Iz*One – Wikipedia Tiếng Việt

IZ*ONE
IZ*ONE tại lễ trao giải Golden Disc Awards lần thứ 33 vào năm 2019.Từ trái sang phải: Kang Hye-won, Lee Chae-yeon, Kim Min-ju, Honda Hitomi, Kwon Eun-bi, Jang Won-young, Miyawaki Sakura, Yabuki Nako, Jo Yu-ri, Kim Chae-won, Choi Ye-na, An Yu-jin
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánSeoul, Hàn Quốc
Thể loại
  • K-pop
  • J-pop
  • EDM
  • synth-pop
  • dance
  • acoustic
  • ballad
Năm hoạt động2018 (2018)–2021 (2021)
Công ty quản lý
  • Off The Record[a]
  • Swing
Hãng đĩa
  • Stone Music
  • Genie
  • EMI
  • Vernalossom[3]
Hợp tác với
  • AKB48
  • HKT48
  • Ive
  • Le Sserafim
Bài hát tiêu biểu
  • La Vie en Rose
  • Violeta
  • Fiesta
  • Secret Story of the Swan
  • Panorama
Cựu thành viên
  • Kwon Eun-bi
  • Miyawaki Sakura
  • Kang Hye-won
  • Choi Ye-na
  • Lee Chae-yeon
  • Kim Chae-won
  • Kim Min-ju
  • Yabuki Nako
  • Honda Hitomi
  • Jo Yu-ri
  • An Yu-jin
  • Jang Won-young
Websiteiz-one.co.kr
Tên tiếng Hàn
Hangul아이즈원
Phiên âm
Romaja quốc ngữAijeuwon
McCune–ReischauerAichŭwŏn
Tên tiếng Nhật
Katakanaアイズワン
Chuyển tự
HepburnAizuwan
[] Bài viết này có chứa kí tự ngữ âm IPA. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode.

IZ*ONE (/ˈz wʌn/ EYEZ-wun, tiếng Hàn Quốc: 아이즈원, tiếng Nhật: アイズワン) là một nhóm nhạc nữ thần tượng Hàn Quốc–Nhật Bản[4][5][6] được thành lập vào ngày 31 tháng 8 năm 2018 bởi công ty CJ E&M thông qua chương trình truyền hình thực tế sống còn Produce 48 của kênh Mnet và được đồng quản lý bởi hai công ty Off The Record Entertainment và Swing Entertainment.[7][8] Nhóm gồm 12 thành viên được khán giả Hàn Quốc bình chọn từ 96 thực tập sinh đến từ nhiều công ty giải trí khác nhau của Hàn Quốc và AKB48 Group của Nhật Bản, đội hình chính thức bao gồm Kwon Eun-bi, Miyawaki Sakura, Kang Hye-won, Choi Ye-na, Lee Chae-yeon, Kim Chae-won, Kim Min-ju, Yabuki Nako, Honda Hitomi, Jo Yu-ri, An Yu-jin và Jang Won-young.[9] IZ*ONE chính thức ra mắt vào ngày 29 tháng 10 năm 2018 với mini-album đầu tay COLOR*IZ.[10] Âm nhạc của nhóm là sự kết hợp giữa các thể loại nhạc EDM như electropop, house, moombahton, future bass, với synth-pop, dance, acoustic và ballad.[4][11][12][13]

Chỉ vài tháng sau khi ra mắt, IZ*ONE đã đạt được những thành công về mặt thương mại, như bán 225.000 đơn vị album và đạt thứ hạng cao nhất là thứ hai trên Gaon Album Chart.[14] Cùng với đó cả album Color*Iz lẫn đĩa đơn chủ đề "La Vie en Rose" đều lần lượt xuất hiện trên bảng xếp hạng Billboard World Albums và World Digital Songs.[14] Những thành tích ngay từ khi mới ra mắt đã đem về cho nhóm giải thưởng Nghệ sỹ Mới của Năm tại một số lễ trao giải như Golden Disc Awards và Seoul Music Awards.

Đĩa đơn tiếng Nhật đầu tiên của nhóm, "Suki to Iwasetai", được phát hành vào ngày 6 tháng 2 năm 2019 bởi hãng đĩa EMI Records của UMG. Đạt thứ hạng cao nhất là thứ hai trên Oricon Singles Chart và với hơn 250.000 bản được bán ra, đĩa đơn đã nhận được chứng nhận Bạch Kim của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ).[15].

Là một nhóm nhạc dự án, IZ*ONE dự kiến hoạt động từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 4 năm 2021.[16] Tháng 1 năm 2021, có nguồn tin cho rằng CJ ENM đang thảo luận với công ty quản lý của các thành viên về khả năng kéo dài thời gian hoạt động của nhóm.[17] Tuy nhiên vào giữa tháng 3, Mnet xác nhận rằng IZ*ONE sẽ chính thức tan rã vào tháng 4 năm 2021 khi hết hạn hợp đồng, các thành viên sẽ trở về công ty quản lý gốc của mình. Thêm đó, sau khi tan rã đa số các cựu thành viên IZ*ONE đều ra mắt với các vị trí khác nhau tại các công ty chủ quản mới[18][19]

Ý nghĩa tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên của nhóm, IZ*ONE, được cư dân mạng đề xuất thông qua trang web chính thức của Produce 48 và được chọn bởi CJ E&M.[20] "IZ" được cách điệu từ số 12, ám chỉ đến việc nhóm có mười hai thành viên, "ONE" là một,[21] và dấu hoa thị (*) được đặt giữa "IZ" và "ONE" tượng trưng cho mười hai ngôi sao,[22][23] tổng thể mang ý nghĩa "khoảnh khắc mười hai ngôi sao với những màu sắc khác nhau hòa làm một".[24] Tên cộng đồng người hâm mộ chính thức của nhóm là WIZ*ONE (/ˈwɪz wʌn/ WIZ-wun, tiếng Hàn Quốc: 위즈원, tiếng Nhật: ウィズワン), "WIZ" là viết tắt của "Wizard" (pháp sư), mang ý nghĩa người hâm mộ và nhóm sẽ cùng nhau tạo nên những khoảnh khắc diệu kì.[25]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi được thành lập

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi tham gia Produce 48, một số thành viên đã có hoạt động nghệ thuật và thành tích nhất định. Miyawaki Sakura từng tham gia vào vở nhạc kịch Vua sư tử (2008–2009) của Shiki Theatre Company;[26][27] Yabuki Nako từng xuất hiện trong phiên bản live-action của Touch (2005), tham gia một số bộ phim truyền hình và quảng cáo khác;[28][29] trước khi cả hai gia nhập HKT48 lần lượt vào năm 2011 và 2013.[30][31] Honda Hitomi ra mắt vào năm 2014 với tư cách là thành viên của AKB48.[32] Kwon Eun-bi ra mắt cùng nhóm nhạc Ye-A dưới nghệ danh Ka.Zoo vào năm 2014 nhưng nhóm tan rã vào năm 2015.[33] Lee Chae-yeon từng là thí sinh của K-pop Star 3 (2013-2014) và Sixteen (2015) nhưng đều bị loại.[34] Sau đó cô rời JYP Entertainment và chuyển đến WM Entertainment. Jo Yu-ri từng tham gia chương trình Idol School vào năm 2017 nhưng xếp thứ 15 trong đêm chung kết và bị loại.[35] Kim Min-ju từng góp mặt trong một vài video âm nhạc và bộ phim truyền hình, nổi bật là Trò chơi tình yêu (2018) của đài MBC, cô đóng vai Choi Soo-ji (Moon Ga-young thủ vai) lúc trẻ.[36][37] An Yu-jin từng được đào tạo tại Jellyfish Entertainment trong 5 tháng, trước khi gia nhập Starship Entertainment. Cô cũng tham gia đóng nhiều quảng cáo và video âm nhạc, nổi bật là quảng cáo kính áp tròng Acuvue Vita.[38][39] Kang Hye-won từng thực tập tại HYWY Entertainment và nằm trong dự án ra mắt nhóm nhạc nữ DAYDAY nhưng sau đó bị loại và kế hoạch ra mắt nhóm cũng bị hủy.[40] Cô gia nhập 8D Creative sau khi rời HYWY Entertainment. Choi Ye-na từng là thực tập sinh của Polaris Entertainment, được đào tạo cùng với thành viên Heejin và Hyunjin của nhóm nhạc nữ Loona.

2018: Thành lập và ra mắt chính thức với COLOR*IZ

[sửa | sửa mã nguồn]

IZ*ONE được thành lập thông qua chương trình truyền hình thực tế sống còn Produce 48 được phát sóng trên kênh Mnet từ ngày 15 tháng 6 đến ngày 31 tháng 8 năm 2018. Chương trình là sự hợp tác giữa loạt chương trình Produce 101 Hàn Quốc và nhóm nhạc chị em của AKB48 đến từ Nhật Bản. Từ 96 thí sinh tham gia chương trình, chỉ mười hai thí sinh có thứ hạng cao nhất trong đêm chung kết trực tiếp được lựa chọn và thành lập nên IZ*ONE.[41][42]

IZ*ONE tại lễ trao giải Asia Artist Awards 2018

IZ*ONE chính thức ra mắt vào ngày 29 tháng 10 năm 2018 với mini-album đầu tay COLOR*IZ cùng bài hát chủ đề "La Vie en Rose" (Tiếng Hàn: 라비앙로즈; Romaja: Ra Bi Ang Rojeu).[10][43][44] Cùng ngày, nhóm tổ chức buổi show-con "COLOR*IZ Show-Con" tại Hội trường Olympic, Seoul, Hàn Quốc, và bán hết vé chỉ trong vòng vài phút mở bán.[45][46] IZ*ONE có cúp âm nhạc tuần đầu tiên trong sự nghiệp sau mười ngày chính thức ra mắt trên M Countdown, và phá kỷ lục lúc bấy giờ trở thành nhóm nữ có chiến thắng tuần sớm nhất kể từ lúc ra mắt.[47] COLOR*IZ bán được 34.000 bản trong ngày đầu phát hành, giúp IZ*ONE lập kỷ lục trở thành nhóm nữ có số album ra mắt bán ra trong ngày đầu cao nhất,[48][49] trong khi đó video âm nhạc của bài hát chủ đề "La Vie en Rose" đạt được hơn 4.5 triệu lượt xem trong vòng một ngày kể từ khi phát hành trên YouTube, trở thành video âm nhạc ra mắt có lượng xem trong 24 giờ đầu cao nhất.[50] Mini-album còn đạt thứ hạng cao nhất là thứ hai trên Gaon Album Chart và bán tổng cộng hơn 225.000 bản.[51][52] Hiệp hội Nội dung Âm nhạc Hàn Quốc (KMCA) trao chứng nhận Bạch Kim cho COLOR*IZ vào ngày 9 tháng 7 năm 2020, 20 tháng kể từ khi phát hành sau khi album bán được hơn 250.000 bản.[53] Với thành công thương mại kể từ ngày đầu ra mắt, IZ*ONE đã thắng hạng mục "Nghệ sĩ Mới của Năm" tại một số giải thưởng âm nhạc, bao gồm Mnet Asian Music Awards, Golden Disc Awards và Seoul Music Awards.[54] Màn ra mắt của IZ*ONE được Billboard cho là một trong những màn ra mắt đỉnh nhất của K-pop trong năm 2018.[55]

