cách toàn quyền thanh trừng bọn tham quan ô lại nhũngnhiễu dân chúng. Với mối liên hệ này, hai mươi năm sau, trong cương vị Quốc Trưởng,ông Bảo Đại vẫn tín nhiệm ông Diệm trong chức vụ Thủ Tướng của một nước ViệtNam độc lập sau Hiệp Định Geneva (tiếng Pháp là Genève) ký hiệu lực ngày20.7.1954. Đến đây, với chức Thượng Thư Bộ Lại, nếu ở vị trí những con ngườikhác thì đã lên đến tột đỉnh công danh rồi, nhưng cái bả vinh hoa phù phiếm ấykhông làm cho người xao nhãng một chút nào cái nhục vong quốc. Người lấy chức vụcủa mình làm phương tiện cho công cuộc cách mạng. Với dân, vị thượng thư trẻluôn luôn đi sát họ, tìm hiểu để cảm thông nguyện vọng và nỗi cơ khổ của từng lớpngười để tìm biện pháp che chở và đem lại quyền lợi cho họ. Bởi thế, người dânBình Thuận đã dựng bia kỷ niệm để tri ân công đức vị Tuần Vũ họ Ngô, như đã tônthờ các vị thần hay những anh hùng cứu quốc khác.
Với thực dân Pháp, trườc chính sách ngu dân của chúng, vịthượng thư trẻ tích cực đề nghị nhiều cải tổ như tổ chức Viện Dân Biểu, để ngườihiền tài trong quần chúng có thể tham gia vào chính quyền, lập hiến pháp để mởđường giải thoát đất nước, yêu cầu nhà nước Pháp giảm sưu thuế. Dĩ nhiên nhữngđề nghị táo bạo ấy đều bị người Pháp gạt bỏ. Nhận thấy người Pháp không thựctâm trao trả độc lập cho người Việt Nam trong khi vua Bảo Đại cô đơn và bất lựckhông xoay chuyển được tình thế, ông Diệm cởi áo từ quan, như là một hình thứcphản đối và cảnh cáo người Pháp biết rằng, một nhà nho nặng lòng với quốc gianhư ông, không bao giờ có thể chịu nhục vào lòn ra cúi người Pháp. Ra đi khôngcó nghĩa là bỏ cuộc, mà có một ngày ông sẽ trở lại trong tư thế đối đầu trực tiếpvới người Pháp.
Nuôi chí phục quốc đánh đuổi người Pháp, trở về Huế, ngườichí sĩ trẻ tuổi ấy sống một cuộc đời thanh bạch. Ông luôn tìm mọi cơ hội tiếpxúc với những nhà chí sĩ yêu nước khác như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Kỳ Ngoại Hầu CườngĐể, cụ Phan Bội Châu … để trao đổi chính kiến và cùng tìm một con đường ngắn nhấtgiải phóng đất nước. Nhận thấy ông Diệm là một con người cách mạng nguy hiểm,là kẻ thù lợi hại, người Pháp từ năm 1944 đã có những kế hoạch bắt giữ ông.Toàn quyền Decoux lệnh cho mật thám vây bắt ông Diệm, cuộc săn đuổi ráo riết diễnra trên những vùng đất từ Thanh Hóa, Nghệ An kéo dài vào đến Quảng Nam, QuảngNgãi. Có điều trớ trêu là, ông Diệm không rơi vào tay quân Pháp mà lại sa vàonhà tù của Việt Minh tháng 2.1946. Ông được đưa đến gặp Hồ Chí Minh, lúc này đãlà chủ tịch kháng chiến. Hồ ngọt mật khuyến dụ nhà chí sĩ tham gia chính quyềnvà nhận chức Bộ Trưởng Nội Vụ, đồng thời chìa bản văn Hiệp Định Sơ Bộ dự địnhký với triều đình Pháp để hợp thức hóa cho quân Pháp trở lại Đông Dương. Dĩnhiên ông Diệm đủ tài ba và thông minh để không lọt vào cái bẫy của Hồ. Hồ chỉmuốn lợi dụng uy tín của ông Diệm để cùng chia sẻ trách nhiệm trước lịch sử saunày, về cái tội rước Pháp trở lại Việt Nam. Mối thù giết người anh Cả vẫn còncanh cánh bên lòng, ông Diệm đã từng thề rằng trong cuộc đời mình, ông khôngbao giờ tha thứ và hợp tác với hai kẻ thù : Cộng Sản và thực dân Pháp. Năm1945, Việt Minh đã chôn sống quan tuần phủ Quảng Ngãi Ngô Đình Khôi và ngườicon trai của ông, vì cái “tội” tuyên bố chống Cộng đến kỳ cùng.
Chiến tranh Việt – Pháp lan rộng, trong toan tính lợi dụnglực lượng người quốc gia làm vây cánh đánh Việt Minh, Cao Ủy Pháp D’Argenlieu mộtmặt hứa … cuội với vua Bảo Đại sẽ trao trả độc lập cho Việt Nam, một mặt tìmcách tiếp xúc với ông Ngô Đình Diệm, khẩn khoản mời ông nhận lập chính phủ,nhưng Người đã thẳng thắn bác bỏ, vì nhận ra sự giả dối và đểu cáng của Pháp.Người ta đã đếm ra được rằng, từ 1946 đến 1954, người Pháp đã hứa và trao trả độcđập giả vờ cho người Việt Nam không dưới, trời đất, hai chục lần. Mùa thu năm1949, nhà chí sĩ họ Ngô quyết định ra đi thật xa, xuất dương đến những vùng đấtkhác của thế giới để quan sát sinh hoạt chính trị ở những nơi đó, đồng thời tìmmọi cơ hội tỏ bày nguyện vọng tự do và độc lập thật sự của dân tộc Việt Nam.Ông đã lần lượt đặt chân đến những nước Phi Luật Tân, Nhật, Hoa Kỳ, Canada, Bỉ,Thụy Sĩ,… Nhà chí sĩ đã ngụ cư ở Hoa Kỳ trong khoảng thời gian 3 năm tại tu việnMarykholl, Lakewood, tiểu bang New Jersey. Trong thời gian khói lửa ngút trời ởViệt Nam, người Mỹ đã giúp người Pháp đánh Việt Minh, song song với việc tìm kiếmmột người quốc gia chân chính, chống Cộng, có khả năng lãnh đạo và đem đến sự ổnđịnh cho nước Việt Nam độc lập.
Ông Diệm thường được nhớ đến như là một chí sĩ, một tổngthống xuất sắc, một nhà nho đầy hào khí, nhưng có một khía cạnh văn chương độcđáo của ông mà hiếm người còn nhớ. Thời đó, nhiều nhà nho Việt Nam làm cách mạngchống Pháp như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đều có để lại cho đời sau nhữngbài thơ biểu lộ ý chí đấu tranh phục quốc, chí sĩ Ngô Đình Diệm cũng có lúc cảmkhái sáng tác một bài thơ dạng khẩu khí như sau trong thời gian bước chân ôngghi dấu trên những nẻo đường thế giới :
NỖI LÒNG
Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến : thuyền không lái cũng không !
Xe muối nặng nề thân vó Ký
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá ?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông !
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách thuở nào trong ?
Ngô Đình Diệm, 1953
Bài thơ biểu lộ tâm trạng của một người anh hùng đangbôn ba tìm con đường giải phóng dân tộc, chí cả là gươm, thao lược là đàn, consông rộng ngăn cách là cuộc đấu tranh gian khổ. Trong lúc đất nước ngửanghiêng, mà người anh hùng ấy vẫn còn bị chôn vùi trong bóng tối, như loài ngựaKý chỉ được sử dụng để kéo xe muối, thay vì sải vó tung hoành bốn phương, nhưloài chim Hồng Hộc có đôi cánh cứng mạnh có thể bay vút lên cõi trời cao baola, nhưng vẫn ngậm ngùi xếp cánh.
Chẳng mấy chốc mà tư cách đạo đức của một con chiênngoan đạo, tác phong đĩnh đạc của một nhà nho Á Đông, ý chí kiên quyết của mộtnhà cách mạng và khí tượng dị thường của một con người kiệt liệt, đã được nhữngnhân vật có thế lực nhất thời ấy ở nước Mỹ chú ý như các Thượng Nghị Sĩ John F.Kennedy, Mike Mansfield, Lyndon Johnson, Hubert Humphrey, giáo sư chính trị họcWesley Fishel, Hồng Y Richard Spellman, chủ tịch tối cao pháp viện WilliamDouglas. Những cái tên này rồi đây sẽ là một cái hạt nhân thúc đẩy việc ủng hộchí sĩ Ngô Đình Diệm về nước lèo lái Việt Nam và đồng bào ông. Đến như CharlesDe Gaulle, con người từng bôn ba xứ ngưới tìm cách phục quốc như ông Diệm, dù ởtư thế đối đầu chính kiến với ông, cũng đã thành thật ca ngợi ông Diệm là mộtWinston Churchill của Á Đông.
