Kết Cục Bi Thương Của Kế Hoàng Hậu Trong Lịch Sử Phong Kiến Trung ...

Trên danh nghĩa "chính thất" của Càn Long Đế, Kế Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị đã trải qua đủ dư vị thăng trầm của cuộc sống chốn thâm cung, vinh hoa có, tủi nhục cũng chẳng kém phần. Đường đường là bậc mẫu nghi thiên hạ, sinh thời được vua hết mực sủng ái, vậy mà đến khi qua đời, tang lễ của Kế Hoàng hậu lại sơ sài chẳng khác gì bậc nô tì thấp kém. Sự thật của sự keo kiệt đến khó tin của vị Hoàng đế nổi danh xa xỉ, hào phóng nhất Thanh triều là thế nào; uẩn khúc ẩn chứa phía sau cuộc chuyển đổi tình thế chóng mặt từ đắc sủng đến thất sủng của Kế Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị rốt cuộc ra sao, cho đến giờ vẫn là những thắc mắc lớn chưa thể lý giải.

THÂN THẾ

Kế Hoàng hậu (11/3/1718 - 19/8/1766) là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Bà là Hoàng hậu duy nhất của nhà Thanh không có thụy hiệu. Trong Thanh sử cảo, bà chỉ được ghi là Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị, sử thần Triều Tiên gọi Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu, hay Na Lạp Hoàng hậu.

Trong sách Thanh sử cảo, bà được gọi là Ô Lạt Na Lạp thị, tuy nhiên đúng ra bà phải được gọi là Huy Phát Na Lạp thị, do dòng tộc bà là hậu duệ của Huy Phát Bối lặc Vương Cơ Trữ.

Theo Khâm định Bát Kỳ thông chí và Bát Kỳ Mãn Châu thị tộc tông phổ, dòng tộc của Huy Phát Na Lạp thị vốn mang họ Na Lạp thị, sống tại vùng đất tên Huy Phát. Đất Huy Phát là khởi thủy bởi Huy Phát Bối lặc Vương Cơ Trữ, xét là Mãn Châu Tương Lam kỳ thuộc Hạ ngũ kỳ xuất thân. Nguyên gốc dòng họ của Hoàng hậu cần phải giải thích khá phức tạp, bổi vì vốn dĩ họ Na Lạp thị là một dòng dõi cổ xưa của người Nữ Chân, đã có ghi chép cuối thời nhà Đường, sang thời nhà Minh thì sinh ra 4 bộ lớn ở Hải Tây, tất cả đều mang họ Na Lạp thị, nên gọi Na Lạp tứ bộ. Bốn bộ ấy bao gồm: Diệp Hách, Ô Lạt, Cáp Đạt và Huy Phát.

Căn cứ "Tông phổ", trong 4 bộ tộc của Na Lạp thị thì có sớm nhất là Ô Lạt, sau một nhánh tộc Na Lạp đất Ô Lạt di cư sang Cáp Đạt, hình thành nên hai nhánh lớn của Na Lạp thị là dòng Ô Lạt Na Lạp thị và Cáp Đạt Na Lạp thị. Ngoài ra nếu trong lãnh thổ có một địa danh do họ Na Lạp thị cai quản, cũng lấy tên địa danh gọi thành tông tộc, như Trương Na Lạp thị. Về sau, có một người Mông Cổ tên Tinh Căn Đạt Nhĩ Hán, nguyên dòng dõi Thổ Mặc Đặc thị, xuất quân tiêu diệt Trương Na Lạp thị, phát hiện địa phương này lấy họ Na Lạp thị làm thủ lĩnh, cũng bèn đổi họ của mình qua Na Lạp thị, gọi là Thổ Mặc Đặc Na Lạp thị. Về sau, Thổ Mặc Đặc Na Lạp thị di cư đến đất Diệp Hách, hình thành nên dòng tộc Diệp Hách Na Lạp thị danh tiếng.

