Khả Năng Sinh Trưởng Và Tỷ Lệ Sống Của Trùn Chỉ (Limnodrilus ...

Tóm tắt

Nghiên cứu này được tiến hành với mục đích tìm ra nền đáy thích hợp cho việc nuôi sinh khối trùn chỉ (L. hoffmeisteri). Thí nghiệm được tiến hành trong phòng thí nghiệm với 4 nghiệm thức khác nhau về nền đáy, một nghiệm thức đối chứng là bùn đáy, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Thành phần kết hợp là phân bò đã được ủ chế phẩm sinh học và cát mịn. Sau 15 ngày thí nghiệm, tỷ lệ sống cũng như tốc độ sinh trưởng của trùn chỉ cao nhất ở nghiệm thức đối chứng (tỷ lệ sống 95,0 ± 1,9%, sinh trưởng tuyệt đối 0,32 ± 0,09mg/ngày, sinh trưởng tương đối 8,60 ± 1,56 %/ngày), tiếp đến nền đáy phối hợp 75% phân bò + 25% cát mịn (tỷ lệ sống 87,6 ± 3,2%, sinh trưởng tuyệt đối 0,31 ± 0,03mg/ngày, sinh trưởng tương đối 8,58± 0,54 %/ngày), không có ý nghĩa thống kê giữa 2 nghiệm thức này (P>0,05) và kết quả thấp nhất ở nghiệm thức kết hợp nền đáy 25% phân bò + 75% cát mịn (tỷ lệ sống 70,9 ± 6,3%, sinh trưởng tuyệt đối 0,16 ± 0,03 mg/ngày, sinh trưởng tương đối 5,68 ± 0,74%/ngày) sai khác có ý nghĩa thống kê với các nghiệm thức còn lại P<0,05. Như vậy, nên chọn chất nền là bùn hoặc có thể chọn nền đáy kết hợp 75% phân bò và 25% cát mịn để nuôi trùn chỉ.

1. Giới thiệu

Với tầm quan trọng của trùn chỉ, trên thế giới có khá nhiều đề tài nghiên cứu về khả năng nuôi sinh khối đối tượng này. Tuy nhiên, những nghiên cứu về trùn chỉ tập trung chủ yếu ở vùng ôn đới. Thông tin về nuôi sinh khối trùn chỉ (L. hoffmeisteri) chưa có ở Việt Nam. Mặc dù có dữ liệu về đặc điểm sinh học và nuôi sinh khối trùn chỉ nhưng là loài Tubifex tubifex (Đinh Thế Nhân, 1999). Nghiên cứu này nhằm báo cáo về khả năng phát triển của trùn chỉ ở nền đáy khác nhau trong điều kiện phòng thí nghiệm.

2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu

Vật liệu nghiên cứu

Thí nghiệm được tiến hành nghiên cứu từ tháng 1/2013 – 3/3013, tại phòng thí nghiệm Sinh lý – Sinh thái, Trường Đại học Nha Trang – Khánh Hòa. Trùn chỉ (L.hoffmeisteri) chọn lọc từ rãnh nước thải ở Xã Vĩnh Phương – TP Nha Trang – Khánh Hòa, được nuôi giữ giống tại phòng thí và được nhân gống trước khi tiến hành thí nghiệm 2 tháng để có đủ số lượng trùn chỉ như mong muốn.

Mục đích của thí nghiệm là xác định nền đáy tối ưu cho L.hoffmeisteri. Nền đáy được phối hợp giữa phân bò đã qua ủ với với chế phẩm sinh học Balasa – N01 trước khi sử dụng 1 tháng và cát mịn với các tỷ lệ khác nhau.

Phân bò được lấy mẫu đem đi phân tích vi sinh và trứng giun sán trước khi sử dụng. Định tích các loại vi sinh vật phổ biến trong phân (Coliforms phân, Escherichia coli, Streptococcus phân, Salmonella, Vi khuẩn Vibriospp) bằng cách cấy mẫu trên các môi trường đặc trưng. Phân tích định tính trứng giun sán theo phương pháp phù nổi và gạn rửa sa lắng; định lượng bằng cách đếm trứng trên buồng đếm Mc Master.

