Kết Quả 10 Năm Thực Hiện Chương Trình Tổng Thể CCHC Nhà Nước ...

Cụ thể, công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện CCHC đã được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ với nhiều cách làm mới, sáng tạo, thiết thực, hiệu quả; đồng thời đã huy động được sự tham gia của các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và người dân, doanh nghiệp cùng tham gia; các Nghị quyết, Kế hoạch, đề án, văn bản chỉ đạo về công tác CCHC đã được triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời; nguồn lực cho thực hiện công tác CCHC được đảm bảo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác cải cách thể chế thường xuyên được quan tâm. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách được thường xuyên rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện đảm bảo thống nhất với quy định của Trung ương và phù hợp tình hình, điều kiện thực tế của tỉnh.

Công tác cải cách TTHC và cơ chế một cửa, một cửa liên thông được triển khai thực hiện nghiêm túc, bài bản giúp thay đổi phương pháp, cách thức làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Ứng dụng công nghệ thông tin được đẩy mạnh giúp công khai, minh bạch, cắt giảm thời gian giải quyết TTHC. Đặc biệt, Bắc Giang là một trong 7 tỉnh, thành phố đầu tiên trên cả nước thành lập Trung tâm Phục vụ Hành chính công và đưa vào hoạt động từ năm 2016. Bộ phận Một cửa tại cấp huyện, cấp xã đã được triển khai áp dụng đồng bộ, hoạt động ổn định, phát huy hiệu quả. Đến nay, 91,11% TTHC của cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã được thực hiện theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Các TTHC có thời hạn giải quyết từ 15 ngày trở lên được cắt giảm từ 25-30%. Nhiều TTHC đã được giải quyết sớm, trước hạn và giải quyết trực tiếp trong ngày. Chỉ số hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) năm 2019 đạt 89,18%, đứng thứ 9/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI) năm 2019 đứng thứ 04/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Công tác cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước được chú trọng. Việc đổi mới, sắp xếp, tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả được thực hiện nghiêm túc. Đến nay, Bắc Giang đã sắp xếp giảm 13 phòng chuyên môn, chi cục và tương đương cấp sở, 142 đơn vị sự nghiệp công lập, 23 ban chỉ đạo cấp tỉnh. Đặc biệt, đã hoàn thành sắp xếp, sáp nhập 40 xã, thị trấn, 679 thôn, tổ dân phố, qua đó đã giảm 21 đơn vị hành chính cấp xã và giảm 362 thôn, tổ dân phố. Toàn tỉnh đã giảm được 3.362 biên chế so với thời điểm năm 2015, trong đó khối hành chính, sự nghiệp giảm được trên 3.000 người, đạt xấp xỉ 8%.

Công tác đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được quan tâm thực hiện thường xuyên. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức không ngừng được nâng lên cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và ý thức, tác phong, tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ. Việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp, luân chuyển, bổ nhiệm được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định trên cơ sở Đề án vị trí việc làm được phê duyệt. Việc rà soát, bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ khuyến nông, thú y, cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, cấp thôn được thực hiện kịp thời, bài bản. Công tác cải cách tài chính công, hiện đại hóa nền hành chính nhà nước, gắn với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng chính quyền điện tử thường xuyên được quan tâm thực hiện và đạt được những kết quả khả quan.

Kết quả công tác CCHC nhà nước thời gian qua đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đem đến sự hài lòng cho người dân, doanh nghiệp, qua đó tạo lập môi trường pháp lý, hành chính thông thoáng, thuận lợi, đóng góp tích cực vào kết quả thu hút đầu tư, phát triển kinh tế- xã hội và nâng cao vị thế của tỉnh (tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh giai đoạn 2011-2015 đạt bình quân 10,5%, giai đoạn 2016-2019 đạt bình quân 15,1%, năm 2019 đạt 16,2%).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác CCHC của tỉnh Bắc Giang vẫn còn một số hạn chế, khó khăn như sau:

Một số văn bản quy phạm pháp luật chưa được ban hành, rà soát sửa đổi, bổ sung kịp thời; chưa sát với thực tiễn, thiếu tính ổn định, gây khó khăn trong quá trình thực hiện.