Người Mỹ nhận thấy đã đến lúc họ nên có một vai trò tíchcực tại vùng Đông Nam Á để thay thế một nước Pháp đã tàn lụi dần trong cuộc chiếntranh Đông Dương và ở những thuộc địa Trung Đông, Phi châu, nên họ chẳng cònthiết tha đến việc giúp người Pháp đạt được chiến thắng ở Điện Biện Phủ. NgườiPháp phải ra đi để nhường sân khấu chính trị lại cho người Mỹ. Không nhận đượcviện trợ đầy đủ của Hoa Kỳ, quân Pháp đành cam chiến bại tại chiến trường này,đánh dấu chấm hết một thế kỷ đô hộ Việt Nam, bằng Hiệp Định Đình Chiến Genevacó hiệu lực từ ngày 20.7.1954, trong đó quy định những điều khoản quan trọng:
1./ Nước Việt Nam tạm thời phân đôi ở vĩ tuyến thứ 17, lấysông Bến Hải làm ranh giới.
2./ Trong năm 1956 sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử tự dogiữa hai miền dưới sự giám sát của quốc tế.
3./ Trong vòng 300 ngày, dân chúng và quân đội hai miềnBắc – Nam được tự do chọn lựa vùng đất sinh sống.
Trong bối cảnh cuộc chiến tranh Cộng Sản và Pháp đang đi dần đến giai đoạn quyết định, vua Bảo Đại được sự hứa hẹn của người Pháp về mộtnền độc lập thật sự cho Việt Nam, với điều kiện vẫn phải ở trong Khối Liên HiệpPháp, đã nghĩ đến việc mời một người bạn cũ có đầy đủ mọi tiêu chuẩn của mộtnhà lãnh đạo tài ba ra lập chính phủ, là ông Ngô Đình Diệm. Người Pháp không mặn mà với ý tưởng ấy, nhưng buộc phải nhượng bộ vua Bảo Đại, vì người Mỹ đã tỏ rõ ý định ủng hộ ông Diệm. Trong thời điểm hỗn mang u ám đó, dân chúng cũng không còn tin tưởng vào một nhân vật nào nữa, khi mà nhiều chính phủ thân Pháp, thân Nhật đều ngã đổ nhanh chóng, từ học giả Trần Trọng Kim đến Nguyễn Văn Xuân. Với lòng yêu nước và trái tim quả cảm, chí sĩ Ngô Đình Diệm bằng lòng đứng ra lèolái con thuyền quốc gia. Giờ đây con ngựa Ký đã có thể cất vó, con chim Hồng đãcó thể tung cánh làm chuyện lấp biển vá trời. Ngày 7.7.1954, sau khi từ nước Mỹtrở về Việt Nam, với chức vụ Thủ Tướng do vua Bảo Đại bổ nhiệm, ông Diệm chínhthức trình diện trước quốc dân đồng bào bản thân ông và thành phần nội các gồm15 vị bộ trưởng. Công việc đầu tiên của người thủ tướng trẻ là lệnh cho Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ không đặt viết ký bất kỳ văn kiện nào trong nghị hội Geneva, để không bị ràng buộc bất cứ điều gì với Cộng Sản và Pháp. Tuy nhiên sau khi HiệpĐịnh đã được ký rồi, thì chính phủ Ngô Đình Diệm, dưới sức ép của Hoa Kỳ, đãcông nhận một số điều khoản, như cho phép bộ đội Việt Minh ở Miền Nam được tậpkết ra Bắc và nhận vào Nam vô giới hạn đồng bào Miền Bắc muốn sinh sống tại miềntự do. Kết quả, có 800 ngàn người dân Miền Bắc đã được tàu biển và máy bay củaPháp, Mỹ vận chuyển vào Nam cùng với 300 ngàn binh sĩ và gia đình thuộc Quân ĐộiQuốc Gia Việt Nam.
Chỉ mới nhận nhiệm sở có vỏn vẹn 13 ngày, Thủ Tướng Diệm cùng các cộng sự của ông đã xăn tay áo bắt tay ngay vào việc tổ chức tiếp đónvà định cư đồng bào Miền Bắc, với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Đến đây thì người Phápvà người Mỹ mới có thể nhận thức được tài năng của ông Diệm và anh em của ông. Cùng với 15 cộng sự viên, ngân khố trống rỗng, nhân lực thiếu thốn trầm trọng,quân đội thất tán, lòng người còn ngơ ngác hoang mang, không hiểu bằng cách nàomà Thủ Tướng Diệm có thể tổ chức được một guồng máy khổng lồ và hữu hiệu đón nhậntrong vòng 10 tháng một khối lượng người đông đảo tới một triệu. Chính quyền đãphân phối thuốc men thực phẩm, phân định khu vực cư trú tạm thời hoặc vĩnh viễncho đồng bào di cư, cùng vô số những công tác không tên khác. Bộ Tổng Tham Mưu điều động 300 ngàn binh sĩ trấn đóng khắp các quân khu bảo vệ làng thôn, songsong với việc gấp rút tiếp thu những vùng Việt Minh đã rút đi về Bắc, v.v.. Nàophải chỉ có những công việc đón nhận và định cư ấy đâu, với đồng bào Miền Nam,chính phủ ông Diệm soạn thảo những kế hoạch phục hồi, tái thiết, phát triển kỹnghệ, chấn hưng nông nghiệp, khuyến khích và tài trợ đồng bào Miền Trung vàoNam khẩn hoang lập ấp, đẩy mạnh công tác cưỡng bách giáo dục cấp tiểu học vàtrung học trong hạng tuổi từ 6 đến 14, xây dựng thêm đại học tại Sài gòn và Huế,hỗ trợ đại học Chính Trị Kinh Doanh tại Đà Lạt. Xuất thân từ Trường Hành Chánh,Thủ Tướng Diệm luôn mang mển trong lòng hoài bão gầy dựng một thế hệ viên chứctài năng, mẫn cán và liêm khiết như ông, nên ông đã đích thân thúc đẩy việcthành lập Trường Quốc Gia Hành Chánh để cung cấp cán bộ lãnh đạo đến tận cấp quận.
Đất nước vẫn còn đang trong hiểm họa của một cuộc chiến tranh chống Cộng tiềmtàng, ông Diệm đã nghĩ đến việc gởi các sinh viên Quốc Gia Hành Chánh theo họcnhững khóa quân sự tại các quân trường lớn, để họ trở thành những hào kiệt vănvõ song toàn.
Văn ôn thì cũng phải có võ luyện. Để có một quân đội mạnhvà nhiều cấp chỉ huy giỏi giữ gìn bờ cõi, trấn thủ biên cương, bình định tặc khấu,tiểu trừ thổ phỉ, sau khi đã được quốc dân bầu làm tổng thống ngày 23.10.1956,ông Diệm đã lên Đà Lạt đặt viên đá xây dựng Trường Võ Bị Quốc Gia, với kỳ vọngđào tạo cho đất nước những cấp chỉ huy và lãnh đạo trẻ đầy tài năng, mà có thểcùng quân đội đương đầu với một cuộc xâm lấn từ phương Bắc.
Ông Diệm cũng chútrọng đến việc phát triển Trường Bộ Binh Thủ Đức, Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế,các Trường Hải Quân, Không Quân, để trong một thời gian ngắn, cái xương sống vữngchắc của toàn quân đội Việt Nam Cộng Hòa đuợc hình thành.
Từ tận đáy lòng, TổngThống Diệm luôn tri ân những người lính đã hy sinh trên chiến trường, hay cònđang anh dũng chiến đấu dưới Lá Cờ Vàng Đại Nghĩa, ông đã cho thành lập TrườngThiếu Sinh Quân Vũng Tàu nuôi nấng và giáo dục con em binh sĩ quốc gia đượcthành người hữu dụng cho xã hội và cán bộ tài năng cho quân đội. Hoa Kỳ khôngcó ngân khoản viện trợ cho Trường Thiếu Sinh Quân, chính phủ đã trích từ ngânkhoản quân đội tài trợ cho hoạt động của trường. Đi xa hơn nữa, luôn luôn khoắckhoải ưu tư số phận của những con côi và góa phụ của tử sĩ , Tổng Thống Diệmsuy nghĩ tìm cách nâng đỡ tinh thần và vật chất cho họ, bằng cách cho xây cất hầuhết trên toàn quốc những Trường Quốc Gia Nghĩa Tử, con em chiến sĩ trận vong đượcvào học miễn phí, các học sinh xuất sắc được cấp học bổng du học ngoại quốc.