Bùn đáy sử dụng trong nghiệm thức đối chứng được lấy từ khu vực đã thu trùn chỉ. Bùn đáy được ray qua vợt có mắt lưới 2a = 0,5mm để loại bỏ toàn bộ các loài sinh vật không liên quan sau đó đem tiệt trùng để loại bỏ toàn bộ kén giun ít tơ còn sót lại.

Bố trí thí nghiệm

Điều kiện thí nghiệm

Thí nghiệm để đánh giá khả năng sinh trưởng và gia tăng mật độ của trùn chỉ L.hoffmeisteri với mức phối hợp nền đáy khác nhau chúng tôi tiến hành nuôi trùn chỉ với mật độ 1con/cm2 trong khay nhựa có diện tích 150cm2 (10 x 15cm). Khay nuôi trùn chỉ được cấp 2 cm nền đáy. Sau khi thả trùn, khay nuôi được đặt dưới hệ thống nước chảy nhỏ giọt trong phòng thí nghiệm. Nhiệt độ và ánh sáng tự nhiên.

Định kỳ 3 ngày cho trùn chỉ ăn một lần, thức ăn là cám gạo, với liều lượng cho ăn bằng 15% trọng lượng cơ thể/1 ngày trước khi cho ăn thức ăn được ngâm trong nước 1 ngày trong điều kiện nhiệt độ phòng. Khi cho ăn tắt hệ thống nước chảy nhỏ giọt, cấp thức ăn vào khay nuôi sau 3 – 4 tiếng để toàn bộ thức ăn lắng xuống đáy mới cho nước chảy trở lại.

Bố trí thí nghiệm

Thí nghiệm gồm 5 nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, mỗi nghiệm thức được lặp lại 5 lần. Các nghiệm thức được bố trí như sau: NT1: nền đáy 100% phân bò; NT2: nền đáy 75% phân bò + 25% cát mịn; NT3: nền đáy 50% phân bò + 50% cát mịn; NT4: nền đáy 25% phân bò + 75% cát mịn; NT5: nền đáy 100% bùn đáy (nghiệm thức đối chứng)

Thí nghiệm được thực hiện trong khoảng thời gian là 15 ngày, kết thúc đợt thí nghiệm tiến hành thu toàn bộ trùn chỉ, đếm số lượng xác định tỷ lệ sống, cân trọng lượng xác định tăng trưởng tuyệt đối và tăng trưởng tương đối.

Phương pháp thu thập, tính toán và xử lý số liệu

Chỉ tiêu đánh giá

Khối lượng, mật độ của quần thể trùn chỉ được cân và đếm ở cuối mỗi chu kỳ nuôi. Cuối chu kỳ nuôi, thu toàn bộ nền đáy rây qua vợt có mắt lưới 2a = 0,5mm, sau đó đổ ra khay 600cm, dùng ống pipet thu và đếm số lượng trùn, tiếp đến loại bỏ toàn bộ chất bẩn bám vào trùn chỉ rồi đem cân trọng lượng bằng cân điện tử.

Xử lý số liệu

Số liệu đã thu thập được xử lý sơ bộ với chương trình Excel và xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 18, so sánh sự khác biệt giữa các nghiệm thức (ANOVA) sau đó sử dụng phép thử LSD để kiểm chứng.

3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Thành phần vi sinh vật và giun sán của phân bò trước và sau khi ủ vi sinh

Thành phần loài và mật độ vi sinh vật có trong phân trước và sau khi ủ

Kết quả phân tích ở bảng 2 cho thấy phân bò trước khu ủ nhiễm 4 loài vi khuẩn khác nhau E. coli, Vibrio spp., Streptococcus phân, Coliforms phân. Trong đó Vibrio. spp ở mức độ 107 CFU/g được xem là có cường độ nhiễm cao nhất, Coliforms phân có mật độ tế bào là 106 CFU/g, Streptococcus phân, E. coli có cường độ nhiễm thấp nhất với 104 CFU/g.

Sau khi ủ, thành phần loài và mật độ vi sinh vật trong phân bò đều giảm rõ dệt. Mẫu đem đi phân tích dương tính với một loài vi khuẩn duy nhất đó là E. coli. Mật độ của vi khuẩn này trong mẫu sau khi ủ với chế phẩm sinh học là 102 CFU/g thấp hơn nhiều so với trước khi ủ (104 CFU/g).