TTHC ở một số lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; việc giải quyết TTHC liên thông 3 cấp chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Một số lĩnh vực còn để xảy ra tình trạng hồ sơ quá hạn, người dân phải đi lại nhiều lần. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết TTHC chưa thực sự phát huy hiệu quả cao. Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập, số đầu mối bên trong một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn nhiều. Việc sắp xếp, tổ chức lại khó khăn, tiến độ còn chậm. Việc phân công, phân cấp trách nhiệm tại một số nơi còn chồng chéo.

Việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chưa đạt được kết quả như kỳ vọng. Chất lượng một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp; chưa chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, văn hóa công sở, thời giờ làm việc; đặc biệt còn tình trạng cán bộ, công chức, viên chức gây khó khăn, phiền hà, có biểu hiện sách nhiễu, tiêu cực trong thực thi công vụ.

Công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm còn chưa kịp thời. Việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các đơn vị sự nghiệp công lập, nhất là tại các đơn vị có nguồn thu thấp còn gặp khó khăn. Thực hiện chính sách xã hội hóa đối với các hoạt động lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường... còn hạn chế.

Hạ tầng CNTT còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 đạt thấp. Nguồn nhân lực CNTT trong các cơ quan nhà nước còn hạn chế. Các chỉ số đánh giá cấp tỉnh liên quan đến công tác CCHC thứ hạng không ổn định, một số chỉ số mặc dù vẫn tăng điểm nhưng đang có xu hướng tụt hạng, làm mất ưu thế cạnh tranh so với các tỉnh, thành phố khác (Chỉ số CCHC Par Index năm 2012 xếp thứ 08/63, năm 2013 thứ 12, năm 2014 thứ 11, năm 2015 thứ 10, năm 2016, 2017 xếp thứ 13, năm 2018, 2019 xếp thứ 25/63; Chỉ số PCI năm 2016 xếp thứ 33/63, năm 2017 thứ 30, năm 2018 thứ 36, năm 2019 thứ 40/63).

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, khó khăn nêu trên được xác định là do CCHC là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, nhiều lĩnh vực mới, đòi hỏi nguồn lực đầu tư nhất định, quá trình thực hiện thường xuyên, lâu dài. Văn bản quy phạm pháp luật quy định TTHC trong một số lĩnh vực thường xuyên thay đổi; việc công bố TTHC của các bộ, ngành còn chưa kịp thời; chậm ban hành văn bản hướng dẫn, ảnh hưởng đến việc thống kê, sửa đổi TTHC và gây khó khăn trong quá trình áp dụng thực hiện TTHC ở địa phương, cơ sở. Điều kiện kinh tế của tỉnh còn khó khăn, cơ sở hạ tầng còn hạn chế, thiếu đồng bộ, nguồn kinh phí đầu tư cho việc thực hiện CCHC còn hạn chế, chưa được đầu tư đúng mức; chưa huy động được các nguồn kinh phí hỗ trợ phục vụ cho công tác CCHC... Nhiều nhiệm vụ đề ra nhưng chưa gắn với điều kiện kinh phí bảo đảm thực hiện.

Bên cạnh đó, một số cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, địa phương chưa thực sự quan tâm đến CCHC, chưa đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng của công tác CCHC, chưa chỉ đạo kiên quyết và thực hiện triệt để thường xuyên. Nhận thức của lãnh đạo và cán bộ, công chức ở một số đơn vị về CCHC chưa đồng bộ, không muốn thay đổi cách làm, cách nghĩ theo mô hình và các hình thức mới. Trình độ CNTT của một số cán bộ, công chức còn hạn chế, đặc biệt là đội ngũ công chức chuyên trách CNTT. Chưa chủ động tham mưu, triển khai các ứng dụng CNTT theo yêu cầu mới, chưa nắm bắt được công nghệ, chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các đơn vị tư vấn thiết kế. Một bộ phận CB, CC, VC chưa thực hiện tốt kỷ luật, kỷ cương hành chính, thiếu trách nhiệm, chưa tự giác nghiên cứu, học tập rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực công tác; chưa tận tuỵ với nhiệm vụ được giao, còn biểu hiện ngại khó khăn, dẫn đến hiệu quả công tác không cao. Công tác tuyên truyền, phổ biến về CCHC chưa thực sự hiệu quả, chưa tạo chuyển biến mạnh mẽ về hành động trong cấp ủy, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát được chú trọng nhưng việc khắc phục hạn chế, tồn tại sau kiểm tra, giám sát chưa được các cấp, các ngành có biện pháp khắc phục triệt để.

Tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020, UBND tỉnh Bắc Giang rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

Thứ nhất, để thực hiện tốt công tác CCHC, cấp ủy, chính quyền các cấp cần phải xác định CCHC là nhiệm vụ trọng tâm, là khâu đột phá; phải chú trọng và quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt và thường xuyên đồng thời với các nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Có sự tham gia, phối hợp và giám sát của cấp ủy và các đoàn thể chính trị xã hội các cấp từ cấp tỉnh đến cấp xã.

Thứ hai, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương cần có những đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm đối với những công việc mới, tạo sự thay đổi về tư duy và hành động, tạo sự thay đổi về phương pháp chỉ đạo, điều hành và trong giải quyết các công việc, có tính đột phá, tạo ra hiệu ứng, sức lan tỏa và hiệu quả trên thực tế (như mô hình Trung tâm Phục vụ Hành chính công, Bộ phận một cửa kiểu mẫu...), không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp, tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất, kinh doanh.

Thứ ba, xác định những nhiệm vụ trọng tâm của CCHC: Cần phải xác định rõ và thực hiện tốt những nhiệm vụ trọng tâm có tác động trực tiếp như: cải cách TTHC, giải quyết hồ sơ TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng và hiện đại hóa nền hành chính ... trên cơ sở đó, tập trung nguồn lực về nhân lực và vật chất để tổ chức thực hiện như phân công, bố trí cán bộ, công chức có trình độ năng lực chuyên môn, có kinh nghiệm, kỹ năng, có phẩm chất tốt; quan tâm cải thiện điều kiện làm việc và có chế độ, chính sách phù hợp để khuyến khích, động viên kịp thời.

Thứ tư, cần tích cực ứng dụng CNTT mạnh mẽ hơn nữa trong công tác CCHC như ứng dụng Cổng thông tin điện tử, Cổng Dịch vụ công, Trục liên thông văn bản, phần mềm Quản lý văn bản và điều hành công việc, Hệ thống thông tin một cửa điện tử liên thông 03 cấp, Phần mềm chấm điểm chỉ số CCHC, hệ thống họp trực tuyến và các phần mềm chuyên ngành khác để nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc và nâng cao chất lượng quản lý của cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ năm, tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo CCHC tỉnh, trong đó phân công rõ việc phụ trách và triển khai các nhiệm vụ trên từng lĩnh vực CCHC theo chức năng, nhiệm vụ và phạm vi quản lý của từng ngành, từng cơ quan, đơn vị. Đồng thời, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp khi triển khai những nhiệm vụ chung liên quan đến nhiều ngành, nhiều cơ quan, đơn vị.

Thứ sáu, chú trọng công tác kiểm tra, giám sát: Trong quá trình tổ chức thực hiện cần phải thường xuyên có sự hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát của cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới, tự kiểm tra của các cơ quan, đơn vị để kịp thời khắc phục hạn chế, thiếu sót hoặc vi phạm, từ đó rút kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn.