Tương tự như vậy, Hắc Long giang Nữ Chân có một chi là Ích Khắc Đắc Lý thị, thủ lĩnh là một đôi anh em tên Ngang Cổ Lý và Tinh Cổ Lực, đem toàn bộ bộ tộc đến địa phương tên Trương. Địa phương có đại bộ chủ, tên Cát Dương Cát Thổ Mặc Đồ, họ Na Lạp thị, chịu trợ giúp hai anh em, nên hai anh em từ đó sửa họ lại thành Na Lạp thị. Về sau hậu duệ Tinh Cổ Lực di cư đến Huy Phát, phát kiến ra Huy Phát quốc, là ngọn nguồn của Huy Phát Na Lạp thị. Do tính chất phân nhánh như vậy của Na Lạp thị, các chi Na Lạp thị luôn tự xưng mình là dòng dõi cổ nhất trong 4 chi, tức Ô Lạt Na Lạp thị.

Lẽ ra Kế hoàng hậu phải được gọi là Huy Phát Na Lạp Hoàng hậu, nhưng dòng dõi của bà vẫn tự xưng là Ô Lạt Na Lạp thị vì các gia tộc Mãn Châu luôn có hiện tượng "leo lên", tức là các bộ tộc ít tiếng tăm hơn, đều tự xưng là một bộ tộc có cùng họ (trong đây Huy Phát là nơi phát tích, Na Lạp thị là họ). Trường hợp này tương tự Giác La thị, có: Ái Tân Giác La thị, Y Nhĩ Căn Giác La thị, Tây Lâm Giác La thị, Thư Thư Giác La thị và Gia Mộc Hồ Giác La thị. Trong đó, ngoại trừ Ái Tân Giác La, còn thì Y Nhĩ Căn Giác La là dòng họ có nhiều nhất, nên trong sách phong hoặc truyện ký, hậu duệ Thư Thư Giác La thị và Gia Mộc Hồ Giác La thị thường xuyên tự nhận mình là Y Nhĩ Căn Giác La. Trong các kim sách hoặc văn bản của người Mãn, nơi phát tích không thường được ghi kèm với họ mà chỉ ghi họ không, mà nơi phát tích dòng dõi của bà là Huy Phát, do đó bà hay được gọi là Na Lạp thị mà thôi.

ke hoang hau 1

Như vậy, Hoàng hậu Na Lạp thị không phải họ hàng thân thích của Hiếu Kính Hiến hoàng hậu - nguyên phối của Ung Chính Đế; cũng không liên quan đến gia tộc Ô Lạt Na Lạp thị của Hiếu Kính Hiến hoàng hậu.

Xét về nguồn gốc, dòng dõi của Ô Lạt Na Lạp thị có gốc gác cao quý. Cao tổ phụ là Mãng Khoa, cháu nội của Huy Phát bối lặc Vương Cát Nỗ, cùng thế hệ với vị Bối lặc cuối cùng của Huy Phát quốc, Bái Âm Đạt. Mãng Khoa dẫn tông tộc nhập Mãn Châu kỳ, phân phó ở Tương Lam kì, này qua các đời thế tập chức vụ Tá lĩnh, thuộc hàng Tứ phẩm. Mãng Khoa sinh La Hòa nhậm chức Phó đô thống. La Hòa sinh ra La Đa nhậm chức Hộ quân Tham lĩnh và Na Nhĩ Bố nhậm chức Tá lĩnh. Cha Hoàng hậu là Na Nhĩ Bố, từng giữ chức ở Thịnh Kinh, do đó rất có thể bà sinh ra tại đây. Mẹ bà là Lang Giai thị, chính thất của Na Nhĩ Bố, ngoài bà ra còn sinh ra một con trai tên Nột Lý, Nột Lý sinh ra Nạp Tô Khẳng.

