K-pop – Wikipedia Tiếng Việt

"KPOP" đổi hướng tới đây. Đối với các định nghĩa khác, xem KPOP (định hướng). Bài này viết về dòng nhạc pop tại Hàn Quốc hay còn gọi là Nam Triều Tiên. Đối với bài về nhạc pop tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên hay Bắc Triều Tiên, xin xem DPRK-pop.
K-pop
Nguồn gốc từ loại nhạc
  • Âm nhạc Triều Tiên
  • experimental
  • pop
  • phúc âm
  • latinh
  • R&B
  • hip hop
  • jazz
  • dân gian đương đại
  • cổ điển
  • đồng quê
  • rock
  • reggae
  • EDM
Nguồn gốc văn hóaThập niên 1940 tại Hàn Quốc
Nhạc cụ điển hình
  • Giọng hát
  • drum machine
  • trống điện
  • guitar bass
  • acoustic guitar
  • synthesizer
  • keyboard
  • sampler
  • sequencer
  • digital audio workstation
  • percussion
  • groovebox
Sân khấu địa phương
  • Seoul
  • Incheon
  • Busan
  • Jeju

K-pop (Tiếng Hàn: 케이팝; Romaja: keipap), viết tắt của cụm từ tiếng Anh Korean popular music tức nhạc pop tiếng Hàn hay nhạc pop Hàn Quốc, là một thể loại âm nhạc bắt nguồn từ Hàn Quốc như một phần của văn hóa Hàn Quốc.[1] Nó bị ảnh hưởng và copy các phong cách cũng như thể loại từ khắp nơi trên thế giới, chẳng hạn như pop, experimental, rock, jazz, phúc âm, hip hop, R&B, reggae, EDM, dân gian, đồng quê và cổ điển dựa trên nguồn gốc âm nhạc truyền thống Hàn Quốc.[2] Hình thức hiện đại hơn của thể loại này xuất hiện với sự hình thành của một trong những nhóm nhạc K-pop đời đầu, nhóm nhạc nam Seo Taiji and Boys, vào năm 1992. Việc họ thử nghiệm các phong cách và thể loại âm nhạc khác nhau và tích hợp các yếu tố âm nhạc nước ngoài đã giúp định hình lại và hiện đại hóa nền âm nhạc đương đại của Hàn Quốc.[3]

Văn hóa "thần tượng" K-pop hiện đại bắt đầu từ những năm 1990, khi K-pop phát triển thành một nền văn hóa phụ thu hút rất nhiều cộng đồng người hâm mộ của thanh thiếu niên và thanh niên.[4][5] Sau một thời gian sa sút trong giai đoạn đầu của K-pop, từ năm 2003, TVXQ và BoA đã bắt đầu một thế hệ thần tượng K-pop mới, phá vỡ thể loại âm nhạc này vào thị trường láng giềng Nhật Bản và tiếp tục phổ biến K-pop ra quốc tế ngày nay.[6][7] Với sự ra đời của các dịch vụ mạng xã hội trực tuyến và các chương trình truyền hình Hàn Quốc, sự lan rộng hiện nay của K-pop và giải trí Hàn Quốc, được gọi là Làn sóng Hàn Quốc, không chỉ được nhìn thấy ở Đông Á và Đông Nam Á, mà còn ở Pakistan, Bangladesh, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Bắc Phi, Nam Phi và Đông Phi, Trung Đông và khắp thế giới phương Tây, thu hút được khán giả quốc tế.

Thuật ngữ "K-pop" trở nên phổ biến vào những năm 2000. Trước đây, nhạc pop của Hàn Quốc được gọi là gayo (가요),[8][9] còn ở Việt Nam quen gọi là nhạc Hàn. Trong khi "K-pop" là một thuật ngữ chung cho âm nhạc phổ biến ở Hàn Quốc, nó thường được sử dụng với nghĩa hẹp hơn cho thể loại được mô tả ở đây. Trong năm 2018, K-pop đã có sự tăng trưởng đáng kể và trở thành một "người chơi quyền lực", đánh dấu mức tăng trưởng doanh thu 17,9%. Tính đến năm 2019, K-pop được xếp ở vị trí số 6 trong số 10 thị trường âm nhạc hàng đầu trên toàn thế giới theo "Global Music Report 2019" của Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm Quốc tế, với BTS và Blackpink được coi là nghệ sĩ dẫn đầu thị trường.[10] Vào năm 2020, K-pop đã trải qua một năm kỷ lục khi tăng trưởng 44,8% và khẳng định vị thế là thị trường lớn phát triển nhanh nhất trong năm.[11]

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Nội dung nghe nhìn

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù K-pop thường dùng để chỉ nhạc pop của Hàn Quốc, nhưng một số người coi đây là một thể loại tổng hợp thể hiện nhiều yếu tố âm nhạc và hình ảnh. Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (Institut national de l'audiovisuel) định nghĩa K-pop là "sự kết hợp của âm nhạc tổng hợp, các điệu nhảy sắc nét và những bộ trang phục thời trang, đầy màu sắc".[12] Các bài hát thường bao gồm một hoặc hỗn hợp thể loại pop, rock, hip hop, R&B và nhạc điện tử.

Đào tạo nghệ sĩ có hệ thống

[sửa | sửa mã nguồn]

Các công ty quản lý Hàn Quốc đưa ra những hợp đồng ràng buộc với các nghệ sĩ tiềm năng, đôi khi ở độ tuổi còn trẻ. Các thực tập sinh sống cùng nhau trong một môi trường quy định và dành nhiều giờ mỗi ngày để học hát, nhảy, nói ngoại ngữ và các kỹ năng khác để chuẩn bị cho sự ra mắt của họ. Hệ thống đào tạo kiểu "robot" này thường bị các hãng truyền thông phương Tây chỉ trích.[13] Vào năm 2012, The Wall Street Journal báo cáo rằng chi phí đào tạo một thần tượng Hàn Quốc bởi SM Entertainment được ước tính trung bình khoảng 3 triệu USD.[14]

Thể loại kết hợp và giá trị xuyên quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Lượt tìm kiếm K-pop trong giai đoạn 2008–2012 theo Google Trends.

K-pop là một sản phẩm văn hóa có "giá trị, bản sắc và ý nghĩa vượt ra ngoài giá trị thương mại nghiêm ngặt của chúng."[15] Nó được đặc trưng bởi sự pha trộn giữa âm thanh hiện đại của phương Tây và ảnh hưởng của người Mỹ gốc Phi (bao gồm âm thanh từ hip-hop, R&B, jazz, black pop, soul, funk, techno, disco, house và afrobeats) với khía cạnh biểu diễn của Hàn Quốc (bao gồm các bước nhảy đồng bộ, thay đổi đội hình và cái gọi là "điểm nhấn vũ đạo" bao gồm các chuyển động chính nối tiếp và lặp đi lặp lại). Người ta nhận xét rằng có một "tầm nhìn hiện đại hóa" vốn có trong văn hóa đại chúng Hàn Quốc.[16] Đối với một số người, các giá trị xuyên quốc gia của K-pop là nguyên nhân dẫn đến thành công của nó. Một nhà bình luận tại Đại học California, San Diego đã nói rằng "văn hóa đại chúng Hàn Quốc đương đại được xây dựng dựa trên... dòng chảy xuyên quốc gia... diễn ra xuyên suốt, xa hơn và bên ngoài ranh giới quốc gia và thể chế."[17] Một số ví dụ về các giá trị xuyên quốc gia vốn có trong K-pop có thể thu hút những người từ các nguồn gốc dân tộc, quốc gia và tôn giáo khác nhau bao gồm sự cống hiến cho chất lượng đầu ra và trình bày thần tượng, cũng như đạo đức làm việc và thái độ xã hội lịch sự của họ, có được nhờ thời gian đào tạo.[18]

Tiếp thị

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều công ty đã giới thiệu các nhóm nhạc thần tượng mới với khán giả thông qua một "debut showcase", bao gồm tiếp thị trực tuyến và quảng bá trên truyền hình thay vì phát thanh.[19] Các nhóm được đặt tên và "concept", cùng với một câu chuyện tiếp thị. Những khái niệm này là loại chủ đề hình ảnh và âm nhạc mà các nhóm nhạc thần tượng sử dụng khi ra mắt hoặc trở lại.[20] Các khái niệm có thể thay đổi giữa các lần ra mắt và người hâm mộ thường phân biệt giữa khái niệm nhóm nhạc nam và nhóm nhạc nữ. Các khái niệm cũng có thể được chia thành khái niệm chung và khái niệm chủ đề, chẳng hạn như dễ thương hoặc tưởng tượng. Các nhóm nhạc thần tượng mới thường sẽ ra mắt với concept nổi tiếng trên thị trường để đảm bảo một màn ra mắt thành công. Đôi khi các đơn vị nhỏ hoặc nhóm nhỏ được hình thành giữa các thành viên hiện có. Hai nhóm nhỏ ví dụ là Super Junior-K.R.Y., bao gồm các thành viên Kyuhyun, Ryeowook và Yesung của Super Junior, và Super Junior-M, sau này trở thành một trong những nhóm nhỏ K-pop bán chạy nhất ở Trung Quốc.[21]

Tiếp thị trực tuyến bao gồm các video âm nhạc được đăng lên YouTube để tiếp cận khán giả trên toàn thế giới.[19] Trước video thực tế, nhóm đã phát hành ảnh teaser và trailer. Các chu kỳ khuyến mại của các đĩa đơn tiếp theo được gọi là comeback ngay cả khi nhạc sĩ hoặc nhóm được đề cập không bị gián đoạn.[22]

Vũ đạo

[sửa | sửa mã nguồn]
Điệu nhảy cho "Gangsta", một bài nhảy điện tử của Noir, bao gồm điểm nhấn vũ đạo.[23]

Vũ đạo là một phần không thể thiếu của K-pop. Khi kết hợp nhiều ca sĩ, các ca sĩ thường chuyển đổi vị trí của họ trong khi hát và nhảy bằng cách thực hiện các chuyển động nhanh chóng đồng bộ, một chiến lược được gọi là "thay đổi đội hình" (tiếng Hàn Quốc: 자리바꿈, đã Latinh hoá: Jaribaggum).[24] Vũ đạo K-pop (tiếng Hàn Quốc: 안무, đã Latinh hoá: Anmu) thường bao gồm cái gọi là "điểm nhấn vũ đạo" (tiếng Hàn Quốc: 포인트 안무), đề cập đến một điệu nhảy được tạo thành từ các chuyển động nối tiếp và lặp đi lặp lại trong vũ đạo phù hợp với đặc điểm của lời bài hát.[25][26] "Sorry Sorry" của Super Junior và "Abracadabra" của Brown Eyed Girls là những ví dụ về những bài hát có "điểm nhấn" vũ đạo đáng chú ý. Để dàn dựng một điệu nhảy cho một bài hát, biên đạo phải tính đến nhịp độ.[27] Theo Ellen Kim, một vũ công kiêm biên đạo múa ở Los Angeles, khả năng thực hiện các bước nhảy tương tự của một người hâm mộ cũng phải được xem xét. Do đó, các biên đạo múa K-pop phải đơn giản hóa các động tác.[27]

Seven young men performing synchronised dance moves, wearing casual clothing. Some of them have dyed hair.
24K biểu diễn vũ đạo trong phòng tập.