Ngày 6 tháng 12, công ty quản lý Off the Record thông báo nhóm đã ký hợp đồng thu âm với EMI Records Japan, công ty con của Universal Music Japan, nhằm chuẩn bị cho kế hoạch tấn công thị trường Nhật Bản của nhóm vào ngày 6 tháng 2 năm 2019.[56]

2019: Ra mắt tại Nhật Bản, HEART*IZ và tạm ngừng hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 20 tháng 1, IZ*ONE tổ chức buổi showcase ra mắt tại Nhật Bản ở Tokyo Dome City Hall để quảng bá cho đĩa đơn tiếng Nhật đầu tay "Suki to Iwasetai" (好きと言わせたい, "Suki to Iwasetai"? n.đ. "Muốn anh nói rằng anh thích em").[57] Năm ngày sau sự kiện, ngày 25 tháng 1, nhóm phát hành video âm nhạc cho đĩa đơn, trong khi đó đĩa đơn được chính thức phát hành vào ngày 6 tháng 2.[58] Nó đạt thứ hạng cao nhất là thứ 2 trên cả Oricon Singles Chart lẫn Billboard Japan Hot 100 và bán được hơn 200.000 bản trong tuần đầu tiên.[59][60] Ngày 8 tháng 3, Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) trao chứng nhận Bạch Kim cho đĩa đơn với hơn 250.000 đơn vị được bán ra, đây cũng là chứng nhận Bạch kim đầu tiên trong sự nghiệp của nhóm.[15]

IZ*ONE chính thức trở lại sân khấu Hàn Quốc vào ngày 1 tháng 4 với mini-album thứ hai HEART*IZ cùng bài hát chủ đề "Violeta" (Tiếng Hàn: 비올레타; Romaja: Biolleta).[61] Số lượng đặt trước album nội địa vượt 200.000 bản.[62] Sau khi được phát hành, HEART*IZ đứng đầu hai bảng xếp hạng Gaon Album và Oricon Overseas Album Charts, bán hơn 130.000 bản trong tuần đầu tiên, một kỷ lúc mới của nhóm nhạc K-pop nữ thời điểm đó.[63][64] KMCA trao chứng nhận Bạch Kim cho album vào ngày 10 tháng 10 sau khi bán được hơn 250.000 đơn vị.[65] HEART*IZ còn đạt thứ hạng cao nhất là thứ sáu trên bảng xếp hạng Billboard World Albums.[66] Trong khi đó, ca khúc chủ đề "Violeta" đạt thứ hạng cao nhất lần lượt là thứ mười tám và thứ năm trên Gaon Digital Chart và Billboard K-pop Hot 100.[67][68] Bài hát cũng đạt thứ hạng cao nhất là thứ tám trên Billboard World Digital Songs.[66] "Violeta" nhận được chiến thắng tuần đầu tiên trên SBS The Show vào ngày 9 tháng 4.[69]

IZ*ONE tại thảm đỏ lễ trao giải Gaon Chart Music Awards 2019

IZ*ONE chính thức thông báo về chuyến lưu diễn châu Á đầu tiên của mình mang tên Eyes On Me thông qua các trang mạng xã hội, với buổi hòa nhạc đầu tiên được tổ chức tại Nhà thi đấu Jamsil, Seoul, Hàn Quốc trong hai ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2019.[70] Tuy nhiên cả hai đêm diễn này đều bán hết sạch vé nên công ty quản lý Off the Record phải bổ sung thêm một buổi diễn nữa vào ngày 7 tháng 6.[71] Trong chuyến lưu diễn, nhóm biểu diễn hai bài hát mới chưa được phát hành trước đó, "Ayayaya" và "So Curious".[72] Nhìn chung, IZ*ONE biểu diễn tại tám thành phố nằm trong năm vùng lãnh thổ, và thu hút được tổng cộng 81.000 khán giả.

Nhóm phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ hai mang tên "Buenos Aires" vào ngày 26 tháng 6.[73] Đĩa đơn đứng đầu hai bảng xếp hạng nội địa Oricon Singles Chart và Billboard Japan Hot 100.[74][75] RIAJ trao chứng nhận Bạch Kim cho "Buenos Aires" vào tháng 7 năm 2019.[76] Ngày 25 tháng 9, IZ*ONE phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ ba của nhóm "Vampire".[77] Giống như đĩa đơn trước đó, "Vampire" đứng đầu hai bảng xếp hạng nội địa của Nhật và doanh số tuần đầu tiên đạt 200.000 bản,[78][79] nhờ đó nhận được chứng nhận Vàng của RIAJ.[76] "Vampire" cũng là sản phẩm tiếng Nhật duy nhất của nhóm xuất hiện trong bảng xếp hạng Billboard K-pop Hot 100, đạt thứ hạng cao nhất là 52.[80] Tiếp nối thành công thương mại trước đó, nhóm trở thành nghệ sĩ mới bán đĩa chạy nhất của Oricon trong nửa đầu năm 2019,[81] với doanh thu hơn 510 triệu yên Nhật (xấp xỉ 110 tỷ đồng Việt Nam vào thời điểm đó) tổng cộng tại Nhật từ ngày 10 tháng 12 năm 2018 đến ngày 9 tháng 6 năm 2019.[82][83]

IZ*ONE dự kiến tiếp đó sẽ phát hành album phòng thu tiếng Hàn đầu tay của mình, Bloom*Iz, vào ngày 11 tháng 11 năm 2019.[84] Tuy nhiên album bị hoãn ngày phát hành do cuộc điều tra thao túng phiếu bầu của Mnet, liên quan đến cả Fromis 9 từ Idol School và X1 từ Produce X 101.[85][86][87] Cuộc điều tra cho rằng 12 thành viên của nhóm đã được lựa chọn sẵn từ trước.[88] Do đó tất cả hoạt động của IZ*ONE, từ showcase đến quảng bá hay xuất hiện khách mời cũng đều hoãn vô thời hạn hoặc hủy bỏ,[86][89][90][91][92][93] kể cả bộ phim concert đầu tiên của nhóm IZ*ONE: Ngước nhìn tôi cũng hoãn ngày phát hành,[94] nhóm cũng không được quảng bá tại Nhật,[95][96] và IZ*ONE có nguy cơ phải tan rã.[97]

2020–2021: Quay trở lại hoạt động, BLOOM*IZ, Oneiric Diary, Twelve, One-reeler/Act IV và tan rã

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 6 tháng 1 năm 2020, Off The Record Entertainment chính thức xác nhận rằng tất cả các công ty chủ quản có liên quan cùng với CJ ENM đã đi đến thỏa thuận cho phép các thành viên được tiếp tục hoạt động cùng với nhóm.[98][99] Do đó, IZ*ONE phát hành album phòng thu đầu tiên của mình BLOOM*IZ với bài hát chủ đề "Fiesta" vào ngày 17 tháng 2.[100][101][102] Ngày 23 tháng 2, một tuần sau đó, Bloom*Iz phá kỷ lục trở thành album của nhóm nhạc nữ có số lượng bán ra tuần đầu cao nhất trên Hanteo với 356.313 bản trong bảy ngày; và cũng là nhóm nhạc nữ đầu tiên trong lịch sử bảng xếp hạng Hanteo vượt mốc 300.000 bản tuần đầu. KMCA trao chứng nhận Bạch Kim cho Bloom*Iz vào ngày 9 tháng 4 sau khi bán được 390.000 đơn vị.[103][104] Bên cạnh thành tích nội địa, BLOOM*IZ tiếp nối hai mini-album trước đó đứng đầu Oricon Overseas Album Chart.[105] "Fiesta" có chiến thắng tuần đầu tiên trên The Show của SBS vào ngày 25 tháng 2.

Ngày 19 tháng 5, IZ*ONE xác nhận mini-album thứ ba Oneiric Diary sẽ được phát hành vào ngày 15 tháng 6.[106] Ngày 15 tháng 6 năm 2020, nhóm phát hành Oneiric Diary cùng với bài hát chủ đề "Secret Story of the Swan" (Tiếng Hàn: 환상동화; Romaja: Hwansangdonghwa; Hán-Việt: Huyễn Tưởng Đồng Thoại), tuy nhiên video âm nhạc của bài hát lùi ngày phát hành sang trưa ngày hôm sau, ngày 16 tháng 6. Cùng ngày phát hành album, nhóm tổ chức buổi showcase trên kênh YouTube thứ hai của Mnet M2. Ngày 22 tháng 6, IZ*ONE được xác nhận một lần nữa phá kỷ lục doanh số album tuần đầu của nhóm nhạc nữ trên Hanteo lúc bấy giờ, nhóm bán được 389.334 bản trong vòng một tuần kể từ ngày phát hành.[107] Oneiric Diary ghi nhận hơn 510.000 bản được bán ra trên Gaon và nhận được chứng nhận Bạch Kim Kép vào ngày 6 tháng 8, trở thành một trong những album của nhóm nhạc nữ đầu tiên ở Hàn Quốc nhận được chứng nhận này, cùng với album More & More của Twice.[108][109]

Trong tháng 6, nhóm ra mắt phim điện ảnh IZ*ONE: Ngước nhìn tôi ([Eyes On Me: The Movie] Lỗi: {{Lang-xx}}: xung đột: {{{2}}} và |text= (trợ giúp)), phim từng dự kiến phát hành tháng 11 năm 2019 nhưng bị hoãn ngày công chiếu do lùm xùm xoay quanh nhóm thời điểm đó.[110] Ngày 6 tháng 8, Stone Music Entertainment chính thức thông báo về một buổi hòa nhạc trực tuyến diễn ra trong tháng 9 và bắt đầu mở bán vé từ ngày 11 tháng 8.[111] Ngày 13 tháng 9, IZ*ONE tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến solo đầu tiên của nhóm mang tên Oneiric Theater, đêm diễn kéo dài 160 phút và được hỗ trợ bởi công nghệ thực tế tăng cường và thực tế mở rộng nhằm tăng trải nghiệm cho người xem.[112][113]