Xét về gia thế, gia tộc của Ô Lạt Na Lạp thị tuy không tồi nhưng cũng không quá vinh quý. Tổ phụ đảm nhiệm Phó đô thống, bá phụ đảm nhiệm Hộ quân Tham lĩnh, tuy xem là cao cấp quan viên, song xét với Thượng thư hay Đô thống có phần chênh lệch. Cha bà tập tước Tá lĩnh, mà ở xã hội Mãn Châu, tầng lớp cai trị rất xem trọng thể thức Thế quản Tá lĩnh, rồi Thế tước thế chức; biểu thị cho địa vị của dòng tộc trong xã hội Mãn Châu khi đó. Trong đó, Thế tước thế chức biểu thị địa vị gia tộc có công lao khai quốc mà được thụ phong, còn Thế quản Tá lĩnh lại biểu thị dòng dõi có truyền thống và gốc gác cao. Đấy là bởi vì để có được chức Tá lĩnh, thông thường đều là từ tầng lớp giai cấp Bộ trưởng người Nữ Chân khi xưa, vì những Bộ trưởng sau khi nhập kỳ mới đủ tư cách có chức Tá lĩnh. Tư duy tôn sùng "Bộ trưởng" đặc biệt cao, nhất là giai đoạn đầu thời kì nhập quan. Khi Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế chọn lập Hoàng hậu, tính chọn cháu gái Sách Ni, thì Ngao Bái không đồng tình, mà nên chọn con gái của Át Tất Long. Vì bởi lẽ, Sách Ni tuy là phụ chính đaị thần, quan hàm cao quý, song xuất thân Hách Xá Lý thị rất thấp, chỉ là Hải Tây bộ nhân, không có chức Bộ trưởng hay Lộ trưởng, trong khi đó Át Tất Long xuất thân cao quý Nữu Hỗ Lộc, thế tập Lộ trưởng của Anh Ngạch địa phương. So sánh thì dòng dõi của Sách Ni hoàn toàn thua xa.

Điều này không có nghĩa gia đình của Ô Lạt Na Lạp thị là có địa vị hiển hách, nếu tính ra thì tuy dòng dõi Huy Phát quốc chúa, song gia đình bà không thuộc chi gần bằng gia tộc của Thông Quý thuộc Tương Hồng kỳ, cũng là tử tôn của Vương Cát Nỗ, chi tộc này có Thế quản Tá lĩnh lẫn Thế tước truyền đời. Đặc biệt gia tộc của Ô Lạt Na Lạp thị, nếu so với Phú Sát thị của Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu thì cũng là một quãng xa, do dòng họ này xuất xứ từ Lộ trưởng, thế tập Tá lĩnh lẫn thừa tước, nhập kì phân ở Tương Hoàng kỳ cao quý, hơn nữa bản thân gia tộc Phú Sát thị khi đó đã có danh vị trọng thần, địa vị gốc gác lẫn thực tế quyền hành đều cao cấp. Tuy vậy, so với các phi tần khác thì Kế Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị vẫn có xuất thân cao quý hơn hẳn.

HOÀNG HẬU XINH ĐẸP CÓ XUẤT THÂN QUYỀN QUÝ, ĐƯỢC CÀN LONG ĐẾ SỦNG HẠNH

Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị sinh ra trong một gia tộc vô cùng danh giá, hiển hách. Bà được chỉ hôn làm trắc phúc tấn cho Bảo Thân Vương Hoằng Lịch. Khi Hoằng Lịch đăng cơ, lấy niên hiệu là Càn Long, bà được sắc phong thành Nhàn phi rồi tiếp tục thăng vị lên Nhàn Quý phi, Hoàng quý phi. Sau khi Phú Sát Hoàng hậu qua đời, bà trở thành Kế Hoàng hậu của vua Càn Long.

ke hoang hau 3

Bà đăng quang hoàng hậu khi chưa sinh được hoàng tử nào, thậm chí bà còn được Thái hậu rất yêu quý. Khi Càn Long đã nguôi ngoai được với sự ra đi của người vợ Phú Sát thị thì ông đã vô cùng yêu thương sủng ái Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị, có thể nói vinh sủng không hề ít.

Đến năm Càn Long thứ 17 (1752) bà đã hạ sinh được Hoàng thập nhị tử Vĩnh Cơ, năm tiếp đó sinh được một công chúa. Đến năm 1756 bà sinh Hoàng tử Vĩnh Cảnh, tuy nhiên vị Hoàng tử này yểu mệnh qua đời sau đó một năm.