Việc đào tạo và chuẩn bị cần thiết để các thần tượng K-pop thành công trong ngành và vũ đạo thành công là rất khó khăn. Các trung tâm đào tạo như Def Dance Skool ở Seoul phát triển kỹ năng nhảy của thanh thiếu niên để giúp họ trở thành thần tượng.[28] Huấn luyện thể chất là một trong những trọng tâm lớn nhất tại trường, vì phần lớn thời gian biểu của học sinh dựa trên khiêu vũ và tập thể dục.[28] Các công ty giải trí có tính chọn lọc cao, vì vậy rất ít người nổi tiếng. Học sinh tại trường phải dành cả cuộc đời của mình cho việc thuần thục vũ đạo để chuẩn bị cho những hoạt động sôi nổi do các nhóm nhạc K-pop biểu diễn. Điều này, tất nhiên, có nghĩa là khóa đào tạo phải tiếp tục nếu họ được ký kết. Các công ty có các trung tâm đào tạo lớn hơn nhiều cho những người được chọn.[28]

Một cuộc phỏng vấn với biên đạo múa K-pop Rino Nakasone cho thấy cái nhìn sâu sắc về quá trình tạo ra các thói quen. Theo Nakasone, trọng tâm của cô ấy là tạo ra các bài nhảy phù hợp với các vũ công nhưng cũng bổ sung cho âm nhạc.[29] Ý tưởng của cô được gửi đến công ty giải trí dưới dạng bản ghi video do các vũ công chuyên nghiệp thực hiện.[29] Nakasone đề cập rằng công ty và bản thân các nghệ sĩ K-pop đã đóng góp ý kiến ​​về vũ đạo của bài hát.[29] Biên đạo múa May J. Lee đưa ra một góc nhìn khác, nói rằng vũ đạo của cô ấy thường bắt đầu bằng việc thể hiện cảm xúc hoặc ý nghĩa của lời bài hát.[30] Điều gì bắt đầu khi những chuyển động nhỏ biến thành một điệu nhảy hoàn chỉnh để có thể lột tả tốt hơn thông điệp của bài hát.[30]

Thời trang

[sửa | sửa mã nguồn]

Sự xuất hiện của Seo Taiji and Boys vào năm 1992 đã mở đường cho sự phát triển của các nhóm nhạc K-pop đương đại.[31] Nhóm đã cách mạng hóa nền âm nhạc Hàn Quốc bằng cách kết hợp các quy ước nhạc rap và hip hop của Mỹ vào âm nhạc của họ.[32] Việc áp dụng phong cách phương Tây này đã mở rộng sang thời trang của nhóm nhạc nam: các thành viên áp dụng gu thẩm mỹ hip hop.[33] Seo Taiji và trang phục của các thành viên trong ban nhạc cho chu kỳ quảng bá của "Nan Arayo" (난 알아요, I Know) bao gồm thời trang dạo phố sôi động như áo phông và áo nỉ quá khổ, áo gió, quần yếm mặc một dây, quần yếm xắn lên một ống quần và áo thi đấu của đội thể thao Mỹ.[cần dẫn nguồn] Phụ kiện bao gồm mũ bóng chày đeo ngược, mũ xô và do-rags.[cần dẫn nguồn]

Như K-pop "được sinh ra từ các xu hướng hậu Seo Taiji",[33] nhiều nghệ sĩ theo sau Seo Taiji and Boys đã áp dụng cùng một phong cách thời trang. Deux và DJ DOC cũng có thể được nhìn thấy mặc quần áo thời trang hip hop theo xu hướng như quần baggy đáy xệ, đồ thể thao và quấn khăn trong các buổi biểu diễn của họ.[cần dẫn nguồn] Với việc âm nhạc đại chúng của Hàn Quốc trở thành phương tiện truyền thông chiếm ưu thế trong giới trẻ, các nhóm nhạc thần tượng tuổi teen được sản xuất bắt đầu ra mắt vào giữa và cuối thập niên 1990,[31] mặc trang phục phối hợp,[34] điều đó phản ánh xu hướng thời trang thịnh hành của giới trẻ vào thời điểm đó. Thời trang hip hop, được coi là phong cách phổ biến nhất vào cuối thập niên 90,[35] còn lại, với các nhóm nhạc thần tượng H.O.T. và Sechs Kies mặc phong cách cho các bài hát đầu tay của họ. Việc sử dụng phụ kiện nâng tầm phong cách của thần tượng từ thời trang hàng ngày đến trang phục biểu diễn, như kính trượt tuyết (đeo quanh đầu hoặc cổ), tai nghe đeo quanh cổ và găng tay quá khổ đeo để làm nổi bật các động tác vũ đạo đã được sử dụng rộng rãi.[cần dẫn nguồn] Bản hit "Candy" năm 1996 của H.O.T. thể hiện mức độ phối hợp có tính đến trang phục của thần tượng, vì mỗi thành viên đều mặc một màu được chỉ định và trang bị phụ kiện bằng sơn mặt, găng tay quá khổ mờ, kính che mặt, mũ xô, bịt tai và thú nhồi bông đã qua sử dụng, ba lô và túi xách làm đạo cụ.

Two women dancing, wearing colourful, trendy clothing and with exposed midriffs
Các thành viên của Baby Vox biểu diễn vào năm 2004.

Trong khi trang phục của các nhóm nhạc thần tượng nam được thiết kế với cách phối màu, chất liệu vải và phong cách tương tự nhau thì trang phục của mỗi thành viên vẫn giữ được cá tính riêng.[36] Mặt khác, các nhóm nhạc nữ của thập niên 90 mặc trang phục đồng nhất, thường được tạo kiểu giống hệt nhau.[36] Trang phục của các nữ thần tượng trong thời gian đầu quảng bá thường tập trung vào việc khắc họa hình ảnh ngây thơ, trẻ trung.[37] Lần ra mắt đầu tiên của S.E.S. vào năm 1997, "I'm Your Girl", và album thứ hai của Baby Vox năm 1998, "Ya Ya Ya", có các cô gái mặc trang phục màu trắng, "To My Boyfriend" của Fin.KL thể hiện thần tượng trong trang phục màu hồng trang phục nữ sinh, và "One" và "End" của Chakra trình bày trang phục theo phong cách Ấn Độ giáo và châu Phi. Để khắc họa hình ảnh tự nhiên và có phần ma mị, các phụ kiện chỉ giới hạn ở những chiếc nơ lớn, đồ trang trí trên tóc và dây buộc tóc. Với sự trưởng thành của các nhóm nhạc nữ và sự loại bỏ của bubblegum pop vào cuối thập niên 1990, các nhóm nhạc nữ tập trung vào việc chạy theo xu hướng thời trang bấy giờ, trong đó có nhiều bộ trang phục hở hang. Các hoạt động quảng bá mới nhất của các nhóm nhạc nữ Baby Vox and Jewelry thể hiện các xu hướng đang hot này của quần dài, váy ngắn siêu nhỏ, áo crop top, áo cánh nông dân, hàng may mặc trong suốt và áo cánh ở phần trên của thân áo.[cần dẫn nguồn]

Khi K-pop trở thành sự kết hợp hiện đại giữa văn hóa phương Tây và châu Á bắt đầu từ cuối thập niên2000,[38] xu hướng thời trang trong K-pop cũng phản ánh sự đa dạng và khác biệt. Các xu hướng thời trang từ cuối thập niên 2000 đến đầu thập niên 2010 phần lớn có thể được phân loại theo các mục sau:[39]

  • Đường phố: tập trung vào tính cá nhân; có màu sắc tươi sáng, kiểu dáng kết hợp và kết hợp, hình in đồ họa và các nhãn hiệu thể thao như Adidas và Reebok.
  • Retro: nhằm mục đích gợi lại "hoài niệm" từ những năm 1960-1980; có họa tiết dấu chấm và hoa văn chi tiết. Các mặt hàng quần áo phổ biến bao gồm áo khoác denim, quần ống rộng, quần ống rộng, băng đô, khăn quàng cổ và kính râm.
  • Gợi cảm: làm nổi bật sự nữ tính và nam tính; có trang phục hở hang làm bằng sa tanh, ren, lông thú và da. Các mặt hàng quần áo phổ biến bao gồm váy mini, áo nịt ngực, tất lưới, giày cao gót, áo vest cộc tay và áo sơ mi xuyên thấu.
  • Đen & Trắng: nhấn mạnh sự hiện đại và sang trọng, tượng trưng cho sự sang trọng và lôi cuốn, chủ yếu được áp dụng cho trang phục trang trọng.
  • Tương lai: thường mặc với các thể loại nhạc điện tử và hip hop; có các mặt hàng màu nổi bật, các chi tiết kim loại và bản in; thúc đẩy một triển vọng tương lai.
2NE1 biểu diễn "I Don't Care" — một ví dụ của phong cách đường phố.Wonder Girls biểu diễn "Nobody" — một ví dụ của phong cách retro.Một cảnh quay của 2PM — một ví dụ của phong cách gợi cảm.MBLAQ biểu diễn "Y" — một ví dụ của phong cách đen & trắng.

K-pop có ảnh hưởng đáng kể đến thời trang ở châu Á, nơi bắt đầu xu hướng của các thần tượng và được khán giả trẻ theo đuổi.[40] Một số thần tượng đã trở thành biểu tượng thời trang, chẳng hạn như G-Dragon,[41] và CL, người từng nhiều lần làm việc với nhà thiết kế thời trang Jeremy Scott, được gọi là "nàng thơ" của anh.[42][43]

Theo giáo sư Ingyu Oh, "K-pop nhấn mạnh vẻ ngoài gầy, cao và nữ tính với biểu cảm khuôn mặt tuổi vị thành niên hoặc đôi khi rất dễ thương, bất kể họ là ca sĩ nam hay nữ."[44]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Thập niên 1980: Kỷ nguyên nhạc ballad

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Nhạc ballad Hàn Quốc

Thập niên 1980 chứng kiến ​​sự nổi lên của các ca sĩ ballad sau khi album You're Too Far Away to Get Close to (가까이 하기엔 너무 먼 당신, Gakkai Hagien Neomu Meon Dangsin) năm 1985 của Lee Gwang-jo, đã bán được hơn 300,000 bản. Các ca sĩ ballad nổi tiếng khác bao gồm Lee Moon-se (이문세) và Byun Jin-sub (변진섭), có biệt danh là "Hoàng tử của những bản ballad". Một trong những nhà soạn nhạc ballad được tìm kiếm nhiều nhất trong thời đại là Lee Young-hoon (이영훈), những bài hát của họ đã được biên soạn thành một vở nhạc kịch hiện đại vào năm 2011 với tên Gwanghwamun Yeonga (광화문 연가, Gwanghwamun's Song).[45]

Asia Music Forum được ra mắt vào năm 1980, với đại diện của năm quốc gia châu Á khác nhau tranh tài trong sự kiện này. Ca sĩ Hàn Quốc Cho Yong-pil đã giành được vị trí đầu tiên và tiếp tục có một sự nghiệp thành công, biểu diễn ở Hồng Kông và Nhật Bản. Album đầu tiên Chang bakkui yeoja (창 밖의 여자, Woman outside the window) của ông đã thành công và giúp ông trở thành ca sĩ Hàn Quốc đầu tiên biểu diễn trên sân khấu tại Carnegie Hall ở New York. Các sản phẩm âm nhạc của Cho Yong-pil bao gồm rock, dance, trot và folk-pop.[45] Mặc dù có trải nghiệm sớm với nhạc rock với tư cách là một tay guitar điện tử trong một ban nhạc rock, sự nổi tiếng ban đầu của Cho Yong-pil đến từ những bài hát nhạc trot của ông được yêu thích ở cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Ví dụ, vào năm 1976, bài hát nhạc trot của ông, "Please Return to Pusan ​​Port" là một bản hit lớn. Bất chấp thất bại tạm thời do dính líu đến một vụ cần sa vào năm 1977, ông đã cố gắng trở lại với bài hát "The Woman Outside the Window" và đạt doanh thu kỷ lục 1 triệu bản vào năm 1980. Vào năm 1988, ông đã biểu diễn "Seoul Seoul Seoul" bằng ba thứ tiếng (tiếng Hàn, tiếng Anh và tiếng Nhật) để chào mừng Thế vận hội Mùa hè 1988.[46]