Với nhân lực bổ sung từ Miền Bắc gần một triệu người vàvới dân số 14 triiệu, trong đó 90% sống bằng nông nghiệp, chính phủ Ngô Đình Diệmđã có chương trình cấp phát ruộng đất cho nông dân, nên trong vòng vài năm sảnlượng lúa đã lên đến nhiều chục triệu tấn. Sau một thập niên chiến tranh từ1945 – 1955, nước Việt Nam Cộng Hòa dưới thời chính phủ ông Diệm đã có thể bắtđầu xuất cảng nhiều triệu tấn gạo để lấy ngoại tệ. Công cuộc phát triển kỹ nghệ,thương mại cũng được phát triển mạnh mẽ, những mặt hàng nội hóa đã dần dần cóthể cung ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước. Người Việt Nam không có tư tưởngchuộng hàng ngoại quốc, vì phẩm chất hàng nội địa rất cao. Từ một nước nghèonàn, lạc hậu, chỉ trong vài năm ngắn ngủi, Tổng Thống Diệm đã đưa Việt Nam lênhàng cường quốc Đông Nam Á, trước sự ngạc nhiên cùng cực của người Mỹ và sựkính nể của các nước Á châu, nhất là những lân bang như Lào, Miên, Thái, Phi. Nước Phi có giải thưởng Tổng Thống Magsaysay dành trao tặng cho những vị nguyênthủ quốc gia tài năng của châu Á, năm 1960 đã tặng giải này cho Tổng Thống NgôĐình Diệm của Việt Nam Cộng Hòa, bởi những thành tích sáng chói mà ông cùngchính phủ của ông đã tạo được. Tổng Thống Diệm đã làm một nghĩa cử cao đẹp, khi ông hiến tặng số tiền thưởng 15 ngàn mỹ kim cho ngân quỹ của Đức Đạt Lai Lạt Macứu giúp người Tây Tạng vượt biên sang cư ngụ tại Ấn Độ. Người ta vẫn thường nhầmlẫn cho rằng Tổng Thống Diệm bênh vực và giành nhiều ưu tiên cho Công giáo ViệtNam, nhưng trong thực tế thì người đã từng mạnh mẽ bác bỏ nhiều yêu sách quáđáng từ giới này, một số linh mục đã rất buồn phiền thất vọng. Tổng Thống Mỹ Eisenhower vốn không mấy tin tưởng và mặnmà với Tổng Thống Diệm, nhưng trước những thành quả hiển nhiên đó, ông đã phảicân nhắc lại cách suy nghĩ của mình. Chỉ với không quá 100 triệu mỹ kim viện trợkinh tế hàng năm, một con số khiêm tốn nếu so với hàng tỉ mỹ kim của chươngtrình Marshall tái thiết Đức và Nhật, hai nước này phải cần đến 20 năm để vươnlên, thì thành quả công việc của chính phủ Ngô Đình Diệm trong chín năm (1954 –1963) phải nói là kỳ diệu, nhưng rất ít được các sử gia Tây phương chú ý. Vừaphải đương đầu với cuộc xâm lăng của đại khối Cộng Sản quốc tế do Nga, Hoa dẫnđầu với đạo quân tiền phong là binh đội Bắc Việt, chính quyền Việt Nam Cộng Hòavừa phải cố gắng phát triển nền kinh tế đất nước. Trong lúc Việt Nam Cộng Hòa nỗlực ngăn chống đạo âm binh Cộng Sản, thì những nước láng giềng như Thái, MãLai, Phi, Nam Dương, Đại Hàn, Nhật Bản được thảnh thơi nhàn nhã tập trung tàinguyên, vật lực kiến tạo đất nước trở thành những con rồng, con hổ Á châu. Đặcbiệt, Nhật Bản là nước được hưởng lợi rất nhiều và phất lên như diều gặp gió từcuộc chiến tranh Việt Nam hai mươi năm, nhưng là nước nhận người Việt tị nạn ítnhất. Hành động hiếp đáp, giết chóc, hãm hiếp, xua đuổi của quân đội và viên chứccác nước Thái, Mã, Phi, Nam Dương nhắm vào người Việt tị nạn là hành động bội bạcvới dân tộc nước ân nhân của họ. Chính dân tộc những nước ấy phải tri ân dân tộcViệt Nam đã đổ máu xương làm bức tường thành ngăn chống làn sóng Cộng Sản.
Ngày nay, trong thập niên đầu của thế kỷ thứ 21, khôngcòn bức tường thép Việt Nam Cộng Hòa nữa, các nước Đông Nam Á đã xun xoe, bợ đỡCộng Sản Việt Nam để mong chúng cho được yên thân. Các chính quyền Mã Lai, NamDương khiếp sợ Việt Cộng, đã cho đập bỏ những bia tưởng niệm thuyền nhân trênnhững đảo xưa. Nhưng thí dụ rõ nét nhất là việc tư pháp Thái Lan trong tháng9.2006 vừa qua, bất chấp đạo lý và công lý, đã chịu khuất nhục, khom lưng tuânlệnh Cộng Sản Hà Nội cho dẫn độ anh hùng Lý Tống về Việt Nam thụ án. Không cònQuân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trước sức ép kinh khủng của Trung Cộng, cái gọi làQuân Đội Nhân Dân của Hà Nội đã run sợ mất mật, chịu cúi đầu quy phục làm bọnhàng thần lơ láo cho kẻ thù Bắc phương. Mao Trạch Đông, Chủ Tịch Trung Cộng bấygiờ có lần tìm cách liên lạc với Việt Nam Cộng Hòa đề nghị hai bên thiết lậpquan hệ ngoại giao cấp đại sứ, nhưng Tổng Thống Diệm đã thẳng thắn từ chối.
Có ít nhất ba nhân vật quan trọng Hoa Kỳ đóng góp vào sựhưng thịnh của nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ trong những năm đầu thập niên1950. Thứ nhất, Trung Tướng O’ Daniel, Tư Lệnh Phái Bộ Quân Viện Hoa Kỳ tại ViệtNam MAAG (Military Assisistance Advisory Group) đặc trách giúp đỡ xây dựng QuânĐội Việt Nam Cộng Hòa hùng mạnh. Những người kế nhiệm Tướng O’Daniel theo thứ tựlà Harkins, Westmoreland, Abrams và Weyand. Thứ hai, Trung Tướng LawtonCollins, phái viên đặc biệt của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đặc trách quan sát và thẩmđịnh tình hình Việt Nam. Thứ ba, Đại Tá Không Quân Edward Lansdale, chỉ huy trưởngphân bộ CIA (Central Intelligence Agency) tại Việt Nam, cùng với một cộng sựviên rất đắc lực là Trung Tá Lucien Conein, một chuyên viên CIA chuyên trách tổchức những lực lượng bí mật nhảy toán phá hoại Miền Bắc, viễn thám sang Lào. Vềsau, Conein đã là nhân vật tiếp nhận kế hoạch đảo chánh Tổng Thống Diệm củanhóm sĩ quan VNCH, nên còn có thêm biệt danh “Chuyên viên đảo chánh”. Trong sốnhững yếu nhân này, thì Lansdale tỏ ra là con người nhiệt tình và có rất nhiềuthiện cảm vơi ông Diệm hơn cả. Giữa hai người đã hình thành một tình bạn rấtsâu sắc, mà ông Lansdale đã có nhiều dịp thể hiện, bằng cách giúp ông Diệm vượtqua được nhiều cơn sóng gió.