Poster 'Oneiric Theater' của Izone

Ngày 2 tháng 9, IZ*ONE tiết lộ nhóm sẽ phát hành album phòng thu tiếng Nhật đầu tiên của mình, Twelve, vào ngày 21 tháng 10.[114] Trước khi chính thức phát hành Twelve hai tuần, vào ngày 7 tháng 10, IZ*ONE phát hành video âm nhạc cho bài hát chủ đề của album, "Beware" trên kênh YouTube chính thức của nhóm.[115] Album ra mắt tại vị trí thứ nhất trên Oricon Album Chart.[116]

Ngày 10 tháng 11, công ty đưa ra thông báo rằng IZ*ONE đang chuẩn bị cho sản phẩm âm nhạc mới sẽ phát hành vào thời điểm nào đó trong vào tháng 12.[117][118] Ngày 17 tháng 11, nhóm xác nhận sẽ quay trở lại vào ngày 7 tháng 12 với mini-album thứ tư One-reeler/Act IV.[119] Trước ngày phát hành album một ngày, ngày 6 tháng 12, tại sân khấu Giải thưởng Âm nhạc Châu Á Mnet năm 2020, IZ*ONE có một màn biểu diễn đặc biệt, lần đầu tiên trình diễn bài hát chủ đề của album "Panorama".[120][121] Album ra mắt tại ví trí đầu tiên trên Gaon Album Chart. Tháng 2 năm 2021, One-reeler/Act IV chính thức nhận được chứng nhận Bạch Kim từ Gaon sau khi bán được hơn 250.000 bản.[122][123]

Vào ngày 26 tháng 1 năm 2021, nhóm phát hành bài hát nhạc số "D-D-Dance" để quảng bá cho nền tảng giải trí K-Pop toàn cầu Universe, với video âm nhạc chính thức phát hành sau đó hai ngày.[124] Vào ngày 10 tháng 2, IZ*ONE xác nhận sẽ tổ chức buổi hòa nhạc trực tuyến mang tên One, The Story vào hai ngày 13 và 14 tháng 3.[125] Ngày 15 tháng 2, năm thành viên Kwon Eun-bi, Miyawaki Sakura, Kim Min-ju, Jo Yu-ri và Jang Won-young cùng tham gia vào đĩa đơn quảng bá "Zero:Attitude" cùng với Soyou, và pH-1. Bài hát được phát hành trong khuôn khổ chiến dịch Pepsi X Starship.[126] Ngoài ra nhóm còn tham gia vào album tổng hợp Rewind: Blossom Side và hát lại ca khúc nổi tiếng "3!4!" của Roo'ra.[127]

Vào giữa tháng 3 năm 2021, Mnet đưa ra thông báo rằng IZ*ONE sẽ tan rã vào tháng 4 năm 2021. "IZ*ONE ra mắt vào năm 2018 với album COLOR*IZ và đã phát triển thành nhóm nhạc nữ đại diện cho châu Á. Họ được yêu thích không chỉ ở Hàn Quốc mà còn trên toàn thế giới. Các hoạt động của IZ*ONE sẽ kết thúc vào tháng 4. Buổi hòa nhạc trực tuyến One, The Story dự kiến sẽ được tổ chức trong hai ngày 13 và 14 tháng 3 để tri ân những khán giả yêu mến IZ*ONE", Mnet thông báo.[18] Sau khi thông tin IZ*ONE sẽ tan rã được công bố, cộng đồng người hâm mộ WIZ*ONE đã phát động Dự án Parallel Universe (Tiếng Hàn: 평행우주 프로젝트; Romaja: Pyeonghaeng-uju Peurojekteu; dịch nguyên văn: ""Dự án Vũ trụ Song song"") vào ngày 21 tháng 4 năm 2021 với mục đích ngăn nhóm tan rã. Cái tên "Parallel Universe" xuất phát từ bài hát cùng tên được phát hành trong khuôn khổ buổi hòa nhạc cuối cùng của nhóm, One, The Story. Dự án đạt được cột mốc gây quỹ 1 tỷ Won Hàn Quốc (xấp xỉ hơn 20 tỷ Việt Nam đồng) chỉ sau 20 phút, và đạt hơn 2,186 tỷ Won Hàn Quốc (xấp xỉ 44,5 tỷ Việt Nam đồng) sau hai ngày.[128] Mặc dù nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ cộng đồng người hâm mộ, IZ*ONE vẫn tan rã theo kế hoạch trước đó. Ngày 29 tháng 4 năm 2021, hợp đồng của nhóm chính thức hết hạn, ba thành viên người Nhật là Miyawaki Sakura, Yabuki Nako và Honda Hitomi quay trở về nước, những thành viên còn lại trở về công ty quản lý của mình.[129] Sự tan rã của IZ*ONE được coi là một trong những mất mát lớn nhất và đầu tiên của K-pop trong năm 2021, theo Forbes.[130]

Ngày 19 tháng 6 năm 2021, có thông tin cho rằng CJ ENM và công ty của các thành viên IZ*ONE đang tích cực thảo luận về việc tái khởi động nhóm. Không lâu sau đó CJ ENM đưa ra thông báo rằng thông tin trên là đúng, nhưng các bên vẫn chưa đi đến một quyết định cụ thể nào.[131] Tuy nhiên đến ngày 6 tháng 7, dù đã có sự thảo luận tích cực giữa các bên, kế hoạch tái khởi động IZ*ONE bị huỷ bỏ do các công ty không thể đi đến một kết luận chung.[132]

Các hoạt động khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi chính thức ra mắt, IZ*ONE đã làm đại sứ và hợp tác với một số nhãn hàng như trò chơi điện tử Overhit,[133] thương hiệu quần áo Salewa,[134] và đồng phục trường học Skoolooks.[135] Sang đến năm 2019, nhóm tiếp tục trở thành gương mặt đại diện cho mỹ phẩm colorgram:TOK,[136] nền tảng thương mại điện tử G-Market,[137][138] trò chơi điện tử Fever Basket,[139] Sudden Attack[140][141] và ứng dụng di động LG U+ AR. Tuy nhiên, do vướng phải lùm xùm gian lận phiếu bầu của Mnet vào cuối năm 2019, mọi hoạt động của IZ*ONE, bao gồm cả đại sứ và quảng cáo, đều bị đóng băng cho đến khi nhóm hoạt động trở lại tháng 2 năm 2020.[142] Tháng 7 năm 2020, sáu thành viên của IZ*ONE được mời làm người mẫu quảng cáo cho thương hiệu kính áp tròng Miche Bloomin'.[143] Nhóm cũng xuất hiện trên một số tạp chí như Nylon[144]Non-no.[145] Năm 2021, năm thành viên Kwon Eun-bi, Miyawaki Sakura, Kim Min-ju, Jo Yu-ri và Jang Won-young, kết hợp cùng với Soyou và pH-1 tham gia vào Pepsi 2021 K-Pop Campaign của Pepsi X Starship, chiến dịch là nơi các nghệ sĩ K-Pop sẽ phát hành các ca khúc với những concept khác nhau, và phát hành bài hát "Zero:Attitude".[126]

Phong cách nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
"La Vie en Rose" (2018) Đoạn tiền điệp khúc cho đến phần đầu điệp khúc của "La vie en Rose", một ca khúc electropop sôi động, uyển chuyển.[12] Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn.

Kể từ khi mới ra mắt, IZ*ONE đã hợp tác với hai nhà sản xuất nổi tiếng Han Sung-soo và Akimoto Yasushi, ông Han Sung-soo chịu trách nhiệm cho sản phẩm tiếng Hàn, còn ông Akimoto Yasushi chịu trách nhiệm cho sản phẩm tiếng Nhật của nhóm.[146] Dòng nhạc chính mà IZ*ONE theo đuổi là EDM, cụ thể hơn là electropop và house.[4][11][12][13] Đĩa đơn ra mắt của nhóm, "La vie en Rose", được miêu tả như "một ca khúc electropop sôi động và uyển chuyển, hấp dẫn từ lúc bắt đầu cất lên và pha trộn giữa nhiều yếu tố". Đĩa đơn tiếp theo, "Violeta", là một ca khúc pop kết hợp cùng tropical house với phần mở đầu mang hơi hướng future bass. Sau đó là "Fiesta", một ca khúc future house sôi động với âm bass và âm synth bùng nổ. Sau khi sản xuất xong album Bloom*Iz và khép lại chuỗi tác phẩm Flower series, ông Han Sung-soo thông báo rằng mình sẽ ngừng việc sản xuất âm nhạc cho IZ*ONE kể từ tháng 4 năm 2020.[147]

Các thành viên của IZ*ONE bắt đầu tham gia vào quá trình sản xuất âm nhạc bắt đầu từ mini-album thứ hai Heart*Iz, khi Kim Min-ju và Honda Hitomi cùng tham gia viết lời cho bài hát "Really Like You", Kim Min-ju tham gia viết lời cho phiên bản tiếng Hàn của "Neko ni Naritai" và Lee Chae-yeon tham gia viết lời cho phiên bản tiếng Hàn của "Gokigen Sayonara".[148] Tiếp sau đó, trong album phòng thu đầu tiên của nhóm Bloom*Iz, Jang Won-young tham gia viết lời cho bài hát "Dreamlike", Kwon Eun-bi tham gia sáng tác và viết lời cho bài hát "Spaceship", Kim Min-ju tham gia viết lời cho bài hát "You&I" và Jo Yu-ri viết lời cho bài hát "Someday".[149] Sang đến mini-album thứ ba Oneric Diary, Honda Hitomi viết lời cho bài hát "Merry-Go-Round" cả phiên bản tiếng Hàn lẫn tiếng Nhật, Kwon Eun-bi tham gia sáng tác và các thành viên của IZ*ONE viết lời cho bài hát "With*One", và Miyawaki Sakura cùng với Yabuki Nako tham gia viết lời cho phiên bản tiếng Nhật của bài hát "Secret Story of the Swan".[150]

Chủ đề và hình tượng

[sửa | sửa mã nguồn]
Đội hình kết thúc trong video âm nhạc "La Vie en Rose"