Thập niên 1990: Sự phát triển của nhạc K-pop hiện đại

[sửa | sửa mã nguồn]
Three men performing on stage with upraised arms, wearing matching neon-orange shorts and polo shirts
DJ DOC, một trong những bộ ba hip hop nổi tiếng của thập niên1990.[47]

Trong thập niên 1990, các nghệ sĩ nhạc pop Hàn Quốc đã kết hợp một phần nhạc pop châu Âu và phần lớn các dòng nhạc đại chúng Hoa Kỳ như hip hop, rock, jazz và nhạc dance điện tử vào trong tác phẩm của mình.[48] Vào năm 1992, sự nổi lên của nhóm nhạc Seo Taijiwa aideul đã đánh dấu một thời khắc mang tính cách mạng trong lịch sử K-pop. Bộ ba đã ra mắt trên chương trình tài năng của MBC với bài hát "Nan Arayo" (난 알아요, I Know) và bị ban giám khảo đánh giá thấp nhất;[49] tuy nhiên, bài hát và album cùng tên trở nên thành công đến mức mở đường cho các bài hát khác ở cùng dạng thức. Thành công của bài hát được cho là nhờ vào nhịp điệu lấy cảm hứng từ dòng nhạc new jack swing và phần điệp khúc dễ nhớ, dễ thuộc cũng như phần lời mới mẻ động chạm đến những vấn đề nhức nhối trong xã hội Hàn Quốc. Theo sau sự thành công của họ là một làn sóng nghệ sĩ hip hop và R&B thành công như Yoo Seung-jun, Jinusean, Solid, Deux, 1TYM và Drunken Tiger.[49]

Vào năm 1995, nhà sản xuất âm nhạc người Hàn Quốc Lee Soo-man, người được đào tạo ở Hoa Kỳ và tiếp xúc với các xu hướng âm nhạc Hoa Kỳ, đã thành lập công ty giải trí SM Entertainment. Cựu thành viên của Seo Taiji & Boys, Yang Hyun-suk đã thành lập YG Entertainment vào năm 1996 và Park Jin-young đã thành lập JYP Entertainment vào năm 1997.

Sự nổi tiếng của Seo Taiji & Boys trong giới thanh thiếu niên đã chuyển trọng tâm của ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc sang nhạc pop lấy thanh thiếu niên làm trung tâm. Các ban nhạc thần tượng gồm các chàng trai hoặc cô gái trẻ được thành lập để phục vụ cho lượng khán giả đang ngày càng tăng ở lứa tuổi thanh thiếu niên.[49] H.O.T. là một trong những nhóm nhạc nam thần tượng đầu tiên, ra mắt vào năm 1996 sau quá trình đào tạo nghiêm ngặt không chỉ bao gồm kỹ năng ca hát và vũ đạo mà còn cả nghi thức, thái độ, ngôn ngữ và khả năng đối phó với giới truyền thông.[46] Bài hát "Candy" do H.O.T. thể hiện đã trình bày một dạng nhạc pop nhẹ nhàng và nhẹ nhàng hơn với những giai điệu lạc quan và vui tươi kèm theo những bước nhảy đầy năng lượng – một công thức được nhiều nhóm nhạc thần tượng tiếp theo áp dụng. Nhóm đã thành công rực rỡ và các fan đã sao chép kiểu tóc và thời trang của nhóm. Các mặt hàng liên kết với nhóm từ kẹo đến nước hoa cũng được bán. Tiếp nối thành công của họ là các nhóm nhạc thần tượng nam và nữ trẻ như Sechs Kies, S.E.S., Fin.K.L, NRG, Baby Vox, Diva, Shinhwa và g.o.d, những nhóm cũng trở nên phổ biến trong thế hệ trẻ.[46][50]

Vào cuối thập niên 1990, các công ty quản lý tài năng bắt đầu quảng bá các ngôi sao K-pop bằng cách triển khai mô hình kinh doanh thần tượng được sử dụng trong J-pop,[51] nơi các tài năng được lựa chọn và đào tạo để thu hút khán giả toàn cầu thông qua các bài học chính thức hoặc thông qua các chương trình cư trú.[52][53][54] Họ được đào tạo thông qua một quá trình sâu rộng và chuyên sâu bao gồm rèn luyện thể chất và ngôn ngữ (một chương trình đôi khi được gọi là lạm dụng) và họ cũng được lựa chọn về chiều cao, trung bình cao hơn nhiều so với các đồng nghiệp Nhật Bản của họ. Về ngoại hình, "K-pop nhấn mạnh vẻ ngoài gầy, cao và nữ tính với biểu cảm khuôn mặt trẻ trung hoặc đôi khi rất dễ thương, bất kể họ là ca sĩ nam hay nữ", theo giáo sư xã hội học Ingyu Oh.[53] Theo thời gian, các nghệ sĩ người Mỹ gốc Hàn đã trở nên thành công nhờ khả năng ngôn ngữ trôi chảy của họ.[55] Những nỗ lực này làm tăng tính thị trường của K-pop đồng thời tăng cường quyền lực mềm của Hàn Quốc, vốn đã trở thành một phần quan trọng trong chính sách chính thức.[56]

Thập niên 1990 đã chứng kiến ​​một phong trào phản động chống lại văn hóa đại chúng chính thống với sự gia tăng của các câu lạc bộ âm nhạc ngầm bất hợp pháp và ban nhạc punk rock chẳng hạn như Crying Nut.[49] Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã thúc đẩy các nghệ sĩ Hàn Quốc tìm kiếm thị trường mới: H.O.T. phát hành một album tiếng Quan Thoại,[49] và Diva phát hành một album tiếng Anh ở Đài Loan.[52]

Thế kỷ 21: Sự trỗi dậy của làn sóng Hallyu

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Làn sóng Hàn Quốc

Sự phổ biến ngày càng tăng của K-pop tạo nên một phần của Hallyu, hoặc Làn sóng Hàn Quốc: sự phổ biến của văn hóa Hàn Quốc ở các quốc gia khác.[57] K-pop ngày càng xuất hiện nhiều trên các bảng xếp hạng phương Tây như Billboard.[58][59] Sự phát triển của mạng xã hội trực tuyến đã là một công cụ quan trọng cho ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc trong việc tiếp cận nhiều khán giả hơn.[60] Như một phần của Làn sóng Hàn Quốc, K-pop đã được chính phủ Hàn Quốc coi là một công cụ để quảng bá quyền lực mềm của Hàn Quốc ra nước ngoài, đặc biệt là đối với giới trẻ nước ngoài.[61][62] Vào tháng 8 năm 2014, tạp chí tin tức nổi bật The Economist của Anh gọi văn hóa đại chúng Hàn Quốc là "Người dẫn đầu xu hướng hàng đầu châu Á".[63]

Girls' Generation tại SM Town Live NY vào năm 2011.

Vào đầu thế kỷ 21, thị trường K-pop đã xuống dốc và các nhóm nhạc thần tượng K-pop ban đầu thành công trong thập niên 1990 đang suy giảm. H.O.T. tan rã vào năm 2001, trong khi các nhóm nhạc khác như Sechs Kies, S.E.S., Fin.K.L, Shinhwa và g.o.d lại ngừng hoạt động vào năm 2005. Các nghệ sĩ solo như BoA và Rain phát triển thành công. Tuy nhiên, thành công của nhóm nhạc nam TVXQ sau khi ra mắt vào năm 2003 đánh dấu sự trỗi dậy của các nhóm nhạc thần tượng trong làng giải trí Hàn Quốc và sự phát triển của K-pop như một phần của Hallyu. Sự ra đời của K-pop thế hệ thứ hai được nối tiếp với sự ra mắt thành công của SS501 (2005), Super Junior (2005), Big Bang (2006), Wonder Girls (2007), Girls' Generation (2007), Kara (2007), Shinee (2008), 2NE1 (2009), 4Minute (2009), T-ara (2009), f(x) (2009) và After School (2009).

Vào đầu thế kỷ 21, các thần tượng K-pop bắt đầu nhận được thành công ở những nơi khác ở châu Á: vào năm 2002, đĩa đơn "Coincidence" của Baby Vox đã trở nên phổ biến ở nhiều nước châu Á sau khi nó được phát hành và quảng bá trong World Cup ở Hàn Quốc. BoA trở thành ca sĩ K-pop đầu tiên đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng âm nhạc Oricon của Nhật Bản,[64] và ngay sau đó, Rain đã có một buổi biểu diễn cháy vé trước 40,000 người hâm mộ tại Bắc Kinh.[65] Vào năm 2003, Baby Vox đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc Trung Quốc với đĩa đơn tiếng Trung "I'm Still Loving You" từ album thứ ba Devotion, là nhóm nhạc thần tượng đầu tiên làm được điều này, tạo ra một lượng fan khổng lồ ở Trung Quốc. Họ cũng đã lọt vào các bảng xếp hạng âm nhạc khác nhau ở Thái Lan. TVXQ đánh dấu sự trỗi dậy của các nhóm nhạc nam K-pop tại Nhật Bản. Vào năm 2008, đĩa đơn "Purple Line" của họ đã đưa TVXQ trở thành nhóm nhạc nam nước ngoài đầu tiên và nghệ sĩ Hàn Quốc thứ hai sau BoA đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc Oricon.

Kể từ giữa thập niên 2000, một phần lớn thị trường âm nhạc Đông Á đã bị thống trị bởi K-pop.[66] Vào năm 2008, xuất khẩu văn hóa của Hàn Quốc (bao gồm cả phim truyền hình và trò chơi máy tính) đã tăng lên 2 tỷ USD, duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 10%.[67] Vào năm đó, Nhật Bản chiếm gần 68% tổng doanh thu xuất khẩu K-pop, trước Trung Quốc (11,2%) và Hoa Kỳ (2,1%).[68] Việc bán vé cho các buổi hòa nhạc được chứng minh là một công việc kinh doanh béo bở; Tohoshinki Live Tour của TVXQ tại Nhật Bản đã bán được hơn 850,000 vé với chi phí trung bình là 109 USD mỗi vé, tạo ra tổng doanh thu 92,6 triệu USD.[69]