Trung Tướng Collins từng có mối quan hệ thân thiết vớitướng Paul Ely, Cao Ủy Pháp tại Việt Nam, trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Ely dĩnhiên không thích ông Diệm, vì ông Diệm đang tìm cách tống khứ 150 ngàn quânPháp ra khỏi Miền Nam sau Hiệp Định Geneve 1954, trong khi Pháp muốn nấn ná ởcàng lâu càng tốt, nên đã lời ra tiếng vào nói xấu ông Diệm để lung lạc niềmtin của Collins. Collins là một con người hách dịch, cao ngạo. Ông ta tưởng rằnghào quang chiến thắng của Mỹ ở trong thế chiến có thể đè bẹp và khuất phục đượcvị tổng thống của một tiểu quốc, nhưng trong rất nhiều lần, Tổng Thống Diệm đềurất cứng rắn bảo vệ chủ quyền và sự tự quyết của quốc gia. Mọi việc thảo luậngiữa Collins và ông Diệm đều diễn ra trong một bầu không khí bình đẳng tối đacó thể được. Với Tổng Thống Diệm, một con người Uy Vũ Bất Năng Khuất, anh đếnđây giúp tôi với tư cách là bạn, chứ không phải là ông chủ. Một nhân viên cao cấpdưới quyền Collins đã phản ảnh chính xác thái độ ngạo mạn của Collins, ông tatrả lời ông Trần Trung Dung, Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng VNCH (chức vụ bộ trưởngdo Tổng Thống Diệm kiêm nhiệm), khi ông Dung đề nghị hãy để cho VNCH tự do tổchức quân đội theo mô thức Việt Nam : “Người nào trả tiền, thì người đó quyết định”.Lansdale là một cái đệm đứng giữa dung hòa mọi khuynh hướng. Chính ông đã xác địnhvới Tổng Thống Eisenhower, rằng Tổng Thống Diệm là con người của đại cuộc, củathời thế, ngoài ông Diệm ra, không còn có ai có khả năng lãnh đạo Việt Nam.Eisenhower đã tin và mời Tổng Thống Diệm sang thăm Hoa Kỳ với tư cách quốckhách. Tổng Thống Eisenhower đã đích thân ra tận chân cầu thang phi cơ niềm nởbắt tay Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cùng duyệt hàng rào danh dự. Tổng Thống Diệmđược Quốc Hội Mỹ mời đến thuyết trình về tình hình Việt Nam. Tổng Thống Diệm đãphát biểu :”Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có những sự khác biệt sâu sắc về chủng tộc,tập quán, khái niệm chính trị, tầm nhìn và triết lý. Tôi hy vọng rằng chúng tacó thể bắt được nhịp cầu giữa hai nền văn hóa Đông phương và Tây phương”.
Để đạt đến được đỉnh cao vinh quang ấy trong đời, TổngThống Diệm không phải là đã không trải qua những nỗi cay đắng của cô đơn và nhữngbiến cố cực nguy hiểm đến tính mạng, thanh danh và sự nghiệp chính trị của ông trongnhững năm đầu tiên trở về nước, chỉ với hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng, giữamột trùng vây các thế lực sứ quân và thù địch. Trong thời điểm mập mờ của năm1954, tình hình chính trị tại Miền Nam rất rối rắm, vì chính phủ của Quốc TrưởngBảo Đại không có thực lực, chỉ dựa vào Pháp, nhưng bản thân người Pháp sau chiếnbại Điện Biên Phủ và phong trào đòi độc lập ở các nước Phi châu như Algeria,Maroc, đã gây ra rất nhiều nan đề làm người Pháp lúng túng. Quân Pháp cũngkhông còn đầy đủ sức mạnh để kiểm soát hay khống chế nhiều thế lực nổi lên ở MiềnNam, một hình ảnh tương tự như nạn sứ quân thời cuối thế kỷ thứ 10 khi, NgôVương Quyền đã tạ thế. Ông Diệm về nước trong bối cảnh hỗn mang đó, ông tiếpthu dinh Thủ Tướng, được đặt tên là Dinh Gia Long, tọa lạc trên đường Gia Long,chỉ với vỏn vẹn 12 người lính bảo vệ, và chỉ có thế. Lansdale đã từng nhiều lầntự do đi vào phòng làm việc của Thủ Tướng Diệm mà chẳng có ai ngăn cản hay xéthỏi gì cả. Khi ông Diệm đã được quốc dân bầu làm tổng thống và chính thức làmviệc trong Dinh Gia Long năm 1955, Lansdale bỏ công qua Phi nhờ Tổng ThốngMagsaysay gởi chuyên viên quân sự là Đại Tá Arellano sang Sài Gòn giúp thành lậpmột tiểu đoàn phòng vệ phủ tổng thống. Tiểu đoàn này sau được nâng lên thànhLiên Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, với những binh sĩ ưu tú được tuyển chọn từnhững đơn vị xuất sắc của quân đội. Thành Cộng Hòa là một tòa nhà nhiều tầngkhá kiên cố nằm gần Dinh Gia Long, đã được dùng làm nơi trú ngụ của sĩ quan vàbinh sĩ Liên Đoàn, nên mỗi lần có đảo chánh, thì quân đảo chánh phải khống chếhay triệt hạ cho được Thành Cộng Hòa.
Những vị thủ tướng tiền nhiệm, chỉ hữu danh nhưng vô thực,ít quyền lực và không có quân đội yểm trợ, ông Diệm kiên quyết không dẫm lên vếtxe đổ của họ. Nhưng bắt đầu từ cái gì và dựa vào lực lượng nào. Thật may mắncho Thủ Tướng Diệm, hầu hết các chiến sĩ thuộc Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thờiBảo Đại di cư từ Bắc vào như Nhảy Dù, Bộ Binh, Commandos, đã tỏ lòng trungthành với tân Thủ Tướng, trong đó có nhiều chiến sĩ người thượng du như Mường,Thái, đặc biệt là Nùng. Dựa trên nền tảng đó, Thủ Tướng Diệm quyết định thanhtoán các thế lực sứ quân để gom giang sơn dân tộc về một mối. Đối thủ của ônglà những ai. Câu trả lời sẽ làm người đời sau sửng sốt. Rất nhiều, gần đạt consố 12 sứ quân thời Ngài Đinh Bộ Lĩnh.
Thứ nhất : Thế lực mạnh nhất trong phe quốc gia đối đầuvới Thủ Tướng Diệm lại chính là Quốc Trưởng Bảo Đại. Ông Bảo Đại là một người cólòng với tương lai của đất nước, nhưng khốn nỗi từ thuở nhỏ ông đã bị ngườiPháp nhồi nhét cho một nền giáo dục vong bản, nếp sống xa hoa, thượng lưu vươnggiả, nên ít nhiều gì thì tư tưởng của ông đã chịu rất nhiều ảnh hưởng của Pháp.Bảo Đại sinh năm 1913 với tên Nguyễn Vĩnh Thụy, từ lúc biết nói biết hiểu thìngười Pháp đã cho vú nuôi Pháp chăm sóc và thầy dạy người Pháp giáo dục theo kiểuPháp. Năm ông 8 tuổi, Pháp đem ông sang Paris để vị hoàng tử trẻ ấy không còncơ hội tiếp túc với nền văn hóa truyền thống Việt Nam và ý chí phục quốc nữa,rút kinh nghiệm từ vị vua trẻ 16 tuổi Duy Tân trước đó. Hoàng đế Khải Định, chaông, mất năm 1925, nhưng mãi đến năm 1932 Vĩnh Thụy mới được Pháp đưa về lênngôi, lấy đế hiệu là Bảo Đại, để bảo đảm rằng vị tân vương thục sự là một ngườithân Pháp toàn tâm toàn ý. Trong thời gian ở Pháp, Vĩnh Thụy được người Pháp cấpcho lương bổng hàng năm rất hậu lên đến hàng triệu đồng Đông Dương, cho tương xứngvới cuộc sống xa hoa của một đế vương, dụng ý muốn làm hư hỏng vị vua trẻ.
Tuy mang nhiều tai tiếng ăn chơi, đàn đúm trong nhữngnhà chứa, hộp đêm sang trọng, nhưng tiếng gọi tha thiết của cố hương vẫn tiềmtàng trong tận đáy tim, vua Bảo Đại đã cố gắng trong khả năng rất hạn chế củamình, làm được nhiều việc có ý nghĩa. Chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuândưới quyền Quốc Trưởng Bảo Đại trong năm 1946 đã chọn được bài quốc ca Tiếng GọiCông Dân và lá quốc kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ làm biểu tượng thiêng liêng của nước ViệtNam độc lập. Hai biểu tượng thiêng liêng này vẫn còn tồn tại mãi đến ngày naytrong lòng người dân Việt.
Quốc Trưởng Bảo Đại chọn ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng,nhưng vẫn e dè tài năng và quyền lực của ông Diệm sẽ lấn át ông. Nhưng khốn nỗi,Bảo Đại dành quá nhiều thời gian ngụ cư ở Pháp nhiều hơn là về Việt Nam. Chọnông Diệm, Quốc Trưởng Bảo Đại đã đặt hai điều kiện tiên quyết : Giành lại độc lậpcho nước nhà và kiến thiết Việt Nam hùng mạnh. Nếu ông Diệm không làm được haiviệc đó thì hãy trả chính quyền lại cho ông. Thủ Tướng Diệm đã long trọng thề vớiQuốc Trưởng, ông sẽ làm được. Chuyện này đã do chính ông Bảo Đại kể lại trongcuốn hồi ký Dragon d’Annam (Con Rồng Nước Nam). Ông Diệm càng đạt được nhiềuthành quả tốt đẹp thì Bảo Đại càng cảm thấy mình kém thế, vì vậy ông đã ủng hộTrung Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia và nhómBình Xuyên, nhiều lần tìm cách lật đổ ông Diệm. Bởi ông Bảo Đại không còn giúpích được gì cho nước nhà, nhân có một chỉ dụ của ông ngày 19.4.1956 từ bênCannes lệnh cho Thủ Tướng Diệm phải sang trình diện, với ý định sẽ bãi chức ThủTướng của ông.