Ba album tiếng Hàn đầu tay của IZ*ONE là COLOR*IZ, HEART*IZ, BLOOM*IZ đều nằm trong một chuỗi tác phẩm được gọi là Flower series và mang chủ đề về hoa. COLOR*IZ, phát âm giống như "colorize" có nghĩa là tô màu, mang ý nghĩa mỗi thành viên đều mang một màu sắc riêng biệt. Album chọn màu đỏ, qua trung gian là bông hoa hồng để thể hiện lòng nhiệt huyết của IZ*ONE. Trong video âm nhạc của bài hát chủ đề "La Vie en Rose", các cô gái "mang trên mình bộ trang phục đỏ và trang phục da, giống như chính bài hát tạo nên hai cảm giác đối lập, đó là có sức ảnh hưởng và nữ tính mềm mại", theo Tamar Herman.[12] Nối tiếp COLOR*IZHEART*IZ, kết hợp giữa "heart" và "IZ*ONE". Bài hát chủ đề "Violeta" được truyền cảm hứng từ câu chuyện cổ tích "Hoàng tử Hạnh phúc" và đại diện cho hoa tím, hay những người mà nhóm muốn gửi gắm tình cảm; còn IZ*ONE là chú chim én đem viên Saphir hạnh phúc đến cho ai cần; ngoài ra bài hát còn đem đến thông điệp mỗi cá nhân đều có giá trị của riêng mình.[151][152] Những điều đó đều được thể hiện ở vũ đạo con én của "Violeta".[153] Video âm nhạc của bài hát sử dụng "hình ảnh sống động mang chủ đề thiên nhiên", với "cảnh quay technicolor đầy mộng mơ cùng hoa cỏ, lăng kính tỏa sáng, nước té lung linh, và những thiết kế đầy tính thẩm mỹ khác".[154] Khép lại Flower seriesBLOOM*IZ, kết hợp giữa "bloom" và "IZ*ONE", mang ý nghĩa mười hai thành viên đang ở đỉnh cao nhan sắc và đã đến lúc nở rộ.[155] Đĩa đơn chủ đề "Fiesta" như mở ra một lễ hội hoa, "lấy những hào nhoáng lấp lánh của những năm 1920 rồi cập nhật thành phiên bản năm 2020, dọn ra một bữa tiệc toát lên vẻ sang trọng và xa hoa bậc nhất khi mười hai cô gái trình diễn ca khúc sôi động và vũ đạo ấn tượng của mình."[156]

Thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Ngày sinh Nơi sinh
Latinh Hangul Kana Hanja/Kanji Hán–Việt
Kwon Eun-bi[b] 권은비 クォン・ウンビ 權恩菲 Quyền Ân Phi 27 tháng 9, 1995 (29 tuổi) Seoul, Hàn Quốc Solo
Miyawaki Sakura 미야와키 사쿠라 みやわきさくら 宮脇咲良 Cung Hiếp Tiếu Lương 19 tháng 3, 1998 (26 tuổi) Kagoshima, Nhật Bản Thành viên nhóm LE SSERAFIM
Kang Hye-won 강혜원 カン・ヘウォン 姜惠元 Khương Huệ Nguyên 5 tháng 7, 1999 (25 tuổi) Busan, Hàn Quốc Diễn viên
Choi Ye-na 최예나 チェ・イェナ 崔叡娜 Thôi Duệ Na 29 tháng 9, 1999 (25 tuổi) Seoul, Hàn Quốc Solo
Lee Chae-yeon 이채연 イ・チェヨン 李彩演 Lý Thái Diễn 11 tháng 1, 2000 (24 tuổi) Chungcheong Nam, Hàn Quốc Solo
Kim Chae-won 김채원 キム・チェウォン 金采源 Kim Thái Nguyên 1 tháng 8, 2000 (24 tuổi) Seoul, Hàn Quốc Thành viên nhóm LE SSERAFIM
Kim Min-ju 김민주 キム・ミンジュ 金珉周 Kim Mẫn Châu 5 tháng 2, 2001 (23 tuổi) Seoul, Hàn Quốc Diễn viên
Yabuki Nako 야부키 나코 やぶきなこ 矢吹奈子 Thỉ Xuy Nại Tử 18 tháng 6, 2001 (23 tuổi) Tokyo, Nhật Bản Trở về Nhật Bản
Honda Hitomi 혼다 히토미 ほんだひとみ 本田仁美 Bản Điền Nhân Mỹ 6 tháng 10, 2001 (23 tuổi) Tochigi, Nhật Bản Trở về Nhật Bản
Jo Yu-ri 조유리 チョ・ユリ 曺柔理 Tào Nhu Lý 22 tháng 10, 2001 (23 tuổi) Busan, Hàn Quốc Solo
An Yu-jin 안유진 アン・ユジン 安兪真 An Hữu Trân 1 tháng 9, 2003 (21 tuổi) Chungcheong Bắc, Hàn Quốc Thành viên nhóm IVE
Jang Won-young[c] 장원영 チャン・ウォニョン 張員瑛 Trương Nguyên Anh 31 tháng 8, 2004 (20 tuổi) Seoul, Hàn Quốc Thành viên nhóm IVE
  • Chú thích: Thành viên In đậm là nhóm trưởng.[157]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Danh sách đĩa nhạc của Iz*One

Tiếng Hàn

Album phòng thu
  • BLOOM*IZ (2020)
Mini-album
  • COLOR*IZ (2018)
  • HEART*IZ (2019)
  • Oneiric Diary (2020)
  • One-reeler/Act IV (2020)

Tiếng Nhật

Album phòng thu
  • Twelve (2020)

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai diễn Tham khảo
2020 IZ*ONE: Ngước nhìn tôi (Eyes On Me: The Movie) Chính mình [158][159]

Chương trình thực tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Kênh Tên chương trình Ghi chú Tham khảo
2018 MnetBS Sky PerfecTV Produce 48 Chương trình thực tế sống còn thành lập nên IZ*ONE
Mnet IZ*ONE Chu Chương trình truyền hình thực tế ra mắt [160]
2019 AbemaTV IZ*ONE's First Steps in Japan [161]
Pooq IZ*ONE City [162]
Mnet IZ*ONE Chu – Secret Friend [163]
2020 IZ*ONE Chu – Fantasy Campus [164]
U+ Idol Live IZ*ONE Eat-ing Trip [165]
Mnet IZ*ONE Chu – On:Tact [166]
2021 U+ Idol Live IZ*ONE Eat-ing Trip 2 [167]
Universe Fantastic*Iz: Hidden School [168]
U+ Idol Live Iz*One Eat-ing Trip 3

Chuyến lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Danh sách chuyến lưu diễn của Iz*One

Chuyến lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
  • IZ*ONE 1st Concert "Eyes On Me" (2019)

Buổi hòa nhạc độc lập

[sửa | sửa mã nguồn]
  • COLOR*IZ Show-Con Showcase (2018)[45][46]
  • IZ*ONE Japan Debut Showcase 1st Single "Suki to Iwasetai" Release Commemoration Event (2019)[169]

Buổi hòa nhạc trực tuyến

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Iz*One 1st Online Concert "Oneiric Theater" (2020)[112]
  • Iz*One 2nd Online Concert "One, The Story" (2021)[125]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Danh sách giải thưởng và đề cử của Iz*One

Chỉ vài tháng sau khi ra mắt, IZ*ONE đã nhận được nhiều giải thưởng tân binh ở các lễ trao giải lớn như Asia Artist Awards,[170] Gaon Chart Music Awards,[171] Golden Disc Awards,[172] Mnet Asian Music Awards[173] và Seoul Music Awards.[174] Ngoài ra trong suốt quá trình hoạt động, nhóm còn được đề cử và nhận được một số giải thưởng tại Genie Music Awards,[175] Japan Gold Disc Award,[176][177] MTV Europe Music Awards[178] và Soribada Best K-Music Awards.[179][180]

Trên các chương trình âm nhạc hàng tuần, IZ*ONE đã giành được tổng cộng 21 chiếc cúp. Nhóm nhận được chiếc cúp tuần đầu tiên trong sự nghiệp của mình vào ngày 8 tháng 11 trên chương trình M Countdown với ca khúc "La Vie en Rose", chỉ mười ngày kể từ khi chính thức ra mắt, và lập kỷ lục trở thành nhóm nhạc nữ đạt được cột mốc này nhanh nhất tại thời điểm đó.[47]