Ở những nơi khác trên thế giới, thể loại này đã nhanh chóng phát triển thành công,[70] đặc biệt là sau khi video âm nhạc "Gangnam Style" của Psy trở thành video YouTube đầu tiên đạt 1 tỷ lượt xem, đạt được mức độ phủ sóng rộng rãi trên các phương tiện truyền thông chính thống.[71][72] Tính đến tháng 12 năm 2020, video đã có 3,9 tỷ lượt xem.[73] Một số nỗ lực thất bại đã được thực hiện bởi các công ty giải trí để thâm nhập vào thị trường nói tiếng Anh, bao gồm BoA, Wonder Girls, Girls' Generation và CL.[74][75][76] BTS đã giành được giải thưởng Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu tại lễ trao giải Billboard Music Awards năm 2017, khiến họ trở thành nhóm nhạc K-pop đầu tiên giành chiến thắng giải BBMA.[77] Sân khấu biểu diễn bài hát "DNA" của họ tại American Music Awards, buổi biểu diễn AMA đầu tiên của một nhóm nhạc K-pop, cũng dẫn đến việc bài hát đạt vị trí số 67 trên Billboard Hot 100.[78] Vào năm sau, BTS trở thành nhóm nhạc K-pop đầu tiên đạt vị trí số 1 trên Billboard 200 với Love Yourself: Tear.[79] Map of the Soul: Persona của BTS sau đó trở thành album bán chạy nhất tại Hàn Quốc, với hơn 3,2 triệu bản tiêu thụ trong vòng chưa đầy 1 tháng.[80] Vào ngày 15 tháng 5 năm 2019, BTS cũng đã khởi động "Summer Concert Series" của Good Morning America với tư cách là người mở màn tại Central Park ở Manhattan.[81] Vào đêm ngày 31 tháng 12 năm 2019, BTS đã biểu diễn tại Quảng trường Thời đại của thành phố New York cho đêm giao thừa năm 2020 trong chương trình Dick Clark's New Year's Rockin' Eve, trước 1 triệu khán giả và hơn 1 tỷ khán giả xem truyền hình.[82]

Văn hoá

[sửa | sửa mã nguồn]

Các nghệ sĩ K-pop thường được gọi là thần tượng hoặc nhóm nhạc thần tượng.[83] Các nhóm nhạc thường có một nhóm trưởng, người này thường là thành viên lớn tuổi nhất hoặc có kinh nghiệm lâu nhất và là người phát biểu thay cho nhóm. Thành viên trẻ nhất trong nhóm được gọi là maknae (막내).[84] Việc sử dụng phổ biến thuật ngữ này ở Nhật Bản bị ảnh hưởng bởi nhóm nhạc nam SS501 khi họ mở rộng hoạt động của mình trong nước vào năm 2007. Bản dịch tiếng Nhật của nó, man'ne (マンネ) thường được dùng để đặt tên cho thành viên nhỏ tuổi nhất của nhóm Kim Hyung-jun để phân biệt anh với trưởng nhóm bằng tên và cách viết tương tự, Kim Hyun-joong.[85]

Sức hút và cộng đồng người hâm mộ

[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm: Người hâm mộ K-pop
Người hâm mộ (VIP) của Big Bang cầm gậy ánh sáng hình vương miện trong buổi hòa nhạc: đây là biểu tượng của câu lạc bộ người hâm mộ.

Không phải tất cả người hâm mộ K-pop đều là phụ nữ trẻ;[86] vào năm 2018, tạp chí Metro đã phỏng vấn những người hâm mộ K-pop nam ở các quốc tịch khác nhau, họ đã nói về việc theo dõi các nhóm nhạc pop nam và trở thành một phần trong cộng đồng người hâm mộ của họ đã giúp họ hiểu bản thân và khái niệm nam tính hơn như thế nào.[87]

Nhiều người hâm mộ đi du lịch nước ngoài để xem thần tượng của họ trong chuyến lưu diễn, và khách du lịch thường đến Hàn Quốc từ Nhật Bản và Trung Quốc để xem các buổi hòa nhạc K-pop.[88] Một nhóm du lịch K-pop đến từ Nhật Bản với hơn 7,000 người hâm mộ đã bay đến Seoul để gặp gỡ nhóm nhạc nam JYJ vào năm 2012,[89] và trong buổi biểu diễn của JYJ tại Barcelona vào năm 2011, người hâm mộ từ nhiều nơi trên thế giới đã cắm trại qua đêm để được vào cửa.[90] Một cuộc khảo sát năm 2011 do Sở Văn hóa và Thông tin Hàn Quốc thực hiện đã báo cáo rằng có hơn 3 triệu thành viên tích cực của các câu lạc bộ người hâm mộ Hallyu.[91]

Một bài báo của The Wall Street Journal chỉ ra rằng sức mạnh tồn tại trong tương lai của K-pop sẽ được định hình bởi người hâm mộ, những người có các hoạt động trực tuyến đã phát triển thành "doanh nghiệp vi mô".[92] Các nhóm nhạc K-pop thường có các câu lạc bộ người hâm mộ dành riêng với tên tập thể và đôi khi là một màu sắc riêng,[93][94] mà họ sẽ phát hành hàng hóa. Ví dụ, người hâm mộ của TVXQ được gọi là Cassiopeia, và màu sắc chính thức của họ là màu đỏ ngọc trai. Một số nhóm nổi tiếng hơn đã cá nhân hóa gậy ánh sáng để sử dụng tại các buổi hòa nhạc; ví dụ: người hâm mộ của Big Bang cầm gậy ánh sáng hình vương miện màu vàng.[95]

Vòng hoa gạo cho nhóm nhạc nam Hàn Quốc Exo.

Các câu lạc bộ người hâm mộ đôi khi tham gia các sự kiện từ thiện để ủng hộ thần tượng của họ, mua những vòng hoa gạo để thể hiện sự ủng hộ. Những bao gạo được quyên góp cho những người khó khăn.[96] Theo Time, cho một trong những buổi biểu diễn của Big Bang, 12,7 tấn gạo đã được quyên góp từ 50 câu lạc bộ người hâm mộ trên khắp thế giới. Có những doanh nghiệp ở Hàn Quốc chuyên vận chuyển gạo từ nông dân đến địa điểm.[97] Một cách khác mà các câu lạc bộ người hâm mộ thể hiện sự tận tâm của họ là gửi bữa trưa cho thần tượng trong lịch trình của họ và có những công ty cung cấp dịch vụ ăn uống ở Hàn Quốc dành riêng cho mục đích này.[98]

Một tính năng độc đáo của fandom K-pop là "fan chant". Khi một nhóm nhạc thần tượng phát hành một bài hát mới, những câu hô, thường bao gồm tên của các thành viên trong nhóm, được thực hiện bởi khán giả của buổi hòa nhạc trực tiếp trong những phần nhạc của bài hát.[99]

Sự ám ảnh

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Sasaeng fan

Một số thần tượng và nhóm nhạc thần tượng đã phải đối mặt với vấn đề từ những người hâm mộ quá khích, những người thích hành vi rình rập hoặc xâm phạm. Những người hâm mộ này được gọi là sasaeng, từ tiếng Hàn có nghĩa là "cuộc sống riêng tư", ám chỉ xu hướng xâm phạm quyền riêng tư của thần tượng và thành viên của các nhóm nhạc thần tượng. Đã có những lời kể về những hành vi quá khích của người hâm mộ khi cố gắng thu hút sự chú ý của thần tượng.[100] Các quan chức Hàn Quốc công nhận đây là một mối quan tâm duy nhất nhưng nghiêm túc.[101]

Một số thần tượng đã phản ứng giận dữ đối với sasaeng fan, vì họ đã nhận được hành vi quá khích; bao gồm các thành viên của JYJ, thành viên Kim Hee-chul của Super Junior và Jang Keun-suk.[100][102][103]

Để đối phó với vấn đề này, một luật mới được thông qua vào tháng 2 năm 2016 ở Hàn Quốc cho thấy hình phạt cho hành vi rình rập tăng lên khoảng 17,000 USD và cũng có thể là 2 năm tù.[104]

Truyền thông xã hội

[sửa | sửa mã nguồn]

Các trang web truyền thông xã hội như YouTube, Twitter và Facebook cho phép các nghệ sĩ K-pop tiếp cận khán giả toàn cầu và tương tác dễ dàng với người hâm mộ của họ.[105] Khi doanh thu thị trường âm nhạc trực tuyến toàn cầu tăng 19% từ năm 2009 đến năm 2014 với phương tiện truyền thông xã hội, người tiêu dùng âm nhạc trên khắp thế giới có nhiều khả năng tiếp xúc với K-pop hơn.[106] Các nhóm nhạc thần tượng K-pop được hưởng lợi từ các phương tiện truyền thông xã hội dựa trên video như YouTube vì các yếu tố hình ảnh như vũ đạo và thời trang là những yếu tố thiết yếu trong hoạt động của họ. Số lượng tìm kiếm "K-pop" trên YouTube tăng 33 lần từ năm 2004 đến năm 2014. Thông qua quảng cáo trên mạng xã hội, các công ty giải trí Hàn Quốc đã thu hẹp khoảng cách văn hóa để K-pop có thể thâm nhập thị trường toàn cầu và được người tiêu dùng nước ngoài công nhận. Xuất khẩu của K-pop tăng đáng kể từ 13,9 triệu USD lên 204 triệu USD từ năm 2007 đến 2011.[106] Mạng xã hội cũng thay đổi cách tiêu dùng nhạc K-pop. Trước kỷ nguyên kỹ thuật số, mọi người sẽ mua và tiêu thụ các sản phẩm âm nhạc trên cơ sở cá nhân. Người tiêu dùng hiện nay tích cực tham gia chia sẻ các sản phẩm âm nhạc và quảng cáo các nghệ sĩ họ yêu thích, đây là một lợi thế cho K-pop.

YouTube

[sửa | sửa mã nguồn]
Psy, có video âm nhạc cho "Gangnam Style" vào tháng 12 năm 2012 đã trở thành video đầu tiên đạt hơn 1 tỷ lượt xem trên YouTube.[107]

Kể từ khi ngành công nghiệp K-pop bắt đầu lan rộng ra ngoài Hàn Quốc, các nghệ sĩ K-pop đã lập nhiều kỷ lục đáng chú ý trên YouTube. Trong tổng số 2,28 tỷ lượt xem YouTube K-pop trên toàn thế giới vào năm 2011, 240 triệu đến từ Hoa Kỳ, cao hơn gấp đôi so với con số của năm 2010 (94 triệu).[cần dẫn nguồn] Vào tháng 12 năm 2011, K-pop trở thành thể loại âm nhạc dành riêng cho từng quốc gia đầu tiên có trang chủ trên YouTube.[105] Vào tháng 12 năm 2012, video âm nhạc của Psy cho "Gangnam Style" đã trở thành video YouTube đầu tiên đạt được 1 tỷ lượt xem.[108] Vào năm 2016, video âm nhạc cho "TT" của Twice đã trở thành video đầu tiên của một nữ ca sĩ Hàn Quốc đạt hơn 400 triệu lượt xem trên YouTube.[109] Vào ngày 21 tháng 1 năm 2019, video âm nhạc của nhóm nhạc nữ Blackpink cho "Ddu-Du-Ddu-Du" đã trở thành video âm nhạc của nhóm nhạc K-pop có lượt xem cao nhất trên YouTube.[110] Vào ngày 12 tháng 4 năm 2019, video âm nhạc của BTS cho "Boy with Luv" đã lập kỷ lục cho video âm nhạc trực tuyến được xem nhiều nhất trong 24 giờ đầu tiên, thu về hơn 74 triệu lượt xem.[111]

Twitter

[sửa | sửa mã nguồn]

Twitter cũng là một nền tảng truyền thông xã hội quan trọng để các ngôi sao K-pop có được kết nối và quảng bá.[112] Bài hát lan truyền "Gangnam Style" đã trở nên phổ biến nhờ những đề cập của những người dùng Twitter nổi bật.[112] Bang Si-hyuk, nhà sản xuất của BTS, cho rằng sự phát triển nhanh chóng của cộng đồng người hâm mộ là nhờ vào các phương tiện truyền thông xã hội như Twitter.[113] Vào ngày 13 tháng 11 năm 2017, BTS đã trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên đạt 10 triệu người theo dõi trên Twitter.[114][115] Vào năm 2017, BTS là nghệ sĩ được tweet về nhiều nhất cả ở Hoa Kỳ và trên toàn cầu. Các nhóm nhạc K-pop khác, chẳng hạn như Seventeen và Monsta X, cũng xuất hiện trong top 10 toàn cầu. EXO, một nhóm nhạc nam Hàn Quốc, là người nổi tiếng gia nhập Twitter vào năm 2017 được theo dõi nhiều nhất.[116] Tại lễ trao giải Billboard Music Awards năm 2017, 2018 và 2019, BTS đã giành được giải thưởng Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu dựa trên sự bình chọn của người hâm mộ trên Twitter.[117][118][119] Theo Sin Chang Seob, CEO của Twitter Hàn Quốc, việc sử dụng Twitter của các nghệ sĩ K-pop đã làm tăng mức độ phổ biến của Twitter đối với người dân Hàn Quốc.[120]