Một cuộc Trưng Cầu Dân Ý đã được tổ chức trong ngày23.10.1956 do Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng gồm nhiều nhân sĩ của các đảng pháivà giáo phái ủng hộ Thủ Tướng Diệm đề xuất. Bản thân Thủ Tướng cũng không lườngđược sự tiến triển bất ngờ của tình thế, ông đã vô cùng sửng sốt khi buổi chiềungay 20.4.1956, sau 7 tiếng đồng hồ thảo luận căng thẳng, Hội Đồng Nhân DânCách Mạng đã mời ông Diệm đến thông báo quyết định truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại.Là một sĩ phu nặng lòng trung quân và ái quốc, một con người từng nghiềm ngẫmnghĩa lý Tứ Thư, Ngũ Kinh, với những tấm gương trung liệt trong đó, Thủ TướngDiệm chưa bao giờ dám có ý nghĩ phạm thượng với vua Bảo Đại. Nhưng hội đồng biếtrõ rằng, nếu Thủ Tướng đi sang Pháp trình diện ông Bảo Đại, thì chuyến đi đólành ít dữ nhiều và có thể vĩnh viễn biệt xứ. Hơn 5 triệu người dân đi bầu. Kếtquả, có đến 98,2% số phiếu ủng hộ ông Diệm trong cương vị Tổng Thống và đồng ýcho Quốc Trưởng Bảo Đại giải nhiệm. Phía Hoa Kỳ không được hài lòng lắm với tỉlệ quá cao như thế, nó có vẻ không thực, hy vọng khoảng 70% là lý tưởng nhất.Ngày 26.10.1955, ông Diệm tuyên thệ nhậm chức tổng thống, tuyên bố thành lập nướcViệt Nam Cộng Hòa, cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Đội Việt NamCộng Hòa, đồng thời thông báo trước quốc dân sẽ tổ chức bầu cử quốc hội vào đầunăm 1956. Người dân thời ấy và các thế hệ sau nợ Tổng Thống Diệm danh xưng đầyhãnh diện : Được làm công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa. Những người lính chiếnđấu dưới Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ nợ vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao danh xưng lắm kiêudũng : Người Lính Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 26.10.1956, Quốc Hội đầu tiên của Việt Nam thôngqua Bản Hiến Pháp, Tổng Thống Ngô Đình Diệm long trọng ban hành với lời xác tín: Sau Hiến Pháp còn có tôi ! Ngụ ý người kiên quyết bảo vệ Hiến Pháp và luậtpháp quốc gia. Nền dân chủ sơ khởi của nước cộng hòa non trẻ bắt đầu từ đấy.
Thứ hai : Trung Tướng Nguyễn Duy Hinh, nguyên là TrungTá Không Quân trong quân đội Pháp, cưới vợ Pháp và nhập tịch Pháp, cha ông là cựuThủ Tướng Nguyễn Văn Tâm rất thân Pháp. Quốc Trưởng Bảo Đại đã cất nhắc TrungTá Hinh lên Thiếu Tướng, giữ chức vụ tư lệnh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với dụngý củng cố vị thế của ông. Một thời gian sau, ông Hinh được thăng Trung Tướng.Trong thời điểm chân ướt chân ráo mới về đến quê hương, ông Diệm buộc phải chấpnhận ông Hinh. Người Mỹ càng hậu thuẫn ông Diệm bao nhiêu, thì người Pháp càngchơi trò ném đá dấu tay phá thối Thủ Tướng Diệm, bằng cách xúi dục Trung TướngHinh làm phản. Ông Hinh nhiều lần cho xe thiết giáp và bộ binh đến bao vây dinhThủ Tướng để thị uy, nhưng ông Diệm có Tướng Collins và Đại Tá Lansdale bảo vệ.Khi quân đội trung thành với ông Diệm đem quân đến bao vây trả đũa, thì Bộ Tư LệnhPháp chậm trễ việc cung cấp tiếp liệu, xăng nhớt di chuyển, thậm chí thiết lậpnhiều nút chận gây khó khăn cho quân đội. Có lần Lansdale đã mời nhiều sĩ quanthân ông Hinh sang Manila, thủ đô Phi Luật Tân du hí, để tách họ ra khỏi ôngHinh. Đồng thời, chính phủ Hoa Kỳ trong tháng 10.1954 gửi công hàm báo cho ngườiPháp biết, Hoa Kỳ sẽ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam không qua trung gian Phápnữa. Người Pháp yếu thế dần, không còn hung hăng hỗ trợ ông Hinh tạo phản nữa.
Tháng 11.1954, dưới sức ép của người Mỹ lên người Pháp,Quốc Trưởng Bảo Đại ra chỉ dụ bãi chức Trung Tướng Hinh, ông Diệm bổ nhiệm ThiếuTướng Lê Văn Tỵ thay thế, sau này ông được thăng lên đến Đại Tướng. Tướng Hinhngậm ngùi lên phi cơ về Pháp. Thiếu Tướng Tỵ bắt tay ngay vào việc nhận bàngiao quyền chỉ huy hoàn toàn quân đội Việt Nam từ người Pháp, hiệu lực từ ngày11.2.1955. Quân Đội Quốc gia Việt Nam rẽ sang một giai đoạn mới và được cảidanh thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa sau ngày 26.10.1955.
Thứ ba : Là lực lượng quân đội Pháp còn khoảng 150 ngànngười cứ chùng chình mãi không chịu hồi hương. Thủ Tướng Diệm căm giận lắm, đólà cái mối quốc nhục mà ông thề sẽ rửa trước anh linh của tiền nhân tiên liệt.Thực dân Pháp muốn có một chính phủ thân Pháp để duy trì thế lực Pháp ở ViệtNam. Pháp có nhiều nguồn lợi ở Việt Nam như các đồn điền trà, cà phê, cao su.Nhiều chủ đồn điền vẫn được chính quyền Việt Nam hai thời cộng hòa ưu đãi,không động chạm gì đến công cuộc làm ăn của họ, nhưng những người này thậm thụtđóng thuế, cung cấp tin tức cho quân Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng, dung chứachúng trong những khu rừng cao su bạt ngàn, làm một mũi dao lúc nào cũng sẵnsàng thọc sâu vào tận trái tim nước Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng với sự thất bại củaBảo Đại, Tướng Hinh, Bảy Viễn, sư quy phục của các giáo phái trước sự kiên quyếtcủa Thủ Tướng Diệm, lại thêm ngân khoản tài trợ của Hoa Kỳ đã cắt đứt, ngườiPháp thấy không còn hy vọng gì, những người lính Pháp cuối cùng đã lục tục xuốngtàu về nước ngày 28.4.1956, đánh dấu chấm hết một thế kỷ thống trị của ngườiPháp. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sau mấy năm đấu trí đấu lược với thực dân Pháp,đã thực sự tống xuất được bọn chúng ra khỏi nước Việt Nam. Giờ đây, nước ViệtNam Cộng Hòa đã được hoàn toàn độc lập, uy thế của chính phủ ông Diệm lừng lẫytrên trường quốc tế, hầu hết các quốc gia không Cộng Sản, kể cả các nước Ả Rậpđều chính thức công nhận Việt Nam Cộng Hòa và thiết lập quan hệ ngoại giao.Charles De Gaulle, Tổng Thống Pháp rất cay cú, nhưng buộc phải thực lòng ngợica Tổng Thống Diệm là “Winston Churchill của Á châu”, ngụ ý con người kiệt xuấtđã giành được độc lập cho đất nước.