Thành phần loài và mật độ trứng giun sán có trong phân trước và sau khi ủ

Trong phân bò tươi chưa qua xử lý không phát hiện thấy trứng sán. Trái lại, Phân bò tươi nhiễm trứng giun xoắn đường tiêu hóa với cường độ nhiễm cao (+++). Kết quả đếm trứng giun xoắn bằng buồng đếm Mc Master cho thấy, mật độ trứng/gam phân là 567±132. Sau thời gian 1 tháng ủ với chế phẩm sinh học Balasa -N01, mẫu phân bò đem xét nghiệm cho kết quả âm tính đối với trứng giun xoắn. Điều này cho thấy, hiệu quả về tiêu diệt mầm bệnh do kí sinh trùng có trong phân gây ra của phương pháp ủ phân với chế phẩm sinh học đạt kết quả tốt bảng 3.

Tăng trưởng và Tỷ lệ sống của quần thể trùn chỉ

3.4.1 Sinh trưởng

Sau 15 ngày nuôi, tăng trưởng của trùn chỉ bị ảnh hưởng đáng kể bởi nền đáy nuôi. Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối cũng như tăng trưởng tương đối của nghiệm thức đối chứng (NT5) là lớn nhất (0,33 ± 0,09 mg/ngày, 8,60 ± 1,56%/ngày), tiếp đến là nghiệm thức phối hợp 75% phân bò & 25% cát mịn (NT2) và phối hợp 50% phân bò & 50% cát mịn (NT3), thấp nhất là ở nghiệm thức phối hợp 25% phân bò 75% cát mịn (NT 4) (0,16 ± 0,03 mg/ngày, 5,68 ± 0,74%/ngày). Sự sai khác về tốt độ tăng trưởng tương đối và tuyệt đối của trùn chỉ giữa nhóm cao nhất (TN5, NT2, NT3) và nhóm thấp nhất (NT4, NT1) có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Tuy nhiên, sự sai khác về tăng trưởng của trùn chỉ giữa nghiệm thức đối chứng với nghiệm thức thứ 2 và thứ 3 không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Điều này cho thấy có thể chọn nền đáy là bùn hoặc nền đáy có tỷ lệ phối hợp phân bò từ 50% đến 75% với cát mịn để nuôi trùn chỉ. Tuy nhiên để trùn chỉ thích ứng nhanh và có thể tham gia sinh sản ngay trong thời gian nuôi ngắn nhất nên chọn nền đáy nuôi là đáy bùn. Kết quả về tăng trưởng của trùn chỉ ở nền đáy phối hợp giữ phân bò và cát mịn ít có sự khác biệt khi tăng hàm lượng phân bò từ 25% đến 75%. Trái ngược với kết quả nghiên cứu của M Peter Marian (1984) khi nuôi sinh khối loài Tubifex tubifex, tốc độ tăng trưởng đã gần như gấp đôi và sau đó tăng gấp đôi, khi bổ sung các phân bò tăng từ 25 đến 75%. Sự khác biệt này có thể do M Peter Marian (1984) nuôi sinh khối bằng phân bò tươi, hàm lượng dinh dưỡng cao hơn phân bò đã ủ sau một tháng. Thêm vào đó, phân bò tươi có độ mịn hơn phân bò khô, thuận lợi cho việc lấy thức ăn và chui rúc của trùn chỉ.

3.4.2 Tỷ lệ sống

Trong thời gian thí nghiệm 15 ngày, tỷ lệ sống của L. hoffmeisteri ở các nền đáy khác nhau giao động từ 74,4 đến 95,0%. Tỷ lệ sống của trùn chỉ cao nhất ở nghiệm thức đối chứng (95,0 ± 1,9%), thấp nhất ở nghiệm thức phối hợp 75% cát mịn với 25% phân bò 70,9 ± 6,3 %, tiếp đến là nghiệm thức có 100% phân bò làm nền đáy (74,4 ± 5,1) sự sai khác này có ý nghĩa thống kê (P< 0,05). Nghiệm thức phối hợp 50% phân bò với 50% cát mịn và 75% phân bò với 25% cát mịn đều có tỷ lệ sống trên trung bình 80% tương ứng là 83,9 ± 1,7 % và 87,6 ± 3,2 %, sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Kết quả về tỷ lệ sống của thí nghiệm cao hơn so với nghiên cứu của M Peter Marian (1984) về tỷ lệ sống của trùn chỉ loài (Tubifex tubifex). Tỷ lệ sống của T. tubifex ở các nền đáy khác nhau giao động từ 70 đến 80% (M Peter Marian,1984)