Ghi chú

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tháng 8 năm 2021, CJ ENM chính thức hợp nhất các hoạt động sản xuất nội bộ những công ty quản lý của mình là Stone Music Entertainment, One Effect Entertainment, Studio Blu, Off the Record và thành lập nên WakeOne.[1][2]
  2. ^ Trong tập thứ hai của IZ*ONE Chu, Kwon Eun-bi được các thành viên lựa chọn làm nhóm trưởng.[157]
  3. ^ Đứng thứ nhất chung cuộc Produce 48, Jang Won-young trở thành gương mặt đại diện của nhóm.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “CJ ENM "Mnet max 론칭·웨이크원 출범, 음악산업 리더 될 것"”. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2022.
  2. ^ “Cj Enm "산하 엔터테인먼트 통합해 웨이크원으로 출범"”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2022.
  3. ^ “AKSが国内AKB全グループから撤退...HKTなど6グループは独立採算制に”. Daily Sports (bằng tiếng Nhật). ngày 20 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2020.
  4. ^ a b c Herman, Tamar (ngày 29 tháng 10 năm 2018). “Korean-Japanese Girl Group IZ*ONE Releases First Single 'La Vie en Rose'”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2018.
  5. ^ Kwak, Yeon-soo (ngày 30 tháng 10 năm 2018). “'Produce 48' project group IZ*ONE makes debut”. The Korea Times. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2018.
  6. ^ “Fresh out of idol competition show, girl band Iz One debuts with 'Color*Iz'”. The Korea Herald. ngày 29 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2018.
  7. ^ “아이즈원·프로미스나인, 오프더레코드서 한솥밥(공식)”. NAVER (bằng tiếng Hàn). ngày 21 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2018.
  8. ^ “[단독] 아이즈원, 플레디스 떠나 CJ+'워너원 소속사' 스윙+오프더 손잡는다”. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). 10 tháng 3 năm 2020. Truy cập 12 tháng 4 năm 2020.
  9. ^ Yim, Hyun-su (ngày 2 tháng 9 năm 2018). “Meet the 12 members of IZ*ONE as 'Produce 48' wraps up”. Kpop Herald. Herald Corporation. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2018.
  10. ^ a b “[단독] "국민 픽" 아이즈원, 10월 29일 데뷔 확정...본격 韓日 걸그룹” (bằng tiếng Hàn). ngày 4 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2018.
  11. ^ a b “IZ*ONE DISCOGRAPHY” (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2020.
  12. ^ a b c d “IZ*ONE Bloom Back on World Albums & World Digital Song Sales Charts With Third Album” (bằng tiếng Anh). ngày 27 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2020.
  13. ^ a b “Mãn nhãn với thế giới cổ tích trong MV "Secret Story of the Swan" của IZ*ONE”. ngày 16 tháng 6 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2020.
  14. ^ a b Benjamin, Jeff (ngày 8 tháng 11 năm 2018). “IZ*ONE Debut in Top 10 of World Albums & World Digital Song Sales Charts”. Billboard. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2019.
  15. ^ a b “ハイスタ、欅坂46が3プラチナ キスマイ、IZ*ONE、STU48、NMB48がプラチナ 2月度レコ協認定”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). ngày 8 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc 10 tháng 8 năm 2019. Truy cập 20 tháng 7 năm 2019.
  16. ^ “대중 사로잡지 못한 '프로듀스48', 아이즈원은 꽃길을 걸을 수 있을까?”. Within News. ngày 4 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2021.
  17. ^ “[단독] 아이즈원, 연장 논의 박차...계약 과정에서 잡음 흘러나와”. Ilgan Sports. ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2021.
  18. ^ a b “[전문] 아이즈원 4월 해체 "예정대로 마무리"”. Sports Donga (bằng tiếng Hàn). ngày 10 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2021.
  19. ^ “아이즈원, 결국 해체 [공식]”. eDaily (bằng tiếng Hàn). ngày 10 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2021.
  20. ^ “PRODUCE 48” (bằng tiếng Hàn). CJ ENM. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2018.
  21. ^ '프로듀스48' 장원영·사쿠라에 이채연까지..12人 반전의 최종순위[종합]” (bằng tiếng Hàn). ngày 31 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
  22. ^ Jang, Woo-young (ngày 31 tháng 8 năm 2018). “'프로듀스48', 데뷔 그룹명은 '아이즈원'”. SpoTV News (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2020.
  23. ^ “[이슈Q] '프로듀스48' 아이즈원의 '이모저모', 이름 뜻부터 장원영부터 이채연까지 韓 연습생 소속사는?”. SportsQ (bằng tiếng Hàn). ngày 6 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2020.
  24. ^ Ý nghĩa tên gọi IZ*ONE:
    • “IZ*ONE DISCOGRAPHY (xem tab COLOR*IZ)” (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2020.
  25. ^ “IZ*ONE Reveals Fan Club Name On Debut Day”. Soompi (bằng tiếng Anh). 29 tháng 10 năm 2018. Truy cập 10 tháng 4 năm 2020.
  26. ^ HKT48宮脇咲良の"魂が震える"名言集!常に最前線で戦ってきたパイオニアの覚悟とは!? [HKT48 Sakura Miyawaki's "soul trembling" words of wisdom! What is the resolution of this pioneer who has always fought on the forefront!?]. Nifty News (bằng tiếng Nhật). Nifty Corporation. ngày 7 tháng 9 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2018.
  27. ^ “WHAT'S NEW -NUTS PRODUCTION-” (bằng tiếng Nhật). Nuts Production. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2018.
  28. ^ HKT矢吹奈子、映画「タッチ」南役にメンバー驚き [HKT's Nako Yabuki played Minami in the film "Touch", surprises members]. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sports. ngày 21 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2018.
  29. ^ 矢吹奈子のCM出演情報 [Nako Yabuki's CM appearance information]. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2018.
  30. ^ HKT48、地元博多で「手をつなぎながら」公演スタート [HKT48 begin start performing at their local Hakata theatre with "Te o Tsunagi nagara" stage]. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2018.
  31. ^ HKT48ひまわり組の初日公演で3期生サプライズお披露目 [Third generation members make a surprise announcement at the HKT48 Sunflower Team opening day performance]. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2018.
  32. ^ チーム8の始動メンバーは九州と関東の混成チーム! [Team 8's first members are a mixed team from Kyushu and Kanto]. エンタメNEXT (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2018.
  33. ^ “권은비, 걸그룹 '예아'로 활동 당시 모습 보니 '핑크색 머리 눈길'”. MTN (bằng tiếng Hàn). ngày 16 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
  34. ^ “K팝3→식스틴→프듀48, 아이즈원 12등 이채연의 감동 스토리[스타와치]”. Newsen (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
  35. ^ “[아이즈원 매력 탐구①] 1위 장원영부터 6위 야부키 나코까지..."국프 사랑 내꺼야"”. MBN (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
  36. ^ “[TV캡처] '프로듀스 48' 김민주 "아이콘 MV·'위대한 유혹자' 출연"”. Stoo Asiae (bằng tiếng Hàn). ngày 15 tháng 6 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2018.
  37. ^ “김민주, '위대한 유혹자'서 첫 드라마 데뷔...문가영 아역”. tenasia (bằng tiếng Hàn). ngày 13 tháng 3 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2018.
  38. ^ Lee, Byul (ngày 29 tháng 8 năm 2017). “청순한 '여대생' 같은 아큐브 광고 모델의 놀라운 정체”. Insight (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2018.
  39. ^ Kim, So-yeon (ngày 11 tháng 4 năm 2018). “'프로듀스48' 출연하는 '올해 16살' 아큐브 모델 안유진”. Insight (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2018.
  40. ^ “The Groups IZ*ONE Kang HyeWon Almost Debuted In Before Produce 48”. Kpopmap (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 9 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2018.
  41. ^ '프로듀스48' PD "투표는 한국에서만...최종 12인 국적 구분 NO"”. Hankook Ilbo (bằng tiếng Hàn). ngày 11 tháng 6 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
  42. ^ “[★밤TView]'프듀48' 장원영, 1등으로 아이즈원 데뷔..12등 이채연”. Star News (bằng tiếng Hàn). ngày 31 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2018.
  43. ^ “[단독]프듀48 '아이즈원', 첫 일정 'AKB48 프로듀서와 상견례'...4일 일본行”. Sports Seoul (bằng tiếng Hàn). ngày 2 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2018.
  44. ^ “아이즈원, 첫 미니 앨범 '컬러아이즈' 오피셜 포토 공개...'채연-민주-채원-히토미'”. Top Star News (bằng tiếng Hàn). ngày 14 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  45. ^ a b Ahn, Yun-ji (ngày 16 tháng 10 năm 2018). “아이즈원 측 "29일 쇼콘으로 데뷔 확정"(공식입장)”. MBN (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2018.
  46. ^ a b “아이즈원, 데뷔 쇼콘 1분만에 전석 매진..'동시접속자 15만 육박'[공식입장]”. OSEN (bằng tiếng Hàn). ngày 19 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2018.
  47. ^ a b “아이즈원, '엠카' 1위로 데뷔 첫 트로피..트와이스·케이윌 컴백 [종합]”. OSEN (bằng tiếng Hàn). ngày 8 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2018.
  48. ^ "역시 아이즈원"...하루만에 역대 걸그룹 데뷔앨범 초동 신기록 달성”. OSEN (bằng tiếng Hàn). ngày 30 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2018.
  49. ^ “아이즈원 데뷔곡 멜론 9위...주요 차트 상위권 안착”. EDaily (bằng tiếng Hàn). ngày 30 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2018.
  50. ^ “아이즈원, 데뷔 그룹 신기록... '라비앙로즈' MV 24시간 455만뷰”. Seoul Newspaper (bằng tiếng Hàn). ngày 30 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2018.
  51. ^ Color*Iz charting peak (see #2)”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2018.
  52. ^ Doanh số tích lũy của Color*Iz:
    • Color*Iz (Kino) latest sales (see #48)”. Gaon (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2019.
    • Color*Iz 2018 sales (see #24)”. Gaon (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2019.
    • Color*Iz 2019 latest sales (see #31)”. Gaon (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2019.
  53. ^ “Color*Iz Platinum Certification”. Gaon Music Chart. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2020.