BỊ THẤT SỦNG CHỈ SAU MỘT ĐÊM

Tháng Giêng năm Càn Long thứ 30 (1765), Hoàng đế tiến hành tuần du phía Nam lần thứ 4. Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị cũng có tên trong danh sách những phi tần đi cùng. Khi chuyến tuần du mới bắt đầu, mọi việc diễn ra hết sức thuận lợi. Càn Long còn ưu ái tổ chức sinh nhật lần thứ 48 vào ngày 10/2 cho Hoàng hậu rất mực linh đình.

Tuy nhiên, sau chuyến đi này, hoàng hậu bỗng chốc bị thất sủng sau một đêm. Sau khi trở về Tử Cấm Thành, bà bị biệt giam trong cung cấm, cắt giảm cung nữ hầu hạ. Tuy không bị phế ngôi vị hoàng hậu nhưng vua Càn Long đã thu hết những đặc ân mà bà được ban trong những nghi lễ sách phong năm xưa.

ĐÁM TANG CỦA MẪU NGHI THIÊN HẠ KHÔNG KHÁC GÌ A HOÀN, HOÀNG ĐẾ KHÔNG RƠI MỘT GIỌT NƯỚC MẮT

Một năm sau khi bị Hoàng đế ghẻ lạnh, Ô Lạt Na Lạp thị buông tay trần thế trong sự tịch mịch và cô độc khi mới 49 tuổi. Khi qua đời, bên cạnh bà không có ai thân thích, chỉ có 2 cung nữ hầu cận.

Lúc Càn Long biết tin Na Lạp Hoàng hậu tạ thế, thì ông đang đi săn ở Mộc Lang Vi Trường. Ông không hề sửng sốt cũng như dừng cuộc đi săn lại, mà chỉ để con trai Hoàng hậu là Hoàng thập nhị tử Vĩnh Cơ trở về Bắc Kinh chịu tang, rồi tiếp tục đi săn thú.

Khi ấy, Càn Long chỉ đưa ra một đạo thánh chỉ, viết rằng: "Lễ nghi không tiện làm lớn như tang lễ của Hiếu Hiền Hoàng hậu. Tất cả mọi nghi thức cứ chiếu theo lễ tang cho Hoàng Quý phi mà làm". Theo đó, tang lễ của Ô Lạt Na Lạp thị không được tổ chức theo nghi lễ cho Hoàng hậu mà bị giáng xuống một bậc. Chiếu theo quy định, khi Hoàng Quý phi mất, mỗi ngày đều phải có đại thần, công chúa, mệnh phụ vào thăm viếng và hành lễ. Tuy nhiên lễ tang của Ô Lạt Na Lạp thị lại hoàn toàn bị cắt bỏ nghi thức này.

Bấy giờ, có Ngự sử Lý Ngọc Minh bất bình, đã cầu xin Càn Long Đế hãy tổ chức tang lễ xứng với địa vị Hoàng hậu của bà. Kết quả, ông bị đày ra biên cương. Tuy nhiên việc đó cũng không làm chấm dứt sự bất bình của triều đình đối với việc làm của Hoàng đế. Điều đặc biệt là không chỉ triều đình, đến người trong hoàng tộc họ Giác La thị và ngay cả trong dân gian, nhất là vùng Giang Nam, vẫn liên tục phỏng đoán vụ việc này, tất cả đều đả kích việc làm của Càn Long Đế.

ke hoang hau 2

Cũng theo lệ thường, Hoàng hậu phải được an táng chung với Hoàng đế. Nhưng mộ phần của Ô Lạt Na Lạp thị thậm chí không được tiến vào địa cung Dụ Lăng của Càn Long. Bà chỉ được táng tại Phi Viên tẩm - nơi an nghỉ của các phi tần bình thường. Trong khi đó, địa cung Dụ Lăng từng chôn cất 2 vị Hoàng hậu và 3 Hoàng Quý phi.