Facebook

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều công ty giải trí Hàn Quốc sử dụng các nền tảng truyền thông xã hội, đặc biệt là Facebook, để quảng bá và phát động các buổi thử giọng toàn cầu của họ.[105] Các nhóm nhạc K-pop sử dụng các trang Facebook để quảng bá âm nhạc và các nội dung khác của họ tới số lượng lớn người hâm mộ.[121] Người hâm mộ K-pop sử dụng Facebook để bày tỏ sự tận tâm của họ, giao tiếp với các thành viên khác của cộng đồng K-pop và tiêu thụ nội dung K-pop.[122]

Nhạc Hàn lời Việt

[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm 1980 - 2000

[sửa | sửa mã nguồn]

Làn sóng Hàn Quốc lan tỏa ra khắp châu Á từ đầu thế kỷ 21, bắt đầu với những bộ phim truyền hình tâm lý tình cảm dành cho các bà nội trợ trung niên, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền giải trí Việt Nam.[123] Nhiều ca sĩ V-pop lúc bấy giờ đã hát lại hoặc phối lại nhạc Hàn bằng tiếng Việt, trong đó có cả những ca khúc nhạc phim đình đám:[124]

STT Tên bài hát gốc (Hangul+romaja) Tên tiếng Anh Nghệ sĩ thể hiện Năm phát hành Tên bài hát phiên bản Việt Nam
1 사랑 (Sarang) Love Song Jang Dong Gun 1998 Bài Ca Tình Yêu - Lam Trường
2 Don't Go Baby Ahn Jae-wook 1998 Don't Go Baby - Bằng Kiều
3 Run To You DJ Doc 2000 Khóc Cho Yêu Thương - Thanh Thảo
4 사랑해 (Saranghae) I Love You Jewelry 2002 Em Thích Anh - H.A.T
5 처음부터 지금까지 (Cheoeumbuteo Jigeumkkaji) (nhạc phim Bản tình ca mùa đông) From the Beginning Till Now Park Yong-ha 2002 Bản Tình Ca Mùa Đông - Tuấn Hưng
6 달아달아 (Dara Dara) Run Away Lee Jung-hyun 2002 Bí Ẩn Vầng Trăng - Ngô Thanh Vân
7 Honey Park Jin-young 1998 Đừng Lừa Dối - Lam Trường
8 No.1 BoA 2002 Tình Yêu Mãi Xanh - Nhóm Mây Trắng
9 The Best Kim Yoo-jin (Eugene) 2003 Bến Bờ Xanh[125] - Nhóm The Bells
10 10 Minutes Lee Hyori 2003 Baby Xin Anh Đừng Quay Gót - Bảo Thy
11 Y (Please Tell Me Why) Free Style 2004 Please Tell Me Why - Bảo Thy, Vương Khang
12 보고 싶다 (Bogo Shipta) (nhạc phim Nấc thang lên thiên đường) I Miss You Kim Bum-soo 2004 Nấc Thang Lên Thiên Đường - Bằng Kiều
13 Never Say Goodbye (nhạc phim Cô em họ bất đắc dĩ) Park So-bin, Mario, Song Bo-ram, Go Eun-ju 2005 Never Say Goodbye - Thanh Thảo, Lil' Knight
14 끝사랑 (Kkeut Sarang) Last Love Kim Bum-soo 2005 Tình Cuối - Khánh Du
15 너 (Nuh) You Lee Jung-hyun 2000 Khúc Xuân Tình - Bảo Hân
16 다소 (Daso) MayBee 2006 Em Vẫn Tin - Hồ Lệ Thu
17 Always Turbo 1997
  • Chén Tình Buồn - Anh Tú, Debbie Pope
  • Tình Đầu Khó Quên - Minh Tuyết
  • Tình Cay Đắng - Johnny Dũng
  • Tưởng Đã Phôi Pha - Jimmii Nguyễn
  • Dấu Yêu Xa Rồi - Hạ Vy, Vina Uyển My
  • Mơ Trong Giấc Mộng - D&D
  • Yêu Anh Đến Thế - Nguyễn Đức & Tú Linh
18 영원히 (Yeong Wonhi) (nhạc phim Ước mơ vươn tới một ngôi sao) Forever Ahn Jae-wook 1997
  • Mãi Mãi - Lam Trường
  • Mãi Yêu Em - Bằng Kiều
  • Anh Mãi Yêu Em - Bằng Kiều
19 너를 사랑하고도 (Neoleul Salanghagodo) Even If I Love You Jeon Yoo-na 1991
  • Từ Khi Có Nhau - La Sương Sương
  • Phút Ban Đầu - Lưu Bích
20 나 같은건 없는 건가요 (Na Gateungeon Eopsneun Geongayo) Don't Go Away Chu Ga-yeoul 2002
  • Chỉ Là Giấc Mơ Qua - Lưu Bích
  • Khúc Vĩ Cầm Xưa - Don Hồ
21 희나리 (Heenari) Koo Chang-mo 1985 Xa Em Kỷ Niệm - Nini
22 주어진 시간 끝에서 (Jueojin Sigan Kkeuteseo) Yurisangja 1997 Chốn Xưa - Anh Tú
23 토요일은밤이좋아 (Toyoireunbamijoa) Like A Night On Saturday Kim Jong-chan 1988 Con Tim Yêu Đời - Don Hồ
24 왜불러 (Wae Bulleo) Why Do You Call Diva 1998
  • Đường Chiều Rộn Vui - Hạ Vy
  • Đừng Phá Vỡ Ân Tình - Minh Tuyết, Johnny Dũng
  • Tiếng Chuông Đêm - Phương Thanh
  • Breaking The Rule - Don Hồ
25 너를 사랑해 (Noreul Saranghae) I Love You Han Dong-joon 1993 Người Tình Ơi Đừng Xa - Minh Tuyết
26 Moon & Sunrise BoA 2003 Chuyện Tình Lá Gió - Vân Navy
27 가져가 (Gajyeoga) Take It Away Hong Kyung-min 2001 Men Say Tình Ái - Lê Tâm, Jacqueline Thụy Trâm
28 굿바이 (Gutbai) Goodbye J.ae 1998 Goodbye Mê Say - Hoàng Châu
29 와 (Wa) Lee Jung-hyun 1999
  • Trái Cấm Tình Yêu - Minh Tuyết, Johnny Dũng
  • Bài Ca Yêu Đời - Cẩm Ly
  • Don't Forsake My Heart - Henry Chúc, Tommy Ngô
  • Xin Đừng Xa Anh - Minh Thuận
  • Xin Đừng Xa Anh 2 - Nhật Hào
  • Tình Buồn Trên Môi - Hoàng Châu
30 흩어진 나날들 (Heuteojin Nanaldeul) Scattered Days Kang Susie 1991
  • Tiếng Đàn Phù Du - Quang Vinh
  • Thà Một Mình Đơn Côi (Thôi Đành Chia Tay) - Lý Hải
  • Có Tiếc Nhớ - Lam Trường
31 너에게로 또다시 (Neoegero Ttodasi) Byun Jin-sub 1989 Nỗi Đau Một Thời - Don Hồ
32 가사 첨부 (Gasa jeombu/Let me be the one) Swi.T (스위티(Swi.T)) 1991 Hãy cho em ngày mai - nhóm The Bells
33 아낌없이 주는 나무 (Akkim-eobs-i juneun namu) Moon Hee-joon 2002 Niềm thương nhớ - Triệu Hoàng

Từ 2008 - nay

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ khoảng năm 2008 trở đi với những bản hit K-pop như "Nobody" (Wonder Girls), "Haru Haru" (Big Bang) hay "Mirotic" (TVXQ),[126] và đặc biệt là từ khi bộ phim truyền hình thần tượng "Boys Over Flowers" lên sóng vào năm 2009 đã tạo nên cơn sốt hâm mộ cuồng nhiệt trên toàn châu Á, giúp cho làn sóng Hàn Quốc hồi sinh theo hướng trẻ trung hóa, năng động hóa. Cũng từ năm 2009 là sự bùng nổ của dòng nhạc K-pop và sự ra đời của hàng loạt nhóm nhạc thần tượng Hàn Quốc mới.[127] Nhiều ca khúc đình đám đã được hát lại hay phối lại bằng tiếng Việt như:

STT Tên bài hát gốc (romaja) Tên tiếng Anh Nghệ sĩ thể hiện Năm phát hành Tên bài hát phiên bản Việt Nam
1 Haru Haru Day by Day Big Bang 2008 Không Quan Trọng (2024) - Vụ Nổ Lớn (MCK ft. Orijinn, Tage, JustaTee, Trung Trần)
2 Missing You F.T. Island 2009 Anh Nhớ Em - Thái Triệu Luân
3 Sorry, Sorry Super Junior 2009 Cơ Hội Yêu - Kio Band
4 내 머리가 나빠서 (Nae Meoliga Nappaseo) - Nhạc phim Boys Over Flowers Because I'm Stupid SS501 2009
  • Vì tôi là chàng ngốc - Minh Quân
  • Chàng Khờ Đáng Yêu - Khánh Phương
  • Mất Em (2009) - Noo Phước Thịnh
5 Stand By Me - Nhạc phim Boys Over Flowers Shinee 2009 Gần Bên Anh - Noo Phước Thịnh
6 Nobody Wonder Girls 2009
  • Nobody - nhóm Mây Trắng
  • Không Yêu Lần Nữa - Vĩnh Thuyên Kim
  • Rắc Rối Tình Yêu - Vũ Hà
7 So Hot So Hot Wonder Girls 2009 Khóc Khi Người Đi - nhóm Mây Trắng
8 바래 (Ba Rae) I Hope FT Island 2010 Nguyện Ước - Khánh Phương
9 Fiction Beast 2011
  • Thả Gió - Lil'S
  • Thả Gió - Như Hexi
10 라라라 (La La La) La La La Suki (숙희) 2012 Ngày Hạnh Phúc - Bằng Cường
11 죽을만큼 아파서 (Jukeulmangeum Appaseo) Sick Enough To Die MC Mong feat. Mellow 2012
  • Điều Buồn Tênh - Quang Vinh
  • Vệt Nắng - Lân Nhã
  • Buồn Không Thể Buông - Phí Phương Anh, RIN9, MiiNa
12 배드 걸스 (Baedu geolseu) Bad Girls Lee Hyori 2013 Leave Me Alone - Bảo Anh, Đông Nhi
13 Give Love AKMU 2014 Màu Mắt Em - Jack
14 환청 (Hwan cheong) (Nhạc phim Kill Me, Heal Me) Auditory Hallucination Jang Jae-in ft Na Show 2011 Trách Ai Bây Giờ? - Đông Nhi
15 Aha Kara 2010 Hey Boy - Khởi My
16 Western Sky Lee Seung Chul 2012 Khoảng Trời Không Có Em - Tăng Phúc
17 Crayon G-Dragon 2013 Light It Up - Tronie Ngô
18 헤어지지 못하는 여자, 떠나가지 못하는 남자 (Heeojiji moshaneun yeoja, tteonagaji moshaneun namja) Can't Breakup Girl, Can't Breakaway Boy Leessang, Jung In 2011 Không thể quên - Tronie Ngô
19 Bang Bang Bang Big Bang 2015 Get Down - Isaac
20 Flower Jisoo 2023 lời Việt Bạch Ân Khoa