  54. ^ '최고의 루키' 아이즈원, 신인상 5관왕 쾌거..."모두 위즈원의 사랑 덕분"”. iMBC (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2019.
  55. ^ Herman, Tamar (29 tháng 12 năm 2018). “10 Best New K-Pop Acts of 2018”. Billboard. Truy cập 13 tháng 5 năm 2020.
  56. ^ “아이즈원, 내년 2월 日 데뷔...글로벌 행보 시작”. Hankook Ilbo (bằng tiếng Hàn). ngày 6 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2019.
  57. ^ “IZ*ONE、日本デビューショーケースが大盛況!「世界の方に愛されるIZ*ONEでいたい」(M-ON!Press(エムオンプレス)) – ...”. archive.is. ngày 3 tháng 2 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2019.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  58. ^ “YouTube Stats of IZ*ONE (아이즈원) – '好きと言わせたい (Suki to Iwasetai)' MV”. kworb.net. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2019.
  59. ^ “IZ*ONEが合算シングルでも1位【オリコンランキング】”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). ngày 3 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020.
  60. ^ “【ビルボード】Kis-My-Ft2「君を大好きだ」が3冠で総合首位獲得 総合2位のIZ*ONE「好きと言わせたい」とわずか約250ポイント差”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). ngày 13 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020.
  61. ^ "글로벌 꽃길은 계속" 아이즈원, 韓日서 예고한 2번째 신드롬(종합)”. YTN (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2019.
  62. ^ Park, Jin-young (ngày 29 tháng 3 năm 2019). “아이즈원, 미니 2집 선주문 판매량 20만 돌파..대세 그룹 입증 [공식입장]”. OSEN (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2019 – qua Naver.
  63. ^ Kim, Sun-woo (ngày 8 tháng 4 năm 2019). “아이즈원, 역대 걸그룹 앨범 초동 신기록...13만장 돌파”. Sports Seoul (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2020.
  64. ^ Kim, Kyung-hee (ngày 11 tháng 4 năm 2019). “아이즈원(IZ*ONE), '하트아이즈(HEART*IZ)'으로 日 오리콘 해외 앨범 차트 1위”. Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2019.
  65. ^ Heart*Iz's Platinum certification”. Gaon Music Chart. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2020.
  66. ^ a b Benjamin, Jeff (ngày 15 tháng 4 năm 2019). “IZ*ONE Hits New Peak on World Albums Chart With 'HEART*IZ'”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2020.
  67. ^ "Violeta" on Gaon Digital Chart”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020.
  68. ^ "Violeta" on Billboard K-pop 100”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020.
  69. ^ Jeong, An-ji (ngày 10 tháng 4 năm 2019). “'더쇼' 아이즈원, 컴백 9일 만에 '비올레타' 1위...깜찍 제비 분장 공약”. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2019.
  70. ^ “아이즈원, 6월 데뷔 첫 단독 콘서트 개최..5월 티켓 오픈 [공식입장]”. OSEN (bằng tiếng Hàn). ngày 25 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2019.
  71. ^ “아이즈원, 데뷔 첫 콘서트 선예매 전석 매진..역대급 티켓 전쟁 [공식]”. OSEN (bằng tiếng Hàn). ngày 8 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2019.
  72. ^ Jo, Sung-woon (ngày 10 tháng 6 năm 2019). “[종합] "또 다른 기적" 아이즈원 첫 단독 콘서트, 눈물의 마무리”. Sports DongA (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2020.
  73. ^ “IZ*ONE、シングル『Buenos Aires』MV公開”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). ngày 13 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2020.
  74. ^ "Bueno Aires" on Oricon Singles Chart” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2019.
  75. ^ "Buenos Aires" on Billboard Japan Hot 100”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2019.
  76. ^ a b “ゴールドディスク認定 一般社団法人 日本レコード協会” (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2019. Note: To retrieve all album certifications, 1) type in IZ*ONE in the box "アーティスト", 2) click 検索
  77. ^ “IZ*ONE 日本3rdシングル「Vampire」WIZ*ONE盤CD発売記念 「個別ハイタッチ会」「個別メッセージカードお渡し会」「個別サイン会」開催のご案内 | News”. IZ*ONE Japan Official Site. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  78. ^ "Vampire" on Billboard Japan Hot 100”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2019.
  79. ^ “IZ*ONE、シングル2作連続1位 3作連続初週売上20万枚超え【オリコンランキング】”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). ngày 1 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2020.
  80. ^ 21 tháng 9 năm 2019 “"Vampire" on Billboard K-pop Hot 100” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). ngày 21 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2020.
  81. ^ “IZ*ONE、上半期新女王に手応え 宮脇咲良「まだまだ達成したいことがある」”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). ngày 22 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2020.
  82. ^ “【オリコン上半期】IZ*ONE、新人部門総売上額1位”. Oricon News (bằng tiếng Nhật). ngày 20 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2020.
  83. ^ “[문화광장] 한일 합작 걸그룹 '아이즈원' 일본 오리콘차트 1위”. KBS News (bằng tiếng Hàn). ngày 28 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2020.
  84. ^ “아이즈원, 11월 11일 첫 정규 앨범 '블룸아이즈'로 컴백...트레일러 영상 공개”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 30 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2019.
  85. ^ “Mnet 측 "아이즈원 컴백 연기 확정, 물의 일으켜 진심으로 사과"(공식입장)”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 7 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2019.
  86. ^ a b “Girl band IZ*ONE postpones release of new album amid vote-rigging scandal”. The Korea Herald. ngày 7 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2019.
  87. ^ “IZONE hủy họp báo comeback vì bê bối gian lận tại Produce 48”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2023.
  88. ^ Kang, Jin-goo (ngày 5 tháng 12 năm 2019). “[단독] 아이즈원ㆍ엑스원 멤버 전원 시청자 투표 전 결정”. news.naver.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2020.
  89. ^ “tvN "'놀토' 9일 결방, 하이라이트 방송"..아이즈원 논란에 休(공식)”. Star News (bằng tiếng Hàn). ngày 7 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2019.
  90. ^ “[공식입장]MBC 측 "'마리텔2' 아이즈원, 안유진 포함 출연분 통편집 확정"(종합)”. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). ngày 7 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2019.
  91. ^ “아이즈원, 컴백쇼도 결국 취소...엠넷 재팬 발표 "대단히 죄송" 사과 [공식]”. My Daily (bằng tiếng Hàn). ngày 7 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2019.
  92. ^ “[공식입장]JTBC "아이즈원, '아이돌룸' 녹화 이미 완료...방송 여부 미정"”. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). ngày 7 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2019.
  93. ^ “아이즈원, 11일 컴백 쇼케이스 결국 취소(공식)”. Star News (bằng tiếng Hàn). ngày 7 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2019.
  94. ^ “IZ*ONEコンサートフィルム中止、関係者が逮捕”. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). ngày 8 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2019.
  95. ^ “IZ*ONE、日本での各種イベントが延期に”. Oricon (bằng tiếng Nhật). ngày 28 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.
  96. ^ “IZ*ONE、ファンクラブサイト更新&新規受付を一時休止 投票不正操作疑惑の余波”. Oricon (bằng tiếng Nhật). ngày 4 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2019.
  97. ^ “IZONE và X1: Bị tẩy chay, đứng trước nguy cơ tan rã”. ione. ngày 8 tháng 11 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2020.
  98. ^ “[단독] 아이즈원, 이르면 1월 내 활동 재개...이미 합의 완료”. SpoTVNews (bằng tiếng Hàn). ngày 6 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2020 – qua Naver.
  99. ^ “[단독] 아이즈원, 활동 재개 합의 완료”. TenAsia (bằng tiếng Hàn). ngày 6 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2020 – qua Naver.
  100. ^ “Gần 3 tháng ngừng hoạt động, IZ*ONE 'lẳng lặng' tung bộ ảnh mới với concept cô dâu mừng ngày comeback”.
  101. ^ “아이즈원, 오늘(17일) 컴백...정규 1집 앨범 발매”. Asiae (bằng tiếng Hàn). ngày 17 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2020 – qua Naver.
  102. ^ “아이즈원, 오늘(17일) 정규 '블룸아이즈' 발매...컴백쇼 개최”. YTN (bằng tiếng Hàn). ngày 17 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2020 – qua Naver.
  103. ^ “2020년 02월 Album Chart”. Gaon Music Chart. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2020.
  104. ^ “Bloom*Iz's Platinum Certification”. Gaon Music Chart. ngày 9 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2020.
  105. ^ Yonhap (ngày 26 tháng 2 năm 2020). “IZ*ONE's 'Bloom*Iz' tops Oricon weekly overseas album chart”. The Korea Herald (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2020.
  106. ^ “아이즈원, 6월 15일 컴백 확정...준비된 콘텐츠 순차적으로 공개 [공식]”. Xportsnews (bằng tiếng Hàn). ngày 18 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020 – qua Naver.
  107. ^ “걸그룹 아이즈원, '환상일기' 38만9000장 판매 기록...역대 걸그룹 최고 기록”. Munhwa Ilbo (bằng tiếng Hàn). ngày 22 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2020 – qua Naver.
  108. ^ “2020년 06월 Album Chart”. Gaon Music Chart. ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2020.
  109. ^ “Oneiric Diary's Double Platinum Certification”. Gaon Music Chart. ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2020.
  110. ^ “아이즈원 영화 '아이즈: 온 미', 7개월 만에 개봉..예매율 1위”. Sports News (bằng tiếng Hàn). ngày 8 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2021.
  111. ^ Ahn, Jin-yong (ngày 6 tháng 8 năm 2020). “아이즈원(IZ*ONE), 9월 온라인 콘서트 'ONEIRIC THEATER' 개최... 11일 티켓 오픈”. Munhwa Ilbo (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2021.
  112. ^ a b “아이즈원, 온라인 콘서트 'ONEIRIC THEATER'”. Naver News (bằng tiếng Hàn). ngày 14 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2020.