Trong điều kiện tỉnh Bắc Giang đang ngày càng hội nhập sâu rộng, tính cạnh tranh ngày càng tăng cao, cần tận dụng tốt các cơ hội, những tiềm năng, lợi thế và những thành tựu của tỉnh, vượt qua thách thức để tạo bước phát triển đột phá. Trong giai đoạn tới, UBND tỉnh yêu cầu các cơ quan, đơn vị, địa phương phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế, khó khăn nêu trên, quan tâm triển khai thực hiện tốt những nội dung, nhiệm vụ sau:

Để tiếp tục đẩy mạnh công tác CCHC nhà nước trong giai đoạn 2021-2030, tỉnh Bắc Giang xác định cần thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

- Các cấp ủy đảng, chính quyền chủ động bám sát các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước, nội dung, nhiệm vụ trong Chương trình tổng thể CCHC nhà nước của Chính phủ, đảm bảo phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế của ngành, địa phương. Chủ động xây dựng kế hoạch để tổ chức triển khai thực hiện, trong đó cần chú trọng nâng cao nhận thức, ý thức, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp trong thực thi công vụ.

- Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, chính sách để tạo cơ sở pháp lý đồng bộ thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh, góp phần thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.

- Đẩy mạnh thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC; thường xuyên rà soát các TTHC, đơn giản hóa quy trình, thành phần hồ sơ, cắt giảm thời gian giải quyết; ứng dụng Hệ thống phần mềm một cửa điện tử liên thông các cấp; giải quyết hồ sơ TTHC trực tuyến mức độ 3, mức độ 4, tạo thuận lợi tối đa cho người dân và doanh nghiệp khi giải quyết TTHC.

- Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan hành chính cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý các đơn vị SNCL bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương 6 khóa XII và Kế hoạch số 47-KH/TU ngày 30/5/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

- Nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ CB, CC, VC; công tác quản lý, sử dụng biên chế hành chính, sự nghiệp; bố trí sắp xếp CB, CC, VC theo vị trí việc làm kết hợp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng. Tiếp tục thực hiện tinh giản biên chế theo quy định của Chính phủ. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thi hành nhiệm vụ, công vụ, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải đổi mới tư duy, nhận thức và hành động trong thi hành nhiệm vụ, công vụ. Chuyển từ tư duy “cho phép”, “cấp phép” sang tư duy “phục vụ”; không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ; chấp hành và thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính; xây dựng văn hóa công sở: “4 xin (Xin chào – Xin cảm ơn- Xin phép- Xin lỗi), 4 luôn (Luôn mỉm cười- Luôn nhẹ nhàng- Luôn lắng nghe - Luôn giúp đỡ), 5 không (Không cửa quyền hách dịch - Không quan liêu vô cảm – Không tham nhũng lãng phí - Không gian dối - Không lợi dụng chức vụ quyền hạn).

- Thực hiện tốt các quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý, sử dụng kinh phí trong cơ quan hành chính, đơn vị SNCL; đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực mà tư nhân có thể làm tốt như: y tế, giáo dục, đào tạo nghề, thể dục thể thao, môi trường …

- Triển khai thực hiện tốt chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4; đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, đặc biệt trong việc giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp, trong điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, địa phương; hoàn thành các mục tiêu của chính quyền điện tử.

- Quan tâm đầu tư nguồn lực để cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc các cơ quan hành chính nhà nước, nhất là ở cấp xã. Bố trí đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị tạo điều kiện cho CB, CC, VC làm việc hiệu quả, năng suất cao.

- Kiện toàn, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các thành viên Ban Chỉ đạo CCHC tỉnh; tăng cường công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát và xử lý kiên quyết đối với những trường hợp cán bộ, công chức, viên chức vi phạm đạo đức công vụ, kỷ luật, kỷ cương hành chính, đặc biệt là các hành vi gây khó khăn, phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực đối với doanh nghiệp và người dân.

- Tiếp tục thông tin, tuyên truyền, phổ biến các nội dung công tác CCHC đến CB, CC, VC, người dân và doanh nghiệp thông qua các cơ quan thông tin đại chúng và các hình thức phù hợp, hiệu quả để không ngừng nâng cao hơn nữa công tác CCHC trên địa bàn tỉnh./.

Nguyễn Duy Đoàn - Phó Trưởng phòng Cải cách hành chính, Sở Nội vụ tỉnh Bắc Giang.

Từ khóa » Pci Năm 2018 Của Bắc Giang