Danh sách nghệ sĩ K-pop

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Danh sách nghệ sĩ K-pop hoạt động cá nhân và Danh sách nhóm nhạc thần tượng Hàn Quốc

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • K-pop toàn cầu
  • K-pop tại khu vực Mỹ Latinh
  • Thần tượng Hàn Quốc
    • Thần tượng K-pop
  • Người hâm mộ K-pop
  • Làn sóng Hàn Quốc
  • Phim truyền hình Hàn Quốc
  • Âm nhạc Hàn Quốc
  • Văn hóa người hâm mộ ở Hàn Quốc
  • Nhạc nhẹ Bắc Triều Tiên

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Hartong, Jan Laurens (2006). Musical terms worldwide: a companion for the musical explorer. Semar Publishers. tr. 15. ISBN 978-88-7778-090-4. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2011. Since the 1990s, popular genres like rap, rock and techno house have been incorporated into Korean popular music, setting the trend for the present generation of K-pop, which often emulates American models.
  2. ^ Laurie, Timothy (2016), “Toward a Gendered Aesthetics of K-Pop”, Global Glam and Popular Music: Style and Spectacle from the 1970s to the 2000s: 214–231
  3. ^ Cho, Chung-un (ngày 23 tháng 3 năm 2012). “K-pop still feels impact of Seo Taiji & Boys”. The Korea Herald. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  4. ^ “The Root of K-Pop: The Influences of Today's Biggest Acts”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2017.
  5. ^ “South Korea's pop-cultural exports: Hallyu, yeah!”. The Economist. ngày 25 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.
  6. ^ JungBong., Choi (2014). K-pop - The International Rise of the Korean Music Industry. Maliangkay, Roald. Hoboken: Taylor and Francis. tr. 66–80. ISBN 9781317681809. OCLC 890981690.
  7. ^ Song, Cheol-min (2016). K-pop Beyond Asia. Korea: 길잡이미디어. tr. 37–46. ISBN 9788973755981.
  8. ^ “케이팝”. terms.naver.com.
  9. ^ “정보길잡이 상세보기 | 국립중앙도서관”. www.nl.go.kr. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  10. ^ Kelley, Caitlin (ngày 3 tháng 4 năm 2019). “K-Pop Is More Global Than Ever, Helping South Korea's Music Market Grow Into A 'Power Player'”. Forbes. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2020.
  11. ^ “2021 State of the Industry” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. ngày 23 tháng 3 năm 2021. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2021.
  12. ^ Rousee-Marquet, Jennifer (ngày 29 tháng 11 năm 2012). “K-pop: the story of the well-oiled industry of standardized catchy tunes”. Institut national de l'audiovisuel. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. K-pop is a fusion of synthesized music, sharp dance routines and fashionable and colorful outfits.
  13. ^ “NYT Draws Attention to K-Pop Idol-Making Factories”. Chosun Ilbo. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2012.
  14. ^ Yang, Jeff. “Can Girls' Generation Break Through in America?”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. The management firms pay for everything; leading talent house S.M. Entertainment has pegged the cost of rearing a single idol at around $3 million, which for Girls' Generation would be multiplied by nine.
  15. ^ Choi, JungBong and Roald Maliangkay (2015). K-pop – The International Rise of the Korean Music Industry. New York: Routledge. ISBN 9781138775961.
  16. ^ Doboo Shim (2005). “Hybridity and the rise of Korean popular culture in Asia”. National University of Singapore. 28: 25–44. CiteSeerX 10.1.1.489.921. doi:10.1177/0163443706059278. ISSN 0163-4437. S2CID 204327176.
  17. ^ Eun-Young Jung (2009). “Transnational Korea: A Critical Assessment of the Korean Wave in Asia and the United States” (PDF). Southeast Review of Asian Studies. University of California, San Diego. 31: 69–80. CiteSeerX 10.1.1.458.9491. ISSN 1083-074X. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2014.
  18. ^ Lyan, Irina. “Hallyu across the Desert: K-pop Fandom in Israel and Palestine”. Cross-Currents: East Asian History and Culture Review. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2015.
  19. ^ a b Chace, Zoe (ngày 12 tháng 10 năm 2012). “Gangnam Style: Three Reasons K-Pop Is Taking Over The World”. NPR. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2012.
  20. ^ “12 Concepts and Styles in K-Pop”. The Odyssey Online (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2018.
  21. ^ Kallen, Stuart A. (2014). K-Pop: Korea's Musical Explosion. Twenty-First Century Books. tr. 37–38. ISBN 9781467720427.
  22. ^ Ramstad, Evan. “Korea Counts Down Not Just To New Year, But to New Girls' Album”. The Wall Street Journal. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2013. K-pop news sites for the past couple of weeks have seemed to have some new video or bit of Girls-related gossip to chew over once or twice a day. There's been a "drama" teaser and a "dance" teaser (that's the one above) and countdown videos from each of the group's nine members... One of the unique things about album releases by K-pop artists is that they are routinely called 'comebacks' even when there's been no evidence that the musician or group went away or, in the conventional sports usage of the term, experienced a setback or loss.
  23. ^ 정, 준화 (ngày 9 tháng 4 năm 2018). “[SC현장] "롤모델은 방탄소년단"...느와르, 벌써 '핫' 한 9인조 (종합)”. 스포츠조선 (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2019.
  24. ^ “유튜브 센세이션, 그루브네이션(Groove Nation)과 인터뷰”. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2017.
  25. ^ “K-pop's second wave”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2017.
  26. ^ “K-Pop success for easy choreography”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2017.
  27. ^ a b “K-Pop takes America: how South Korea's music machine is conquering the world”. The Verge. ngày 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2017.
  28. ^ a b c “Inside the Intense Training Centers Where Young Girls Compete to Be K-Pop Stars”. Broadly (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
  29. ^ a b c “Behind the Scenes in K-pop: Interview with SM Choreographer Rino Nakasone - Beyond Hallyu”. Beyond Hallyu (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
  30. ^ a b Herald, The Korea (ngày 30 tháng 1 năm 2018). “[Video] Exploring the art of K-pop dance”. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2018.
  31. ^ a b Jin, Dal Yong (ngày 20 tháng 4 năm 2017). Critical Discourse of K-pop within Globalization (bằng tiếng Anh). 1. University of Illinois Press. doi:10.5406/illinois/9780252039973.003.0006. ISBN 9780252098147.
  32. ^ Lie, John (2012). “What Is the K in K-pop? South Korean Popular Music, the Culture Industry, and National Identity”. Korea Observer. 43: 339–63.
  33. ^ a b John, Lie (ngày 24 tháng 11 năm 2014). K-pop: popular music, cultural amnesia, and economic innovation in South Korea. Oakland, California. ISBN 9780520958944. OCLC 893686334.
  34. ^ Herald, The Korea (ngày 18 tháng 10 năm 2017). “[Herald Interview] Girls' Generation's stylist caps K-pop fashion industry over years” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2018.
  35. ^ “1990s Fashion: Styles, Trends, History & Pictures”. www.retrowaste.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2018.
  36. ^ a b KWAK, NOJIN; RYU, YOUNGJU (2015). Lee, Sangjoon; Nornes, Abé Mark (biên tập). Hallyu 2.0: The Korean Wave in the Age of Social Media. University of Michigan Press. doi:10.3998/mpub.7651262. ISBN 9780472072521. JSTOR 10.3998/mpub.7651262.
  37. ^ Shim, Doobo (2006). “Hybridity and the Rise of Korean Popular Culture in Asia”. Media, Culture & Society. 28: 29. doi:10.1177/0163443706059278. S2CID 204327176.
  38. ^ Jin, DAL Yong (2016). “Critical Discourse of K-pop within Globalization”. Trong JIN, DAL YONG (biên tập). New Korean Wave. Transnational Cultural Power in the Age of Social Media. University of Illinois Press. tr. 111–130. doi:10.5406/illinois/9780252039973.001.0001. ISBN 9780252039973. JSTOR 10.5406/j.ctt18j8wkv.9.
  39. ^ Kim, Yun (Spring 2012). “K-pop 스타의 패션에 관한 연구” (PDF). Journal of the Korean Society of Fashion Design. 12 (2): 17–37.
  40. ^ “K-pop's slick productions win fans across Asia”. Inquirer. ngày 21 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2012.
  41. ^ “G-Dragon Voted Best-Dressed Celebrity of the Year”. The Chosun Ilbo. ngày 25 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2017.
  42. ^ PAPERMAG (ngày 26 tháng 8 năm 2015). “Jeremy Scott and CL On Moschino, Pop Culture and the Power Of Girls”. PAPERMAG. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  43. ^ “Bow Down To The Ultimate Besties Jeremy Scott And CL In 'Paper' Mag”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  44. ^ Oh, Ingyu. “The Globalization of K-pop: Korea's Place in the Global Music Industry”: 402. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2020. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  45. ^ a b K-Pop: A New Force in Pop Music, pp. 60–61
  46. ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :11
  47. ^ “DJ DOC”. KBS World. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  48. ^ Hartong, Jan Laurens (2006). Musical terms worldwide: a companion for the musical explorer. Semar Publishers. tr. 15. ISBN 978-88-7778-090-4. Since the 1990s, popular genres like rap, rock and techno house have been incorporated into Korean popular music... which often emulates American models.
  49. ^ a b c d e K-Pop: A New Force in Pop Music, pp. 63–66
  50. ^ MacIntyre, Donald (ngày 29 tháng 7 năm 2002). “Flying Too High?”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2002. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
  51. ^ Gingold, Naomi (ngày 8 tháng 1 năm 2019). “Why The Blueprint For K-Pop Actually Came From Japan”. National Public Radio. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  52. ^ a b Shim, Doobo. “Hybridity and the rise of Korean popular culture in Asia”. Media, Culture & Society: 29.
  53. ^ a b Oh, Ingyu (2013). “The Globalization of K-pop: Korea's Place in the Global Music Industry”. Korea Observer. 44 (3): 389–409.
  54. ^ “Critical Interpretation of Hybrid K-Pop: The Global-Local Paradigm of English Mixing in Lyrics”. Popular Music & Society. 37: 120.
  55. ^ “Critical Interpretation of Hybrid K-Pop: The Global-Local Paradigm of English Mixing in Lyrics”. Popular Music & Society. 37: 119.
  56. ^ Walsh, John. Korean Wave. tr. 20–21.
  57. ^ Ryoo, Woongjae (2009). “Globalization, or the logic of cultural hybridization: The case of the Korean wave”. Asian Journal of Communication. 19 (2): 139. doi:10.1080/01292980902826427. S2CID 144161463.
  58. ^ “Breaking & Entering: The Wonder Girls”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  59. ^ “K-Pop Hot 100: BIGBANG Is Unstoppable”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  60. ^ Oliver, Christopher. “South Korea's K-pop takes off in the west”. Financial Times. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2012.
  61. ^ Constant, Linda (ngày 23 tháng 9 năm 2012). “K-Pop Soft Power for the SK Government”. Huffington Post.
  62. ^ “South Korea pushes its pop culture abroad”. BBC. ngày 8 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2012.
  63. ^ South Korea’s soft power: Soap, sparkle and pop The Economist (ngày 9 tháng 8 năm 2014). Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2014.
  64. ^ “The first video on MTV K: BoA "My Name"”. MTV K. ngày 26 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2008.