  113. ^ “IZ*ONEが生バンド従え新たな顔見せた配信ライブ、意外な選曲続出のユニットコーナーも”. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 15 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2020.
  114. ^ 2 tháng 9 năm 2020/ “IZ*ONE日本1stアルバム「Twelve」 リリース決定” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Universal Music Japan (bằng tiếng Nhật). ngày 2 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2020.[liên kết hỏng]
  115. ^ “ガオガオダンスに注目!IZ*ONE(アイズワン)日本1stアルバム「Twelve」タイトル曲「Beware」MV公開”. K-Plaza (bằng tiếng Nhật). ngày 7 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2020.
  116. ^ 2 tháng 11 năm 2020/ 週間 アルバムランキング 2020年11月02日付 Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) [Weekly Album Ranking 2020/11/02] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2020.
  117. ^ Hwang, Ji-young (ngày 10 tháng 11 năm 2020). “아이즈원, 12월 컴백...막바지 앨범 작업 중 [공식]”. Naver (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2020.
  118. ^ “5 tháng trước khi hết hạn hợp đồng, IZ*ONE thông báo comeback vào tháng Mười Hai”. Billboard Vietnam. 10 tháng 11 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2021. Truy cập 11 tháng 3 năm 2021.
  119. ^ “[단독] 아이즈원, 12월 7일 컴백 확정”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 17 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2020.
  120. ^ “[공식] 아이즈원, '2020 MAMA'서 신곡 '파노라마' 무대 최초공개”. Sports Chosun. ngày 6 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2020.
  121. ^ “IZ*ONE chốt năm bằng MV "Panorama", gây ấn tượng từ giây đầu tiên với vũ đạo "hoa nở"”. Billboard Vietnam. 7 tháng 12 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2023. Truy cập 11 tháng 3 năm 2021.
  122. ^ Doanh số tổng của One-reeler / Act IV: 437,282 (CD) + 19,051 (Kit)
    • “2020년 12월 Album Chart (One-reeler / Act IV: see #2 (CD), #22 (Kit))”. Gaon (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập 7 tháng 1 năm 2021.
    • “2021년 01월 Album Chart (One-reeler / Act IV: see #61 (CD)”. Gaon (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập 11 tháng 2 năm 2021.
  123. ^ “Gaon Certification - Album”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. Truy cập 11 tháng 2 năm 2021.
  124. ^ “NCSoft ra mắt nền tảng giải trí K-pop toàn cầu mới "Universe"”. 29 tháng 1 năm 2021. Truy cập 11 tháng 3 năm 2021.
  125. ^ a b “아이즈원, 온라인 콘서트 3월 개최”. eDaily (bằng tiếng Hàn). 10 tháng 2 năm 2021. Truy cập 11 tháng 3 năm 2021.
  126. ^ a b “소유X아이즈원XpH-1, 신곡 'ZERO:ATTITUDE' M/V 티저 공개”. iMBC 연예 (bằng tiếng Hàn). ngày 14 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2021.
  127. ^ “IZ*ONE to remake Roo'ra's '3!4!' for 'Rewind: Blossom' project Part. 2”. allkpop. Lưu trữ bản gốc 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập 7 tháng 4 năm 2021.
  128. ^ “IZ*ONE fans raise US$2million in hopes of keeping the group from disbanding”. NME (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2021.
  129. ^ “[단독]"안녕 위즈원~" 히토미 눈물-사쿠라 위로-나코 미소 속 아이즈원 日멤버 귀국[종합][★NEWSing]”. Star News (bằng tiếng Hàn). 29 tháng 4 năm 2021. Truy cập 29 tháng 4 năm 2021.
  130. ^ “Iz*One's Disbandment Marks The First Great Loss In K-Pop Of 2021”. Forbes (bằng tiếng Anh). 28 tháng 4 năm 2021. Truy cập 1 tháng 5 năm 2021.
  131. ^ “Người hâm mộ Hàn Quốc chờ đợi màn tái hợp của IZ*ONE”. Lao Động Trẻ. Ngày 19 tháng 6 năm 2021. Truy cập Ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  132. ^ Ziwei, Puah (6 tháng 7 năm 2021). “Talks to reunite IZ*ONE have allegedly fallen though”. NME (bằng tiếng Anh). Truy cập 6 tháng 7 năm 2021.
  133. ^ “IZ*ONE put on their trainee uniforms once again for mobile game 'OVERHIT' CF shooting + interview”. Allkpop. Beansss. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
  134. ^ “IZ*ONE x SALEWA winter coat collaboration excites fans worldwide”. Neo-Tokyo 2099. ngày 24 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
  135. ^ “아이즈원, 광고 모델로 화려한 나들이 '에쁜 애 옆에 또 예쁜 애'”. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). ngày 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2018.
  136. ^ “올리브영, '아이즈원'과 K-뷰티 브랜드 '컬러그램톡' 론칭”. Cos'in Korea. ngày 16 tháng 4 năm 2019. Truy cập 12 tháng 9 năm 2018.
  137. ^ “G마켓, 새 모델로 걸그룹 '아이즈원' 발탁”. Yonhap News. ngày 4 tháng 1 năm 2019. Truy cập 12 tháng 9 năm 2018.
  138. ^ “G마켓, 아이즈원 모델로 `G마켓은 됨` 캠페인 광고 온에어”. ngày 19 tháng 6 năm 2019. Truy cập 12 tháng 9 năm 2018.
  139. ^ “룽투, '피버 파스켓' 홍보모델로 '아이즈원' 선정”. ngày 27 tháng 2 năm 2019. Truy cập 12 tháng 9 năm 2018.
  140. ^ “넥슨 '서든어택', '통합시즌: 서든패스' 업데이트...'아이즈원' 신규 캐릭터로 등장”. ngày 1 tháng 8 năm 2019. Truy cập 12 tháng 9 năm 2018.
  141. ^ “여성 아이돌 '아이즈원'이 서든어택 캐릭터로 나온다”. ngày 1 tháng 8 năm 2019. Truy cập 12 tháng 9 năm 2018.
  142. ^ "아이즈원, 하룻밤새 방송·광고·영화계에서 '손절' 당했다"” (bằng tiếng Hàn). ngày 8 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2020.
  143. ^ “ミッシュブルーミン カラーコンタクトレンズのブランドミューズにIZ*ONEのメンバーから6名が決定!” (bằng tiếng Nhật). 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2018.
  144. ^ “아이즈원, 데뷔 첫 패션지 표지모델 장식 '위즈원 궁금증에 답해요'”. Sports DongA (bằng tiếng Hàn). ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2020.
  145. ^ “아이즈원, 데뷔 전 日 '논노' 화보 참여...독점 취재”. Sports DongA (bằng tiếng Hàn). ngày 27 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2018.
  146. ^ “"'우익 그룹' 아이즈원 방송 출연 그만" 여론 악화...청와대 국민청원까지”. Sports Today (bằng tiếng Hàn). Ngày 1 tháng 11 năm 2018. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.[liên kết hỏng]
  147. ^ “플레디스 한성수 대표 "아이즈원 프로듀싱 내달 마무리"(종합)”. Yonhap News (bằng tiếng Hàn). Ngày 10 tháng 3 năm 2020. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.
  148. ^ “IZ*ONE returns with new flower-themed album”. The Korea Herald (bằng tiếng Anh). Ngày 2 tháng 4 năm 2019. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.
  149. ^ “아이즈원 권은비·조유리 자작곡에 장원영·김민주 작사 참여”. JoongAng Ilbo (bằng tiếng Hàn). Ngày 4 tháng 11 năm 2019. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.
  150. ^ '15일 컴백' 아이즈원, 'Oneiric Diary' 타이틀곡은 '환상동화'..멤버들 수록곡 작사[공식]”. Osen (bằng tiếng Hàn). Ngày 8 tháng 6 năm 2020. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.
  151. ^ “IZ*ONE Calls You Their "Violeta"”. The Kraze (bằng tiếng Anh). Ngày 3 tháng 4 năm 2019. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.
  152. ^ “IZone shows special love for fans through 'Violeta'”. Osen (bằng tiếng Anh). Ngày 2 tháng 4 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2019. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.
  153. ^ '컴백' 아이즈원, 12색으로 피워낼 #비올레타 #콘서트 #소통 [종합]”. Xports news (bằng tiếng Hàn). Ngày 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.
  154. ^ “IZ*ONE Return to the K-Pop Scene With Vibrant 'Violeta' Video: Watch”. Billboard (bằng tiếng Anh). Ngày 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.
  155. ^ “아이즈원, 컴백 확정...정규 1집 커버 이미지 공개”. Kikmin Ilbo (bằng tiếng Hàn). Ngày 3 tháng 2 năm 2020. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.
  156. ^ “IZ*ONE Return Following Hiatus with Celebratory 'Fiesta': Watch the Music Video”. Billboard (bằng tiếng Anh). Ngày 17 tháng 2 năm 2020. Truy cập Ngày 14 tháng 9 năm 2018.
  157. ^ a b '아이즈원 츄' 권은비, 리더 몰카에 눈물...안유진X이채연 메소드 연기?”. MK Sports. ngày 2 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2018.
  158. ^ Kim, Hyun-Jung (ngày 19 tháng 5 năm 2020). “[단독] '6월 15일 컴백' 아이즈원, 뮤직비디오 촬영 완료 '기대감↑'”. X Sports News (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2020.
  159. ^ Lee, Jung-bum (ngày 21 tháng 10 năm 2019). “'아이즈 온 미', 예고편이 공개되는 순간 모두가 주목해 #11월극장으로가즈원 #아이즈원”. X Sports News (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2019.
  160. ^ Hwang, Ji-young (ngày 12 tháng 10 năm 2018). “아이즈원 리얼리티 '아이즈원 츄', 25일 Mnet 첫 방송”. JoongAng Ilbo (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2019.
  161. ^ Lee, Da-gyeom (ngày 8 tháng 1 năm 2019). “아이즈원, 첫 단독 웹예능 '입덕스쿨 아이즈원시티' 출격”. Maekyung (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2019 – qua Naver.
  162. ^ Jeong, An-ji (ngày 8 tháng 1 năm 2019). “아이즈원, 첫 단독 웹예능 출격... 입덕스쿨 아이즈원시티”. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2019 – qua Naver.
  163. ^ Kim, Ye-eun (ngày 15 tháng 3 năm 2019). “'아이즈원츄2' 티저, 교복 입은 러블리 아이즈원”. Newsen (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2019 – qua Naver.
  164. ^ Hwang, Ji-young (ngày 12 tháng 5 năm 2020). “아이즈원 리얼리티 '아이즈원츄3' 6월 편성..여름 컴백”. Ilgan Sports (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2020 – qua Daum.
  165. ^ “U+아이돌라이브, 아이즈원 속초 '먹방' 여행 단독공개”. iNews24 (bằng tiếng Hàn). ngày 26 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2020.
  166. ^ Hwang, Mi-hyun (ngày 15 tháng 9 năm 2020). “엠넷 '아이즈원츄', 23일 첫방송 확정...온택트 시대 리얼 일상”. News1 (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2020.
  167. ^ “LGU+ Unveils IZone's Eat-ing Trip Season 2”. Enews Today (bằng tiếng eng). 27 tháng 12 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2021. Truy cập 4 tháng 2 năm 2021.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  168. ^ “Universe App teases new IZ*ONE variety show 'Fantastic IZ: Hidden School'”. Allkpop (bằng tiếng Anh). 11 tháng 2 năm 2021. Truy cập 11 tháng 3 năm 2021.