Tuy nhiên, theo nhiều ghi chép, đám tang của Kế Hoàng Hậu còn tệ hơn thế. Không những bị cắt bỏ hầu hết những lễ nghi hoàng cung. Trên mộ Ô Lạt Na Lạp thị không có bài vị, không được cúng tế, không có cả thụy hiệu, chỉ được an táng như một cung nữ kế bên mộ của Thuần Huệ Hoàng quý phi. Toàn bộ tang sự chỉ dùng bạc 207 hai 9 phân 4 li, còn không bằng một quan viên cấp thấp trong triều đình.

NHỮNG LỜI GIẢI CHƯA CÓ HỒI KẾT VỀ SỰ THẤT SỦNG CỦA KẾ HOÀNG HẬU

Khoảng 12 năm sau, năm Càn Long thứ 43 (1778), lại có người dâng thư thỉnh Hoàng đế cử hành hậu sự cho Na Lạp Hoàng hậu, việc này khiến Càn Long Đế bắt buộc phải ra chiếu dụ giải thích:

"Từ khi Hiếu Hiền hoàng hậu qua đời đến nay, nhân Na Lạp thị là từ khi Trẫm ở Thanh Cung được Hoàng khảo ban làm Trắc phúc tấn, vị thứ đương cao, bèn tấu lên Thánh mẫu Hoàng thái hậu, sách lập làm Hoàng quý phi nhiếp lục cung sự.

Sau 3 năm sách lập làm Hoàng hậu. Về sau tự mắc lỗi lầm, trẫm vẫn rộng rãi như cũ.

Nhưng rồi tự đoạn cắt tóc, tức trái quốc tục cấm kị nhất, mà tự thế ngang nhiên không màng đến. Trẫm chỉ răn dạy, vì còn nghĩ ơn xưa, không thể phế truất.

Sau Hậu bạo băng, trẫm chỉ giảm nghi văn an táng, vẫn chưa lột bỏ danh hào. Huống hồ về sau không lập Hoàng hậu, xử lý việc này trẫm thật là đã tận tình tận nghĩa".

Theo luật nhà Thanh xưa, chỉ khi có người trong hoàng tộc mất thì mới được cắt tóc. Trong trường hợp này, cả Thái hậu và Hoàng đế đều khỏe mạnh mà Kế hoàng hậu làm thế là tội khi quân. Tuy nhiên người ta lại thấy lời giải thích ấy vẫn chưa thỏa đáng cho lắm. Vì nếu coi việc bà cắt tóc là nguyên nhân cho việc thất sủng là thật, Hoàng hậu Na Lạp thị sống trong hậu cung 30 năm, làm Hoàng hậu 15 năm, luôn ôn nhu uyển thuận, cẩn thận sáng suốt, đến cuối cùng vì việc gì mà phượng vị Hoàng hậu lẫn quốc tục tối kị đều không màng?

ke hoang hau 4

Chuyện Na Lạp hoàng hậu đột ngột bị giam cầm, được sứ giả người Triều Tiên là Hồng Đại Dung, một học giả nổi tiếng ở Triều Tiên ghi lại với tâm thế rất bất bình thay cho Hoàng hậu.

Ông từng sang triều Thanh làm sứ thần thời Càn Long, và đã ghi chép một số truyện trong cuốn Ngoại tập yến ký , ông từng ghi chép về sự kiện cấm túc Na Lạp hoàng hậu như sau:

"Khi ấy Hoàng hậu bị giam ở lãnh cung, là chuyện khiến triều đình bất bình. Năm Càn Long thứ 31, mùa thu, Hoàng hậu qua đời, lấy lễ Quý phi hạ táng. Vốn năm Càn Long thứ 30, Hoàng đế đi Quan Đông săn thú, Hoàng Hậu cũng đi theo.

Trong cung phát hiện trân bảo bị mất, là một viên đại châu. Hoàng đế ra lệnh khắp nơi tìm kiếm, cuối cùng tìm thấy tại 1 hiệu cầm đồ, điều tra ra là Thị vệ trong cung của Hoàng hậu đem viên đại châu bán lấy 400 lượng bạc, lại trên người Thị vệ này lục soát được giấy tờ có bút tích Hoàng hậu, cuối cùng Hoàng đế trảm Thị vệ ấy, còn Hoàng hậu vì vậy bị hạch tội.