Thứ tư : Là lực lượng Bình Xuyên của Tướng Lê Văn Viễn.Được sự đỡ đầu và trả lương ngầm của Pháp, lực lượng Bình Xuyên chiêu mộ được đến25 ngàn thủ hạ, trong đó có 1,500 tay súng. Bình Xuyên là một tổ chức tội ác,thổ phỉ, một cái gì đó gần giống như Mafia của Ý, vì nó kinh doanh ngành cờ bạcvà nhà chứa, ngang ngược không coi luật pháp quốc gia ra gì hết. Từ khởi đầu,thì lực lượng Bình Xuyên do một người anh chị tên Ba Dương lãnh đạo, đã kết hợpvới các lực lượng Hòa Hảo và Cao Đài kháng chiến chống cả Pháp và Việt Minh. BaDương bị Tướng Nguyễn Bình của Cộng Sản giết chết, quyền chỉ huy rơi vào tay LêVăn Viễn. Người Pháp khuyến dụ Bảy Viễn đem lực lượng quy thuận, đổi lại Phápban cấp cho Bảy Viễn bổng lộc và quyền lợi rất hậu.
Năm 1952, Bảo Đại phong cho Lê Văn Viễn, tự Bảy Viễn, cấpbậc Thiếu Tướng để làm vây cánh và có ý định sẽ đưa Bảy Viễn lên làm Thủ Tướngsau này. Nhà nước Pháp cũng ân thưởng Viễn huân chương cao quý Bắc Đẩu Bội Tinh.Tai sao ? Bảy Viễn và Bình Xuyên làm chủ nhiều cơ sở tài chánh lớn như các sòngbài Đại Thế Giới dành cho lớp thượng lưu giàu có Pháp và Việt, như cỡ công tử BạcLiêu và công tử Mỹ Tho chẳng hạn, sòng bài Kim Chung dành cho giới thấp hơn vàgiai cấp bình dân lao động. Có vô số người đã bán vợ con làm nô tì đĩ điếm, mấtnhà cửa, sạt nghiệp, tự tử hay hóa điên vì hai sòng bài tội lỗi này. Chưa hết,nằm gần bên các sòng bài là các khu nhà chứa đủ mọi hạng, từ de luxe hạng sangđến hạng hèn, nổi tiếng nhất là nhà chứa Bình Khang ở Vườn Lài. Công an và binhlính Bình Xuyên kiểm soát những trục lộ huyết mạch Sài Gòn – Vũng Tàu, Sài Gòn– Rừng Sát, thu thuế các lò mổ thịt. Nguồn tài chính lớn nhất của Bảy Viễn làviệc buôn bán thuốc phiện lậu chở từ vùng Tam Giác Vàng qua Lào, rồi vào ViệtNam, Bảy Viễn thầu hết. Bảy Viễn cung ứng cho ông Bảo Đại hàng tháng 500 ngàn đồngvà bộ máy thống trị Pháp một số tiền lớn mỗi ngày lên đến 100 ngàn đồng, nhưngbù lại hắn cho người Hoa Macau đấu thầu và trả cho hắn mỗi ngày 400 ngàn đồngtiền Đông Dương. Dẫu sao thì cũng có it nhiều “huyền thoại” về Bảy Viễn. Có lẽmuốn hù dọa thiên hạ, bên cạnh những nhà điều chế tinh chất ma túy, Bảy Viễn cấtnhiều chuồng nuôi cá sấu đến 12 con. Bên ngoài phòng ngủ của hắn có một con beogấm dữ dằn được cột bằng một sợi dây xích dài. Trên ban công biệt thự, nhữngcon trăn gió bò lển nghển thấy mà … ghê. Chưa hết, có một con cọp mua từ xứSiberia bên Nga hầm hừ nằm trong một cái chuồng sắt, mà khi cần thì từ bêntrong người ta có thể bấm nút điện cho cửa chuồng kéo lên, ô hô, thế là con cọpphóng ra ngoài, kẻ lạ đột nhập toan tính ám sát Bảy Viễn hả, tha hồ mà chạy vắtgiò lên … ót nhé. Người ta đồn rằng có người trông thấy quần áo và xương ngườitrong lồng cọp nữa, thế có ghê không chứ.
Một con người đạo đức bài phong kiến đả thực dân như ThủTướng Diệm đâu có thể chấp nhận một cái ung nhọt xấu xa tồn tại giữa lòng thủđô. Biết chắc Hoa Kỳ đã cắt ngân khoản, Pháp không có tiền trả lương cho quânBình Xuyên, Thủ Tướng Diệm quyết định đánh tiêu diệt bọn mafia thổ phỉ. Nhưngtrước hết, ông cần thêm lực lượng của các giáo phái, càng nhiều càng tốt. CácTướng Trình Minh Thế, Nguyễn Thành Phương của Cao Đài, Trần Văn Soái của Hòa Hảođã xin quy phục chính quyền và đem về nhiều ngàn quân. Thiếu Tướng Thế đượcvinh thăng Trung Tướng, ông là con người tuổi trẻ tài cao, năng nổ, nhiệt thànhtrong chiến dịch tiêu diệt Bình Xuyên. Với sự hỗ trợ ngầm của quân Pháp, Bảy Viễnnhiều lần ngổ ngáo đem thiết giáp và quân sĩ bao vây dinh Thủ Tướng. Nhưng mộttên vô lại như hắn đâu có phải là đối thủ của một con người kiệt hiệt như NgôĐình Diệm. Hai tiểu đoàn Dù của Thiếu Tá Liên Đoàn Trưởng Đỗ Cao Trí đã vâyđánh tan nát bản doanh của bọn thổ phỉ mafia nằm trên đường Trần Hưng Đạo. Quânthổ phỉ Bình Xuyên chỉ giỏi húng hiếp dân lành, nhưng lại vô cùng hèn nhát trướccác chiến sĩ quốc gia, chúng đã quăng súng bỏ chạy tán loạn. Bảy Viễn cùng LạiVăn Sang, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát, tay chân thân tín nhất của hắn nhanh chân lủitrốn vào Rừng Sát phía Tây Bắc Sài Gòn, rồi từ đó được tàu Pháp ủi vào đưa về mẫuquốc.
Đại Tá Dương Văn Minh, tự Minh Cồ (Big Minh), người hùngtrong chiến dịch càn quét Rừng Sát, đã tìm thấy một thùng phuy giấy bạc ĐôngDương của Bình Xuyên. Minh được vời về Sài Gòn cho vinh thăng Thiếu Tướng, đảmnhiệm chức vụ Tổng Trấn Sài Gòn, dẫn đầu đoàn quân trong buổi duyệt binh chiếnthắng rất hùng tráng tại thủ đô. Minh dấu nhẹm chuyện chiếc thùng phuy, nhưngtin phong phanh đến tai chính phủ ông Diệm, nhưng Tổng Thống Diệm cho xếp hồsơ. Thiếu Tướng Minh lần lượt được chính phủ tín nhiệm trong những chức vụ chỉhuy cao nhất trong quân đội, như được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Các chiến dịch HoàngĐiệu 1954, chiến dịch Nguyễn Huệ 1955, chiến dịch Thoại Ngọc Hầu 1956, Tư LệnhLiên Khu Thủ Đô năm 1957, Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Hành Quân 1961. Đầu năm 1963, TổngThống Diệm vinh thăng Trung Tướng và bổ nhiệm Tướng Minh chức vụ Cố Vấn Quân SựPhủ Tổng Thống, một công việc ngồi chơi xơi nước. Tướng Minh để tâm thù hận ôngDiệm từ đấy. Mối thù càng sâu đậm hơn, khi ông Diệm bổ nhiệm bốn vị Tư LệnhQuân Khu, Minh chẳng nắm được vùng nào cả. Các Tư Lệnh Quân Khu thời ông Diệmtrong năm 1962 – 1963 như sau :
Quân Khu I : Thiếu Tường Đỗ Cao Trí
Quân Khu II : Trung Tướng Nguyễn Khánh
Quân Khu III : Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, kiêm Tổng TrấnSài Gòn – Gia Định
Quân Khu IV : Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao
Ngay cả cái Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu cũng lọtvào tay Thiếu Tướng Trần Văn Đôn, Minh chả được xơ múi gì. Được sự chấp thuậnngầm của Thái Thú Henry Cabot Lodge và Hoa Thịnh Đốn, Minh lệnh riêng cho ĐạiÚy Nguyễn Văn Nhung giết chết Tổng Thống Diệm và bào đệ là ông Nhu trong lòngchiếc thiết vận xa M 113 trong ngày 2.11.1963. Là đảng viên Đại Việt, Nhung còncó mối thù riêng với Tổng Thống Diệm, vì ông Diệm đã cho quân đội tấn công hủydiệt chiến khu Ba Lòng ở Miền Trung của lực lượng Đại Việt. Nhưng đó là chuyệnđau lòng sau này. Nếu ông Diệm bổ nhiệm Tướng Trí làm Tư Lệnh Quân Khu III, rấtcó thể Tướng Trí vẫn giữ lòng trung thành, vì Đại Tá Cao Văn Viên cùng binh chủngNhảy Dù như ông nhất định không phản, quân đảo chánh sẽ thất bại. Nhưng đó là sốtrời, định mệnh oan nghiệt đã dành sẵn chén đắng cho người. Những năm đầu thậpniên 1960, khi chiến sự bùng nổ giữa quân Mặt Trận Giải Phóng và Quân Đội VNCH,Minh thậm thụt tiếp xúc mấy lần với Tướng Việt Cộng Dương Văn Nhựt, là em traicủa ông ta, An Ninh Quân Đội VNCH biết hết, nhưng Tổng Thống Diệm không muốnlàm lớn chuyện, ông cho xếp hồ sơ lại, vì Tướng Minh chưa có dấu hiệu phản loạn.Đó là sai lầm lớn nhất trong đời của Tổng Thống Diệm, mà ông sẽ phải trả giá đắtbằng chính mạng sống của mình.