  65. ^ K-Pop: A New Force in Pop Music, pp. 67–71
  66. ^ “K-pop: the story of the well-oiled industry of standardized catchy tunes”. INA Global. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013.
  67. ^ “South Korea's K-pop craze lures fans and makes profits”. BBC. ngày 26 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. According to South Korea's Trade and Investment Agency, income from cultural exports like pop music and TV shows has been rising by about 10% a year. In 2008, it was worth almost $2bn.
  68. ^ “K-pop: the story of the well-oiled industry of standardized catchy tunes”. INA Global. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. It accounts for most of K-pop albums' overseas sales. As of 2008, Japan accounted for 68 percent of Korea's total music industry exports in 2008, while the Chinese and U.S. markets accounted for only 11.2 percent and 2.1 percent, respectively.
  69. ^ “TVXQ rakes in over $92 million in overseas concert revenues”. Allkpop. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013.
  70. ^ “How Korean culture stormed the world”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh).
  71. ^ “Gangnam Style hits one billion views on YouTube”. BBC News. ngày 21 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  72. ^ “Gangnam Style statue built in South Korea's Seoul”. BBC News. ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  73. ^ officialpsy (ngày 15 tháng 7 năm 2012), PSY - GANGNAM STYLE(강남스타일) M/V, truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2020
  74. ^ CHOE SANG-HUN; MARK RUSSELL (ngày 4 tháng 3 năm 2012). “Bringing K-Pop to the West”. The New York Times. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2012.
  75. ^ “K-Pop Idols And The Formidable American Debut - KultScene”. KultScene (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  76. ^ Benjamin, Jeff (ngày 6 tháng 3 năm 2015). “Will a K-Pop Girl Group Take Over the U.S. Soon (Or Ever)?”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2018.
  77. ^ Liu, Marian. “K-pop band BTS beats US stars to win Billboard Music Award”. CNN. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2017.
  78. ^ Gore, Sydney. “Watch BTS make their official U.S. television debut at the American Music Awards”. The FADER (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2018.
  79. ^ “On the Charts: BTS Become First K-Pop Act to Reach Number One”. Rolling Stone. ngày 27 tháng 5 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2021.
  80. ^ 방탄소년단, 가온차트 음반·다운로드 1위 '2관왕' [BTS, Gaon Music Chart No. 1] (bằng tiếng Hàn). Naver. ngày 9 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2019.
  81. ^ 'Good Morning America' 2019 Summer Concert Series lineup: BTS, Chance the Rapper, Pitbull, Ellie Goulding and more”. ngày 4 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2019.
  82. ^ [1] Accessed ngày 1 tháng 1 năm 2020.
  83. ^ “A Korean Idol's Life: Sweat and Sleepless Nights”. Korean JoongAng Daily. ngày 18 tháng 2 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2012.
  84. ^ “K-pop dictionary: maknae”. MTV Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2012.
  85. ^ "ソロでの活躍がめざましい各グループのマンネたち" Lưu trữ 2017-06-29 tại Wayback MachineHwaiting! Hallyu News & Magazine. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2013
  86. ^ Herald, The Korea (ngày 13 tháng 6 năm 2011). “K-pop drives hallyu craze: survey” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2017.
  87. ^ “The rise of the K-Pop fanboy: Why more men are challenging ideals of masculinity to stan male idols”. Metro. ngày 1 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2020.
  88. ^ Mahr, Krista (ngày 7 tháng 3 năm 2012). “K-Pop: How South Korea's Great Export Is Rocking the World”. Time. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2012.
  89. ^ “Latest K-Pop Invasion: The Fans”. The Wall Street Journal. ngày 15 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  90. ^ “JYJ First K-Pop Band to Perform Solo in Europe”. The Chosun Ilbo. ngày 13 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  91. ^ Mukasa, Edwina (ngày 15 tháng 12 năm 2011). “Bored by Cowell pop? Try K-pop”. The Guardian. London. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. The result, according to a survey conducted by the Korean Culture and Information Service, is that there are an estimated 460,000 Korean-wave fans across Europe, concentrated in Britain and France, with 182 Hallyu fan clubs worldwide boasting a total of 3.3m members.
  92. ^ Ramstad, Evan. “Behind K-pop's Pop: The Work of Fans”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2013. Others handle things like publishing lyrics, translations of lyrics or spreading news about K-pop groups and stars. To get a feel for this micro-business, we asked the operators of a K-pop lyrics translation site called pop!gasa.com to provide a glimpse of their role in the Korean Wave. Our takeaway: it's as competitive as any business.
  93. ^ “What's Your Name?: A Compendium of K-pop Fandoms”. seoulbeats (bằng tiếng Anh). ngày 19 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  94. ^ “Official Fan Clubs and Fan Colors”. Kpop Lists. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  95. ^ 아이돌 팬 '응원 풍선 색깔찾기 전쟁' (bằng tiếng Hàn). Hani.co.kr. ngày 13 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  96. ^ 'Rice wreaths' indicate that K-Pop fandoms are becoming more mature”. Allkpop. ngày 16 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2012.
  97. ^ Mahr, Krista (ngày 7 tháng 3 năm 2012). “South Korea's Greatest Export: How K-pop's Rocking the World”. Time. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2012.
  98. ^ “Video: Treating Your Idol to Lunch Is the True Test of Fandom”. The Wall Street Journal. ngày 24 tháng 2 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  99. ^ “K-Pop Culture Glossary”. Soompi. 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2012.
  100. ^ a b 'Sasaeng Stalkers' (Part 1): K-pop fans turn to blood, poison for attention”. Yahoo! Singapore. ngày 2 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  101. ^ “When an autograph isn't enough”. Korea JoongAnd Daily. ngày 13 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  102. ^ “JYJ apologises over rough treatment of obsessive "sasaeng" fans”. Channel NewsAsia. ngày 9 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  103. ^ “JYJ's Sasaeng fan at the center of the recorded audio clip speaks up”. Allkpop. ngày 10 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2012.
  104. ^ “Stalkers to face harsher punishment”. koreatimes. ngày 28 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2016.
  105. ^ a b c Ahn, JoongHo; Oh, Sehwan; Kim, Hyunjung (ngày 1 tháng 7 năm 2013). Korean pop takes off! Social media strategy of Korean entertainment industry. tr. 774–777. doi:10.1109/ICSSSM.2013.6602528. ISBN 9781467344340. S2CID 24783136.
  106. ^ a b Cha, Hyunhee. “A Study on K-POP Strategy: Focused on Digital Music Environment and Social Media”. International Information Institute. 17: 911–917.
  107. ^ Anthony Wing Kosner (ngày 21 tháng 12 năm 2012). “Out Of This World! Gangnam Style Hits One Billion Views And Now Even NASA's In PSY's Orbit”. Forbes. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2012.
  108. ^ Park, Bun-soon (2015). “12. Riding the Wave: Korea's Economic Growth and Asia in the Modern Development Era”. Asia Inside Out: Connected Places. Harvard University Press. tr. 366. ISBN 9780674967687.
  109. ^ 심선아 (ngày 17 tháng 9 năm 2018). “TWICE's 'TT' music video tops record 400 mln YouTube views”. Yonhap News Agency (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2018.
  110. ^ “BLACKPINK's 'Ddu-Du Ddu-Du' Becomes Most-Viewed Music Video From a K-Pop Group on YouTube”. Billboard.
  111. ^ Kelley, Caitlin. “BTS's 'Boy With Luv' Smashes YouTube's Record For Most Views In 24 Hours”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2019.
  112. ^ a b Choi, Seong Cheol; Meza, Xanat Vargas; Park, Han Woo (21 tháng 2 năm 2014). “South Korean Culture Goes Latin America: Social network analysis of Kpop Tweets in Mexico”. International Journal of Contents. 10 (1): 36–42. doi:10.5392/IJoC.2014.10.1.036. ISSN 2072-1439 – qua KoreaScience.
  113. ^ Han, Eun-hwa (7 tháng 1 năm 2018). “BTS 만든 방시혁 대표 "말 없이 어깨 기댈 수 있는 영웅 필요"”. 중앙일보 (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2021.
  114. ^ Ming, Cheang (29 tháng 12 năm 2017). “How K-pop made a breakthrough in the US in 2017”. CNBC. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  115. ^ “BTS Hits 10 Million Followers on Twitter, Earning Their Third Emoji on Twitter”. Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  116. ^ Aniftos, Rania (5 tháng 12 năm 2017). “BTS Is the Most Tweeted-About Artist of 2017, Plus More Twitter Year-End Data”. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2018.
  117. ^ “BTS Thanks Fans For Top Social Artist Win at Billboard Music Awards 2017: Watch”. Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  118. ^ “BTS Wins Top Social Artist Award at the 2018 Billboard Music Awards”. Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  119. ^ “BTS_official on Twitter”. Twitter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2018.
  120. ^ Jo, Jae-hee (3 tháng 5 năm 2018). “[Tech & BIZ] "스타 인터뷰 생중계하자 전 세계 팬 몰려들어... K팝 덕에 트위터 부활"”. biz.chosun.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2021.
  121. ^ Socialbakers. “Facebook stats of popular Celebrities pages in South Korea”. Socialbakers.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2018.
  122. ^ “View of K-pop, Indonesian fandom, and social media”. Transformative Works and Cultures (bằng tiếng Anh). doi:10.3983/twc.2011.0289. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2018.
  123. ^ Hạnh Hạnh (ngày 9 tháng 2 năm 2019). “Tại sao dòng phim Melodrama Hàn càng ngày càng nhàm?”. Báo Đất Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2020. Những năm 2000, Melodrama (phim tâm lý tình cảm) là thể loại chiếm thế thượng phong trên màn ảnh Hàn. Đâu đâu người ta cũng thấy những chuyện tình buồn đẫm nước mắt với những tình tiết quen thuộc như cặp đôi bị chia rẽ bởi khác biệt gia cảnh hay một căn bệnh quái ác nào đó cướp đi mạng sống của người yêu. (...) Đã có rất nhiều huyền thoại Melodrama, điển hình như Trái tim mùa thu, Nấc thang lên thiên đường, Giày thủy tinh...
  124. ^ Lan Phương (ngày 20 tháng 4 năm 2017). “Học hỏi Kpop và nhạc Hoa, ca sĩ Việt liên tục bị nghi đạo nhạc”. Zing.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2018.
  125. ^ theo Đất Mũi (ngày 6 tháng 7 năm 2004). “The Bells - tiếng chuông lại tiếp tục ngân vang”. VnExpress Giải Trí. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2018.
  126. ^ JJ - Tuấn Maxx, theo Tri Thức Trẻ (ngày 21 tháng 8 năm 2018). “Nhìn lại năm 2008, thời điểm được coi là khởi đầu cho thời đại hoàng kim của Kpop”. Báo sống mới. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2018.
  127. ^ Hương Ly (ngày 24 tháng 2 năm 2019). “Kpop sau 10 năm: SNSD chỉ còn danh xưng, Big Bang tạm rời đỉnh cao”. Zing.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2019. Năm 2009 được xem là thời hoàng kim của Kpop với sự cạnh tranh của hàng loạt nhóm nhạc tài năng, từ đó ra đời những bản hit đi cùng năm tháng.
  • Cổng thông tin K-pop