Kỳ thật, chuyện này không phải Hoàng hậu làm mà là trong cung có chuyên sủng phi tần thiết kế mưu kế vu hãm Hoàng hậu mà thôi".

Trong Văn tự ngục án cung từ của Nghiêm Tăng, có nói rằng:

"Vào năm Càn Long thứ 30, Hoàng đế Nam tuần, đang ở trên đường đến Giang Nam, trước đó Hoàng hậu bị đưa về kinh sư.

Tôi khi đó ở quê hương Sơn Tây, tức nghe được có việc này. Mọi người đều nói, Hoàng đế ở Giang Nam muốn lập phi tử, Hoàng hậu không thuận theo, bởi vậy rất xúc động đem tóc cắt đi.

Cái này người nói rất nhiều.... Sau đó vào năm thứ 33, tôi dự vào kinh sư, được biết rằng có quan Ngự sử nhân việc Hoàng hậu mất, chưa từng được ban chiếu, nên bất bình đem lễ bộ tham tấu, lại bị khiển trách...

Trong lòng vọng tưởng, nếu có thể đem Hoàng hậu sự tình tiến lên viết một Chiết tử, chuẩn hành lãnh chiếu, liền có thể lưu danh bất hủ...".

Năm Càn Long thứ 30, tức ngay năm xảy ra chuyện, vào ngày 20 tháng 6, khoảng gần 4 tháng sau khi Na Lạp hoàng hậu bị giam lỏng, Càn Long Đế đã bí mật cử người điều tra về hành vi cắt tóc của hoàng hậu.

Ngày xảy ra sự việc, không thể nói một người đã sống trong cung lâu năm như hoàng hậu lại không biết điều đại kị nhưng lý do xuống tóc của Na Lạp là muốn đi tu vì quá hận Càn Long - người chồng từng chung chăn gối?

Theo Thập ngũ a ca thỉnh an chiết đã ghi lại (hiện còn trưng bày tại bảo tàng Nam Kinh, Trung Quốc), nội dung phúc đáp giữa Càn Long Đế và tổng quản Phan Phượng có nói đến sự kiện Càn Long Đế đã tra hỏi cung nữ 3 người bên cạnh Na Lạp hoàng hậu, ngay cái hôm mà Na Lạp hoàng hậu cắt tóc.

Chính Hoàng đế cũng không được nhìn tận mắt hoàng hậu xuống tóc vì khi đó bà đã đuổi hết cung nữ ra ngoài, trong phòng chỉ có một mình Na Lạp hoàng hậu.

Trong Thập ngũ a ca thỉnh an chiết Càn Long cũng đã suy đoán rằng: "Việc Hoàng hậu cắt tóc lần này thật quái đản, ý muốn rời xa, như thế xem ra hằng ngày nàng hận Trẫm rất sâu".

Có lẽ nào Ô Lạt Na Lạp thị có một nỗi niềm khó bày tỏ mà nguyên nhân không ngoài chuyện tình cảm. Sống với một người chồng mà đa tình, nạp phi liên tục như Càn Long thì hành động của Na Lạp cũng không có gì lạ. Đàn bà khi tổn thương quá nhiều, khi niềm tin đặt vào người khác quá lớn mà đột ngột bị phản bội thì chẳng trách được rơi vào bi thương.

Trung Hoa nổi tiếng với chiều dài lịch sử nhiều biến cố cùng những triều đại thay phiên nhau và những câu chuyện thâm cung bí sử ít người biết đến. Chính những câu chuyện về lịch sử lại trở thành "liều thuốc" kích thích bất cứ ai muốn tò mò về lịch sử triều đại của một quốc gia đông dân nhất thế giới này. Nếu du khách yêu thích lịch sử Trung Hoa và muốn tự mình khám phá nhiều điều thú vị hơn thì hãy thực hiện ngay một chuyến du lịch Trung Quốc cùng người bạn đồng hành Viet Viet Tourism nhé!

Từ khóa » Tộc Na Lạp Thị