Cuối tháng 4.1955, tàn quân Bình Xuyên rút về cố thủ bênkia cầu Tân Thuận trong Chợ Lớn. Trung Tướng Thế quả cảm tiến lên phía chân cầuđiều động binh sĩ, nhưng một viên đạn bắn lén oan nghiệt đã giết chết ông. Mộttên xạ thủ núp dưới chân cầu cách Tướng Thế khoảng mười mét bắn một viên đạntrúng màng tang phải trổ ra mắt trái. Tương Thế ngã ra chết tức khắc. Chiềungày hôm sau, khi tình hình chiến sự tạm lắng dịu, Thủ Tướng Diệm cùng ông Nhuđến viếng xác Trung Tướng Thế. Thủ Tướng Diệm đã ôm thây người hào kiệt trẻkhóc lớn. Nỗi đau mất một cánh tay, một cột trụ chống đỡ trong thời buổi loạnbinh, ông Diệm ngã ra ngất xỉu. Đến ngày 3.5.1955 thì quân Bình Xuyên hoàn toàntan rã, một số đầu hàng, một số chạy thụt mạng sang Miên trốn, phần khác ẩntránh trong các lực lượng giáo phái. Ngay lập tức, Thủ Tướng Diệm cho đóng cửanhững nơi chốn tội ác, trả lại cuộc sống trong sáng và an lành cho người dân thủđô. Dưới chín năm cầm quyền của ông, Tổng Thống Diệm không cho phép một hình thứcsa đọa trụy lạc nào được tồn tại.
Sau chiến công này, tài năng lãnh đạo của Thủ Tướng Diệmđã được xác định. Người Mỹ và thế giới đồng công nhận rằng ông Diệm chính lànhà lãnh đạo duy nhất không ai có thể sánh nổi tại Việt Nam. Viện trợ Hoa Kỳ bắtđầu hào phóng đổ vào, dần lên đến 500 triệu mỹ kim mỗi năm. Dân chúng Việt Namdần dần quen thuộc với những loại hàng hóa và thực phẩm mang nhãn hiệu hai bàntay siết chặt, tượng trưng cho mối quan hệ thân tình giữa người Mỹ và người ViệtNam.
Thứ năm : Là lực lượng các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài.Đây là hai lực lượng lớn tương đương với Bình Xuyên và đã gây nhiều khó khăncho chính quyền quốc gia. Từ khởi thủy, các lực lượng giáo phái chủ trương chốngCộng và kháng chiến chống Pháp, nhưng sau Hiệp Định Geneva 1954, Việt Cộng rútvề Bắc, quân Pháp hồi hương, các giáo phái trong một tình trạng lúng túng, vì mụctiêu tranh đấu đã coi như tạm hoàn thành, tương lai đất nước vẫn mờ mịt. Vấn đềtế nhị và khó giải quyết là, chẳng lẽ sau bao nhiêu năm gian khổ chiến đấu, giờđây lại buông súng quy hàng một con người xa lạ là Thủ Tướng Ngô Đình Diệm từHoa Kỳ về, và một quân đội xa lạ là Quân Đội Quốc Gia đa số từ Miền Bắc di chuyểnxuống. Sự yếu ớt của các chính phủ Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Xuân, Bửu Lộc trướcđây đã là một tiền đề để các giáo phái nghĩ rằng chính phủ ông Diệm cũng ngã sụmsớm, họ sẽ nhân thời cơ nắm được một vai trò nào đó. Thủ Tướng Diệm kêu gọiquân đội giáo phái giải giới sáp nhập vào quân đội quốc gia, các thành phần chỉhuy được cải chuyển sang thành sĩ quan của một quân đội thống nhứt. Nhiều nhómvũ trang dưới quyền của một số tướng lãnh ý thức được sự biến chuyển của tìnhthế, sự cần thiết hợp nhất quân đội để tiếp tục ngăn chống làn sóng Cộng Sản,và công nhận thiên mệnh đã chọn chí sĩ Ngô Đình Diệm làm người lãnh đạo, chứkhông phải bất cứ ai khác trong số tướng lãnh giáo phái, nên đã kéo nhau về xinquy thuận. Những tướng Nguyễn Thành Phương, Trình Minh Thế của Cao Đài, TrầnVăn Soái của Hòa Hảo đều được chính quyền quốc gia trọng dụng và thăng thưởng.Các tướng Lâm Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ của Hòa Hảo chùng chình nửa muốn nửakhông, chờ xem những đề nghị quyền lợi do Đại Tá CIA Lansdale đứng giữa móc nối.
Phật giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Phú Sổ sáng lập, tín đồcung kính gọi Ngài là Đức Huỳnh Giáo Chủ. Ngài sinh năm 1919 tại làng Hòa Hảo,thuộc tỉnh Châu Đốc. Thuở nhỏ Ngài là một cậu bé ốm yếu và thường bệnh hoạn.Nhưng trong cái thân thể gầy gò ấy tiềm tàng một sức mạnh siêu nhiên về tâmlinh, Ngài luôn trầm tư suy nghĩ về những bí ẩn của đời sống, chiêm nghiệm chânlý. Năm 1939, lúc chỉ mới 20 tuổi, Ngài đã ngộ được lẽ huyền vi của Phật giáo,rồi Ngài bắt đầu cuộc đời đạo hạnh từ đấy. Đức Huỳnh Giáo Chủ nghĩ rằng, Ngàiphải đi sâu vào đời sống mọi người chung quanh, ra tay cứu độ cho những người bệnhtật, thì mới có thể thuyết phục và thu hút được nhiều tín đồ. Vừa trị bịnh cứuđời, Ngài vừa giảng thuyết Phật pháp. Người dân Miền Tây thuở thập niên 1940đâu đã nhiều người được học hành chu đáo, nên Đức Huỳnh đã đơn giản hóa kinh Phậtvà phổ kinh vào thơ bằng những từ ngữ dễ hiểu, để cho bất cứ tín đồ nào cũng cóthể cảm nhận được điều huyền diệu của Phật pháp. Trong lúc đất nước chìm đắm giữacơn biển lửa chiến tranh, Ngài kết hợp Phật pháp với chủ nghĩa quốc gia, mỗitín đồ vừa là một Phật tử, nhưng cũng là một công dân có trách nhiệm chiến đấulúc tổ quốc nguy biến. Ngài khuyên tín đồ nên tụng niệm bốn lần mỗi ngày, tánthán hồng danh chư Phật, tán thán công đức những anh hùng dân tộc như Hai BàTrưng, Lý Bôn, Trần Hưng Đạo và Lê Lợi, để hun đúc tinh thần yêu nước. Vì Ngàichủ trương chống thực dân Pháp xâm lược, người Pháp vu khống Đức Huỳnh giáo chủlà một người điên, nên năm 1940 chúng bắt giam Ngài trong một nhà thương tâm thần.Nhưng ở đây, Đức Huỳnh đã thuyết pháp và thu nhận làm tín đồ hầu hết những bácsĩ, y tá và nhân viên.