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn] Tra k-pop trong từ điển mở tiếng Việt Wiktionary Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về K-pop.
  • Hartong, Jan Laurens (2006). Musical Terms Worldwide: A Companion for the Musical Explorer. Semar Publishers. ISBN 978-88-7778-090-4.
  • Holden, Todd Joseph Miles; Scrase, Timothy J. (2006). Medi@sia: Global Media/tion In and Out of Context. Taylor & Francis. ISBN 978-0-415-37155-1.
  • Jung, Sun (2011). Korean Masculinities and Transcultural Consumption: Yonsama, Rain, Oldboy, K-Pop Idols. Hong Kong University Press. ISBN 978-988-8028-66-5.
  • Kim, Myung Oak; Jaffe, Sam (2010). The New Korea: An Inside Look at South Korea's Economic Rise. AMACOM Div American Mgmt Assn. ISBN 978-0-8144-1489-7.
  • K-Pop: A New Force in Pop Music (PDF) . Korean Culture and Information Service; Ministry of Culture, Sports and Tourism. 2011. ISBN 978-89-7375-166-2.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • 《 360° KPOP 》K-POP Forum For Vietnamese. Lưu trữ 2007-12-13 tại Wayback Machine
  • x
  • t
  • s
K-pop
Làn sóng Hàn Quốc · Nhạc ballad Hàn Quốc · Nhạc hip hop Hàn Quốc · Nhạc rock Hàn Quốc · Trot
Thuật ngữ
  • Công nghệ văn hoá
  • Vòng hoa gạo
  • Thần tượng
  • Người hâm mộ K-pop
  • Sasaeng fan
  • Hợp đồng nô lệ
Nghệ sĩ
  • Nghệ sĩ hoạt động cá nhân
  • Nhóm nhạc thần tượng
    • Nhóm nhạc nam
    • Nhóm nhạc nữ
Sự kiện
  • KCON
Trang web
  • Allkpop
  • Soompi
  • 360kpop
Chương trình âm nhạc
  • Inkigayo (SBS)
  • M Countdown (Mnet)
  • Music Bank (KBS2)
  • Music on Top (JTBC)
  • Pops in Seoul (Arirang TV)
  • Show Champion (MBC Music)
  • Show! Music Core (MBC)
  • The Show (SBS MTV)
  • Simply K-Pop (Arirang TV)
Bảng xếp hạng âm nhạc
  • Gaon Music Chart (album · đĩa đơn)
  • Billboard K-pop Hot 100
Hãng thu âm vànhà xuất bản nổi bật
Công ty
  • B2M Entertainment
  • Blossom Entertainment
  • BPM Entertainment
  • Brand New Music
  • Brave Entertainment
  • C9 Entertainment
  • Coridel Entertainment
  • Cube Entertainment
  • DR Music
  • DSP Media
  • Fantagio
  • FNC Entertainment
  • Happy Face Entertainment
  • Hybe Corporation
    • Big Hit Music
    • Pledis Entertainment
    • Source Music
  • Imagine Asia
    • Blue Star Entertainment
    • Dream Tea Entertainment
    • YMC Entertainment
  • Jellyfish Entertainment
  • JYP Entertainment
  • Kakao Entertainment
    • Play M Entertainment
    • Starship Entertainment
  • Konnect Entertainment
  • Maroo Entertainment
  • MBK Entertainment
  • MNH Entertainment
  • Music&NEW
  • Polaris Entertainment
    • Blockberry Creative
  • RBW
    • WM Entertainment
  • SM Entertainment
    • Mystic Story
    • Label SJ
    • Woollim Entertainment
  • Signal Entertainment Group
    • NH Media
  • Star Empire Entertainment
  • Stone Music Entertainment
    • AOMG
    • Hi-Lite Records
    • 1877 Entertainment
    • MMO Entertainment
    • Swing Entertainment
    • The Music Works
  • TOP Media
  • TS Entertainment
  • YG Entertainment
    • The Black Label
  • Yuehua Entertainment
Đơn vị xuất bản
  • Genie Music
  • iMBC
  • Interpark Music
  • Kakao Entertainment
  • Music&New
  • NHN Bugs
  • Pony Canyon Korea
  • SBS Contents Hub
  • SK Group
    • Dreamus
    • SK Communications
  • Sony Music Korea
  • Soribada
  • Stone Music Entertainment
  • Universal Music Korea
  • Warner Music Korea
  • YG Plus
Lễ trao giải âm nhạc
Chính
  • APAN Music Awards
  • Asia Artist Awards
  • Asia Song Festival
  • Gaon Chart Music Awards
  • Genie Music Awards
  • Golden Disc Awards
  • KBS Gayo Daechukje
  • Korean Music Awards
  • Korean Popular Culture and Arts Awards
  • MBC Gayo Daejejeon
  • Mnet 20's Choice Awards
  • Mnet Asian Music Awards
  • SBS Gayo Daejeon
  • Seoul Music Awards
  • Soribada Best K-Music Awards
  • The Fact Music Awards
Nhạc số
  • Cyworld Digital Music Awards
  • Melon Music Awards
  • x
  • t
  • s
Chủ đề Triều Tiên
  • Hàn Quốc
  • Triều Tiên
Lịch sử
Chung
  • Vua
  • Quân sự
Niên đại
  • Cổ Triều Tiên / Thìn
  • Tiền Tam Quốc
    • Phù Dư Quốc
    • Ốc Trở
    • Đông Uế
    • Tam Hàn
  • Tam Quốc
    • Cao Câu Ly
    • Bách Tế
    • Tân La
    • Già Da
  • Thời đại Nam-Bắc Quốc
    • Tân La Thống nhất
    • Bột Hải
  • Hậu Tam Quốc
    • Thái Phong
    • Hậu Bách Tế
    • Tân La
  • Cao Ly
  • Nhà Triều Tiên
  • Đế quốc Đại Hàn
  • thuộc Nhật
    • Chính phủ lâm thời
  • Phân chia Triều Tiên
    • Chiến tranh Triều Tiên
  • Triều Tiên / Hàn Quốc
Địa lý
Chung
  • Khu phi quân sự (DMZ)
  • Đảo
  • Bán đảo Triều Tiên
  • Hồ
  • Núi
  • Tỉnh
  • Vùng
  • Thành phố đặc biệt
  • Sông
Triều Tiên
  • Phân cấp hành chính
  • Thành phố
Hàn Quốc
  • Phân cấp hành chính
  • Thành phố
Chính trị
Triều Tiên
  • Hiến pháp
  • Quan hệ đối ngoại
  • Chính phủ
    • Tổng thống
    • Thủ tướng
  • Nhân quyền
  • Tư tưởng Chủ thể
  • Quân đội
  • Ủy ban Quốc phòng Triều Tiên
  • Chương trình hạt nhân
  • Chính trị
    • Điện
    • Đảng chính trị
    • Đảng Lao động Triều Tiên
  • Hội đồng Nhân dân
Hàn Quốc
  • Hiến pháp
  • Quan hệ đối ngoại
  • Chính phủ
    • Tổng thống
    • Thủ tướng
  • Nhân quyền
  • Quân sự
  • Quốc hội
  • Chính trị
    • Điện
    • Đảng chính trị
Kinh tế
Triều Tiên
  • Nông nghiệp
  • Công nghiệp tự động
  • Năng lượng
  • Nạn đói
  • Phi kinh tế
  • Khai thác mỏ
  • Đặc khu kinh tế
  • Truyền thông
  • Du lịch
  • Giao thông
  • Won (tiền tệ)
Hàn Quốc
  • Công nghiệp ô tô
  • Chaebol
  • Năng lượng
  • Dịch vụ tài chính
  • Lưới cá
  • "Kì tích sông Hán"
  • Bất động sản
  • Truyền thông
  • Du lịch
  • Công đoàn
  • Vận chuyển
  • Won (tiền tệ)
  • Khủng hoảng tài chính châu Á 1997
Nhân khẩu
  • Người Triều Tiên
  • Koreatown
  • Ngôn ngữ
    • Hangul
    • Hanja
  • Tên
  • Bắc Triều Tiên
  • Hàn Quốc
Văn hóa
Chung
  • Điện ảnh
  • Ẩm thực
  • Thần thoại
  • Triết học
  • Tôn giáo
  • Ssireum (wrestling)
  • Kiếm
  • Trà lễ
Nghệ thuật
  • Kiến trúc
  • Thư pháp
  • Phim truyền hình
  • Văn học
  • Âm nhạc
Triều Tiên
  • Arirang Festival
  • Giáo dục
  • Tư tưởng Chủ thể
  • Tuyên truyền
  • Tôn giáo
  • Thuốc lá
  • Thể thao
Hàn Quốc
  • Giáo dục
  • K-pop
  • Làn sóng Hàn Quốc
  • Hôn nhân
  • Tôn giáo
  • Thuốc lá
  • Thể thao
  • x
  • t
  • s
Nhạc pop
Theo thể loạiAdult contemporary · Adult-oriented · Baroque · Bubblegum · Crunkcore · Dance-pop · Dangdut (Indonesia) · Dream · Electropop · Indie · Jangle · Nhạc đồng quê · Nhạc nhiệt đới · Nhạc teen · Noise · Opera · Pop metal · Pop punk · Pop-rap · Pop rock · Pop-soul · Progressive · Psychedelic · Sophisti-pop · Sunshine · Swamp · Synthpop · Thánh ca · Truyền thống · Wonky pop · Yé-yé (Nam Âu)
Theo khu vực/quốc gia
Châu ÁẢ Rập · Assyria · A-déc-bai-gian · Ấn Độ (Filmi) · Cam-pu-chia (Chamrieng Samai) · Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên · Hàn Quốc · In-đô-nê-xi-a · I-ran · Ca-dắc-xtan · Lào · Ma-lai-xi-a · Nhật Bản (City pop · Shibuya-kei) · Pa-ki-xtan (Filmi) · Phi-líp-pin · Xinh-ga-po · Thái Lan (Luk thung) · Thổ Nhĩ Kỳ · Tiếng Hoa (Cantopop · Mandopop · Nhạc pop tiếng Phúc Kiến · Nhạc pop tiếng Khách Gia) · Việt Nam (Nhạc trẻ)
Châu ÂuChâu Âu (Áo · Bán đảo Ban-căng (Hy Lạp) · Bắc Âu (Thuỵ Điển) · Hà Lan · Hung-ga-ri · I-ta-li-a · Pháp ngữ · Xéc-bi) · Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư · Nga văn · Tatar · Tây Ban Nha · U-crai-na · Vương quốc Anh
Châu MỹBra-xin · Hoa Kỳ (Nhạc đại chúng · Nhạc pop) · Mỹ Latinh (Cô-lôm-bi-a · Mê-hi-cô)
Châu PhiChâu Phi (Nhạc đại chúng · Nhạc pop) · Ma-rốc · Ni-giê-ri-a
Toàn cầuÂu Mỹ (Anh ngữ) · Cảng Đài · K-pop toàn cầu · Mandopop kiểu Pháp · Nhạc pop tiếng Anh Hồng Kông
Những chủ đề khác

Album chủ đề · Bảng xếp hạng âm nhạc · Biểu tượng đại chúng · Công nghệ lăng xê · Danh hiệu nhạc đại chúng được phong tặng · Dân ca · Người hâm mộ (Cộng đồng · Danh sách tên gọi) · Người tẩy chay · Người trẻ sính mốt · Nhạc đại chúng · Nhóm nhạc nam · Nhóm nhạc nữ · Tạp chí thanh thiếu niên · Thần tượng teen · Văn hoá đại chúng

Từ khóa » Df La Gì Trong Kpop