  169. ^ “IZ*ONE、"グローバルアイドル"への大きな可能性 日本デビューショーケースイベントを観て”. Real Sound (bằng tiếng Nhật). ngày 26 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2019.
  170. ^
    • Jung, Kyung-won (ngày 28 tháng 11 năm 2018). “[2018 AAA] 아이즈원·스트레이키즈·(여자)아이들·더보이즈, 신인상 수상”. OSEN (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2018 – qua Naver.
    • Lee, Ji-hyun (ngày 28 tháng 11 năm 2018). “[2018 AAA] 아이즈원-스트레이키즈-아이들-더보이즈, 신인상 수상”. News1 (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2018 – qua Naver.
  171. ^ Lee, Eun-ho (ngày 23 tháng 1 năm 2019). “'가온차트뮤직어워드' 방탄소년단·아이콘 3관왕...허전한 가수석은 아쉬워”. Kuki News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2019.
  172. ^ “(종합)방탄소년단, 음반 대상·본상·인기상 싹쓸이...'4관왕 기염'[2019 골든디스크]”. Sports MK (bằng tiếng Hàn). ngày 6 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2019 – qua Naver.
  173. ^ *Sung, Mi-kyung (ngày 2 tháng 11 năm 2018). “방탄소년단·워너원·트와이스·아이즈원, '2018 MAMA' 뜬다..초호화 라인업 확정[공식입장]”. OSEN (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2018 – qua Naver.
    • Tan, Pakkee (ngày 16 tháng 12 năm 2018). “2018 Mnet Asian Music Awards Winners: The Complete List”. E! News. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2019.
  174. ^ Herman, Tamar (ngày 16 tháng 1 năm 2019). “BTS Wins Top Prize at 28th Seoul Music Awards”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2019.
  175. ^ “[MGMA] 방탄소년단, 대상 포함 6관왕 폭주...트와이스 '2관왕' (종합)”. Maekyung (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2019.
  176. ^ “第34回日本ゴールドディスク大賞”. Japan Gold Disc Award (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2020.
  177. ^ “아이즈원, 日 골드 디스크 2관왕 달성.."응원해준 팬 여러분 덕분"”. Naver. ngày 27 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2020.
  178. ^ “Ateez named Best Korean Act at MTV EMAs 2019 one year after their debut”. Metro UK (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2020.
  179. ^ '2019 SOBA' 박지훈vs방탄소년단, 트와이스vs마마무 남·녀 인기상 1위 경쟁 '치열'”. Maekyung (bằng tiếng Hàn). ngày 11 tháng 7 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2019.
  180. ^ 'Winners Of 2020 Soribada Best K-Music Awards'”. J.K (bằng tiếng Hàn). ngày 13 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2020.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về IZ*ONE.
  • Kênh Iz*One trên YouTube
  • Iz*One trên Facebook
  • Iz*One trên Instagram
  • Iz*One trên Twitter
  • Iz*One trên TikTok
  • Iz*One trên V Live
  • Iz*One trên Sina Weibo
  • IZ*ONE trên Daum Cafe
  • Website chính thức dành cho fanclub Nhật Bản
  • x
  • t
  • s
Iz*One
  • Kwon Eun-bi
  • Miyawaki Sakura
  • Kang Hye-won
  • Choi Ye-na
  • Lee Chae-yeon
  • Kim Chae-won
  • Kim Min-ju
  • Yabuki Nako
  • Honda Hitomi
  • Jo Yu-ri
  • An Yu-jin
  • Jang Won-young
Album phòng thu
Tiếng Hàn
  • Bloom*Iz
Tiếng Nhật
  • Twelve
Mini-album
  • Color*Iz
  • Heart*Iz
  • Oneiric Diary
  • One-reeler/Act IV
Đĩa đơn
Tiếng Hàn
  • "La Vie en Rose"
  • "Violeta"
  • "Fiesta"
  • "Secret Story of the Swan"
  • "Panorama"
Tiếng Nhật
  • "Suki to Iwasetai"
  • "Buenos Aires"
  • "Vampire"
Đĩa đơn quảng bá
  • "D-D-Dance"
  • "Zero:Attitude"
Đĩa đơn hợp tác
  • "Rise"
  • "Hitsuzensei" (IZ4648)
Phim
  • Iz*One: Ngước nhìn tôi
Trò chơi điện tử
  • IZ*ONE Remember Z
  • SuperStar IZ*ONE
Bài viết liên quan
  • Produce 48
  • Off The Record Entertainment
  • Swing Entertainment
  • Stone Music Entertainment
  • Genie Music
  • Universal Music Group (EMI Records Japan)
  • AKS
  • AKB48 Group
  •  Thể loại Thể loại
  •  Trang Commons Commons
  • Đĩa nhạc
  • Giải thưởng và đề cử
  • Chuyến lưu diễn
Bài viết liên quan tới IZ*ONE
  • x
  • t
  • s
Produce 101
Mùa
  • 1
    • thí sinh
  • 2
    • thí sinh
  • 3 (48)
    • thí sinh
  • 4 (X)
    • thí sinh
Spin-off
Trung Quốc
  • Sáng Tạo 101
  • Sáng tạo doanh 2019
  • Sáng tạo doanh 2020
  • Sáng tạo doanh 2021
Nhật Bản
  • 1
  • 2
  • 3 (The Girls)
Thí sinh chiến thắng
Mùa 1 (I.O.I)
  • Jeon So-mi
  • Kim Se-jeong
  • Choi Yoo-jung
  • Kim Chung-ha
  • Kim So-hye
  • Zhou Jieqiong
  • Jung Chae-yeon
  • Kim Do-yeon
  • Kang Mi-na
  • Lim Na-young
  • Yoo Yeon-jung
Mùa 2 (Wanna One)
  • Kang Daniel
  • Park Ji-hoon
  • Lee Daehwi
  • Kim Jae-hwan
  • Ong Seong-wu
  • Park Woo-jin
  • Lai Kuan-lin
  • Yoon Ji-sung
  • Hwang Min-hyun
  • Bae Jin-young
  • Ha Sung-woon
48 (IZ*ONE)
  • Jang Won-young
  • Miyawaki Sakura
  • Jo Yu-ri
  • Choi Ye-na
  • Ahn Yu-jin
  • Yabuki Nako
  • Kwon Eun-bi
  • Kang Hye-won
  • Honda Hitomi
  • Kim Chae-won
  • Kim Min-ju
  • Lee Chae-yeon
X (X1)
  • Kim Yo-han
  • Kim Woo-seok
  • Han Seung-woo
  • Song Hyeong-jun
  • Cho Seung-youn
  • Son Dong-pyo
  • Lee Han-gyul
  • Nam Do-hyon
  • Cha Jun-ho
  • Kang Min-hee
  • Lee Eun-sang
Thí sinh nổi bật khác
Mùa 1
  • An Ye-seul
  • Chu Ye-jin
  • Han Hye-ri
  • Heo Chan-mi
  • Hwang In-sun
  • Jeon So-yeon
  • Kang Si-ra
  • Ki Hui-hyeon
  • Kim Ju-na
  • Kim Si-hyeon
  • Kim So-hee
  • Kwon Eun-bin
  • Lee Hae-in
  • Lee Su-hyun
  • Park Si-yeon
  • Yoon Chae-kyung
Mùa 2
  • Choi Min-ki
  • Jeong Se-woon
  • Jin Longguo
  • Justin Huang
  • Kang Dong-ho
  • Kim Dong-han
  • Kim Jong-hyun
  • Kim Samuel
  • Kwon Hyun-bin
  • Lee Yoo-jin
  • Lim Young-min
  • Roh Tae-hyun
  • Yoo Seon-ho
  • Zhu Zhengting
48
  • Takahashi Juri
  • Matsui Jurina
  • Kim Si-hyeon
  • Kojima Mako
  • Miyazaki Miho
  • Shiroma Miru
  • Takeuchi Miyu
  • Hasegawa Rena
  • Murase Sae
  • Muto Tomu
  • Kim Da-yeon
  • Kato Yūka
X
  • Park Sun-ho
  • Song Yuvin
  • Lee Jin-hyuk
  • Kim Min-kyu
  • Choi Byung-chan
Danh sách đĩa nhạc
Mini-album
  • 35 Girls 5 Concepts
  • 35 Boys 5 Concepts
  • Produce 101 – Final
  • 30 Girls 6 Concepts
  • Produce 48 – Final
  • 31 Boys 5 Concepts
Đĩa đơn
  • "Pick Me"
  • "It's Me (Pick Me)"
  • "Never"
  • "Produce 101 Girls"
  • "Nekkoya (Pick Me)"
  • "X1-MA"
Bài viết liên quan
  • I.B.I
  • JBJ
  • Rainz
  • MXM
  • Longguo & Shihyun
  • Hyeongseop X Euiwoong
  • Điều tra gian lận phiếu bầu của Mnet
  • Thể loại Thể loại
  • x
  • t
  • s
AKB48
  • Danh sách thành viên
  • Danh sách đĩa nhạc
  • Danh sách video
  • Chuyến lưu diễn
Thành viên nổi bật
Team A
  • Iriyama Anna
  • Kato Rena
  • Chiba Erii
  • Miyazaki Miho
  • Mukaichi Mion
  • Yokoyama Yui
Team K
  • Komiyama Haruka
  • Muto Tomu
Team B
  • Kashiwagi Yuki
  • Oya Shizuka
Team 4
  • Okada Nana
  • Mã Gia Linh
Team 8
  • Sakaguchi Nagisa
  • Okabe Rin
  • Honda Hitomi
  • Yui Oguri
  • Shitao Miu
Đã tốt nghiệp
  • Sashihara Rino (chuyển tới HKT48)
  • Maeda Atsuko
  • Takahashi Minami
  • Nakagawa Haruka (chuyển tới JKT48)
  • Miyazawa Sae (chuyển tới SNH48/SKE48)
  • Kasai Tomomi
  • Shinoda Mariko
  • Itano Tomomi
  • Akmoto Sayaka
  • Oshima Yuko
  • Ikoma Rina
  • Kawaei Rina
  • Kitahara Rie (chuyển tới NGT48 (c))
  • Uchida Mayumi
  • Watanabe Mayu
  • Minegishi Minami
  • Kojima Haruna
  • Shimazaki Haruka
Unit
  • Chocolove
  • Diva
  • French Kiss
  • No Name
  • no3b
  • Not Yet
  • Queen & Elizabeth
  • Watarirouka Hashiritai 7
  • AnRiRe
Solo
  • Itano Tomomi (thành viên cũ)
  • Iwasa Misaki (thành viên cũ)
  • Kasai Tomomi (thành viên cũ)
  • Kashiwagi Yuki
  • Kuramochi Asuka (thành viên cũ)
  • Maeda Atsuko (thành viên cũ)
  • Matsu Sakiko (thành viên cũ)
  • Sashihara Rino (thành viên cũ)
  • Takahashi Minami (thành viên cũ)
  • Tsukamoto Mariko (thành viên cũ, AKB trưởng thành)
  • Watanabe Mayu (thành viên cũ)
Album
  • Set List: Greatest Songs 2006–2007
  • Kamikyokutachi
  • Koko ni Ita Koto
  • 1830m
  • Tsugi no Ashiato
  • Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe!
  • 0 to 1 no Aida
  • Thumbnail
  • Bokutachi wa, Ano Hi no Yoake wo Shitteiru
AKB48 Group
Nhóm nhạc hiện tại
  • SKE48
  • NMB48
  • HKT48
  • NGT48
  • STU48
  • JKT48
  • BNK48
  • MNL48
  • AKB48 Team SH
  • AKB48 Team TP
  • CGM48
Nhóm nhạc cũ
  • OJS48
  • SDN48
  • SNH48
  • TPE48
  • MUM48
  • DEL48
  • MUB48
  • SGO48
Chủ đề liên quan
  • Akimoto Yasushi
  • AKBingo!
  • AKB48 Show!
  • Majisuka Gakuen
  • AKB49: Ren'ai Kinshi Jōrei
  • AKB0048
  • AKB1/149 Ren'ai Sōsenkyo
  • Defstar Records
  • King Records
  • Sakamichi Series
  • "Kibō ni Tsuite"
  • "Tenohira ga Kataru Koto"
  • Eguchi Aimi
  • IZ*ONE
  • Vernalossom
Cổng thông tin:
  • Âm nhạc
  • icon Châu Á
  • flag Hàn Quốc
  • flag Nhật Bản
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • ISNI: 0000 0004 7541 5227
  • MBA: 49948ebe-bf1c-4823-b470-f2c9ab018686
  • NLK: KAB202001519
  • VIAF: 1552160486071305180006
  • WorldCat Identities (via VIAF): 1552160486071305180006
Bài viết tốt "Iz*One" là một bài viết tốt của Wikipedia tiếng Việt.Mời bạn xem phiên bản đã được bình chọn vào ngày 7 tháng 10 năm 2020 và so sánh sự khác biệt với phiên bản hiện tại.

Từ khóa » Tiểu Sử Về Izone