Khi quân Nhật đảo chánh Pháp ngày 9.3.1945, người Nhậtđưa ra chiêu bài “Đại Đông Á” đoàn kết những dân tộc da vàng, ủng hộ những lựclượng võ trang yêu nước Việt Nam. Lực lượng quân sự của Phật Giáo Hòa Hảo lúcđó đã kết nạp được đến 15 ngàn chiến sĩ quốc gia. Năm 1946, Đức Huỳnh thành lậpĐảng Dân Xã, thế lực ngày càng bành trướng dần khắp hết Miền Tây. Một trong nhữngcấp chỉ huy của lực lượng võ trang Hòa Hảo là Tướng Lê Quang Vinh. Ông là mộtngười chống Pháp rất quyết liệt. Để khẳng định quyết tâm, năm 1947, Tướng Vinhđã chặt đứt một lóng tay trỏ, từ đó dân chúng còn gọi ông là Tướng Ba Cụt. Mộtcấp chỉ huy khác là Trần Văn Soái, tính nóng như Trương Phi, được binh sĩ kínhtrọng gọi là Năm Lửa. Nhận thấy Đức Huỳnh Giáo Chủ đã trở thành một đối thủchính trị và quân sự đáng sợ tại Miền Tây, Hồ Chí Minh lệnh cho đàn em dàn dựngmột cuộc hợp thương giữa Việt Minh và Hòa Hảo tại một địa điểm hẻo lánh là KinhĐốc Vàng trong ngày 19.4.1946, mời Đức Huỳnh đến rồi giết chết. Tuy Đức HuỳnhGiáo Chủ đã qua đời, nhưng Việt Minh không thể tiêu diệt nổi lực lượng võ trangHòa Hảo, con số tín đồ trong những năm đầu thập niên 1950 đã lên đến hơn 1 triệurưỡi người.
Sau khi được quốc dân tín nhiệm bầu làm Tổng Thống trongcuộc bỏ phiếu ngày 23.10.1955, chí sĩ Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nước ViệtNam Cộng Hòa. Bình Xuyên đã bị tiêu diệt hồi tháng 5.1955, giờ đây Tổng ThốngDiệm bắt đầu thanh toán lực lượng Hòa Hảo. Những tướng lãnh chịu quy phục nhưTrần Văn Soái, Tổng Thống Diệm trọng dụng và tưởng thưởng vật chất xứng đáng (Sửliệu của người Mỹ viết rằng CIA đã giúp Tổng Thống Diệm 12 triệu mỹ kim trong việcnày) Những tướng lãnh bất phục, ông lệnh cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa tấncông không khoan nhượng. Những trận đánh đẫm máu đã diễn ra, để cuối cùng TướngLê Quang Vinh Ba Cụt bị quân của Đại Tá Dương Văn Minh bắt sống trong tháng4.1956. Tướng Ba Cụt để tóc dài đến tận vai, ông thề rằng khi nào đất nước thốngnhất thì ông mới cắt tóc. Tháng 7.1956 Tướng Lê Quang Vinh bị xử chém tại CầnThơ. Lực lượng võ trang Hòa Hảo của Tướng Ba Cụt tan rã từ đấy, các binh sĩphân tán và ẩn tránh vào những vùng thôn quê xa thành thị chờ thời cơ trỗi dậy.
Đạo Cao Đài được Ngài Ngô Văn Chiêu sáng lập từ năm 1878tại Chợ Lớn, tiết lộ rằng Ngài đã được gặp gỡ đấng toàn năng tối cao là ThượngĐế qua hiện tượng cơ bút. Biểu tượng thiêng liêng của Cao Đài giáo là hình Một Mắt,có nghĩa là sự thấu suốt mọi lẽ huyền vi của vũ trụ và thế giới tâm linh. ĐứcNgô Văn Chiêu đưa vào nhiều hình tượng để tán thán và thờ phượng. Ngoài Đức PhậtThích Ca, còn có Đức Chúa Jesus, Lão Tử, Khổng Tử, thấp hơn có Jeanne d’Arc (nữanh thư Pháp), Victor Hugo (văn hào Pháp), Charlie Chaplin, Laurel va Hardy (đềulà các tài tử điện ảnh Hoa Kỳ), cùng nhiều nhân vật lịch sử, tôn giáo và vănhóa khác nữa, đều được thờ phượng như những bậc thánh. Với một đạo pháp chủtrương hòa đồng như thế, rất dễ được quần chúng tin tưởng và chấp nhận, nên chỉtrong một thời gian ngắn, đạo Cao Đài đã phát triển toàn khắp Lục Tỉnh và bànhtrướng ra đến Miền Trung. Tòa Thánh Trung Tâm đặt tại Tây Ninh, sinh hoạt nội bộcủa hàng giáo phẩm và giáo dân chặt chẽ, gần giống hình thức bán tự trị (semiautonomous state), một lãnh thổ trong một quốc gia. Sự kiện này đã làm thực dânPháp rất lo lắng, khi con số chiến sĩ trong lực lượng võ trang Cao Đài đã lên đến25 ngàn người. Năm 1932, Đức Ngô Văn Chiêu qua đời, Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắclên chấp chưởng công việc. Đầu những năm 1950, tín đồ Cao Đài đã lên đến gần 2triệu người.
Song song với cuộc bình định lực lượng võ trang Hòa Hảo,Tổng Thống Diệm bắt đầu chiến dịch chinh phạt lực lượng võ trang Cao Đài. Với sựgiúp sức của CIA Mỹ, qua trung gian của Đại Tá Lansdale, Thiếu Tướng Trình MinhThế, Thiếu Tướng Nguyễn thành Phương chịu quy thuận với những thăng thưởng cấpbậc và vật chất rất hậu từ phía chính phủ (sử liệu Mỹ tiết lộ CIA đã giúp 1 triệumỹ kim). Cuối năm 1955, Quân Đội VNCH tấn công vào chiến khu Tây Ninh. Trước ýchí sắt đá của Tổng Thống Diệm, rằng ông không bao giờ chấp nhận nạn sứ quântrong một quốc gia có một chính phủ dân cử hợp pháp, thêm tin tức bất lợi và đẫmmáu từ phía mặt trận Hòa Hảo dồn dập bay về, Hộ Pháp Phạm Công Tắc buộc phảiđào thoát sang Cao Miên trong tháng 2.1956. Phần lớn binh sĩ Cao Đài buông súngxin quy hàng, số còn lại tản mác về Miền Tây.
Như vậy là đã xong những thế lực sứ quân lớn, các lực lượngvõ trang giáo phái đã lụi tàn, nhưng giáo dân Hòa Hảo và Cao Đài vẫn được tự dotín ngưỡng và hành đạo của mình. Chẳng những thế mà chính quyền ông Diệm còngiúp đỡ trùng tu, xây dựng chùa, đền, tòa thánh. Sự kiện này chứng minh rằng, bảnthân Tổng Thống Diệm, Người không bao giờ chủ trương kỳ thị tôn giáo. Ngoài tưcách là một tín đồ Thiên Chúa giáo, ông còn là một nhà nho Khổng giáo, một kẻsĩ chân chính luôn tôn trọng đạo lý và lẽ công bằng. Quan niệm rằng tín đồ bấtcứ đạo giáo nào chỉ nên trau giồi phần đạo đức và tâm linh, Tổng Thống Diệmluôn tích cực hỗ trợ cho công việc thiêng liêng đó. Nhưng không thể lợi dụngtôn giáo để bạo động và hùng cứ. Quân đội phải được hợp nhất thành một sức mạnhđể bảo vệ đất nước. Ông cũng áp dụng quan niệm đó với lực lượng Phật giáo,nhưng đấy lại là một câu chuyện khác đầy rối rắm mang rất nhiều màu sắc chínhtrị, có sự nhúng tay của Mỹ và Cộng Sản để đánh đổ Người.Xin xem tiếp theo phần 2 ở đây : https://www.facebook.com/notes/vô-vi/tổng-thống-ngô-đình-diệm-kẻ-sĩ-cuối-cùng-phần-2/1428076324175727
Chia sẻ:
- X
Related
Từ khóa » Hội Nghị Liễu Châu
-
Hội Nghị Liễu Châu 1954 - VUSTA
-
Hội Nghị Liễu Châu (3-5/7/1954) | Chậu, Nghĩa Trang, Dép - Pinterest
-
Hội Nghị Liễu Châu 1954 | Cavenui
-
Tài Liệu Hội Nghị - UBND Tỉnh Lai Châu
-
Hội Nghị Da Liễu Châu Á - Úc Lần Thứ 23
-
Tư Liệu - Văn Kiện - Hiệp định Giơ-ne-vơ Năm 1954 Về Đông Dương...
-
Khai Mạc Hội Nghị Da Liễu Khu Vực Châu Á - Úc Lần Thứ 21
-
Thăm Nhà Bác Hồ Tại Liễu Châu - Trung Quốc - Công An Nhân Dân
-
Dấu Chân Bác đặt Chốn Này 13/01/2009 13:48:00 - Tin Bộ Tài Chính
-
Hội Nghị Quản Lý Bệnh Viện Châu Á
-
[DOC] Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Ký Hiệp định Giơ-ne-vơ - Cong Doan Hai Phong
-
Kế Hoạch Tổ Chức Hội Nghị Quốc Tế: Thiết Kế Vật Liệu Tính Toán Châu ...
-
Thành Phố Liễu Châu được đưa Vào Chương Trình Hợp Tác Chính ...