Kết thúc 15 ngày thí nghiệm, ở các nghiệm thức có nền đáy là phân bò hoặc phối hợp giữa phân bò và cát mịn chưa thấy xuất hiện trùn chỉ con và kén trùn chỉ. Ngược lại, khi thu mẫu ở nghiệm đối chứng chúng tôi đã phát hiện trùn chỉ con. Trùn con có kích thước nhỏ, cơ thể có màu hồng nhạt. Đặc biệt, trong các khay đối chứng đã xuất hiện kén. Điều này chứng tỏ sau thời gian thích ứng với môi trường nuôi nhân tạo trùn chỉ đã tham gia sinh sản vô tính một số con thành thục sinh dục đã tham gia sinh sản hữu tính.

Trùn chỉ có thể sống trong nền đáy phối hợp giữa phân bò và cát mịn (tỷ lệ sống >70%). Tuy nhiên, tỷ lệ sống của trùn chỉ ở nền đáy phối hợp giữa phân bò và cát mịn vẫn thấp hơn nền đáy đối chứng (đáy bùn). Điều khác biệt nữa, đối với nền đáy mới hoàn toàn trùn chỉ phải mất thời gian thích nghi, chưa thể tham gia sinh sản ngay trong thời gian nuôi 15 ngày.

4. Kết luận và đề xuất ý kiến

4. 1 Kết luận

– Phân bò ủ yếm khí với chế phẩm sinh học có thay đổi rõ về màu, mùi theo hướng tích cực, giảm số lượng cũng như mật độ vi sinh vật, trứng giun sán, giảm ô nhiễm môi trường. Sau khi ủ phân bò không bị nhiễm trứng giun xoắn đường ruột, sán, chỉ nhiễm vi khuẩn E. coli với mật độ 102 CFU/g, hàm lượng Protein 6,61%, Độ ẩm 7,2%, Tro 5,6%, Canxi 98,7% và Photpho 69,7%.

– Tốc độ sinh trưởng tương đối và tuyệt đối của trùn chỉ ở nghiệm thức đối chứng cao nhất (0,32 ± 0,09 mg/ngày, 8,60 ± 1,56 %/ngày), nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê so với tốc độ sinh trưởng của trùn chỉ ở nghiệm thức phối hợp 75%, 50% phân bò & 25%, 50% cát mịn tương ứng (P>0.05).

– Tỷ lệ sống của trùn chỉ từ 74,4 đến 95,0%, cao nhất ở nghiệm thức đối chứng (95,0 ± 1,9%) và thấp nhất ở nghiệm thức có mức phối hợp phân bò 25% và cát mịn 75% (70,9 ± 6,3 %). Duy nhất ở nghiệm thức đối trứng có sự xuất hiện của trùn chỉ con và kén trùn chỉ.

4.2 Đề xuất

– Trùn chỉ sinh trưởng và sinh sản tốt ở nền đáy bùn tuy nhiên trong nuôi nhân tạo việc cung cấp 100% đáy bùn sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó cần tiếp tục nghiên cứu mức phối hợp giữa bùn và cát mịn để tìm ra nền đáy nuôi thích hợp nhất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giere, O. and Pfannkuche, O. 1982. Biology and ecology of marine oligochaete,a review. In: M. Barnes (ed.), Oceanogr. Mar. Biol.Aberdeen University Press, pp 173-308.

2. Phillips, G.R. and Buhler, D.R. 1979. Influences of dieldrin on the growth and body composition of fingerling of rainbow trout (Salmo gairdneri) fed Oregon moist pellets or Tubificid worms (Tubifex sp.). J. Fish. Res., Board Canada, 36: 77-80.

3. Marian. M. P, T.J. Pandian, 1984. Culture and harvesting techniques for tubifex tubifex, Aquaculture, 42, 303-315.

4. Wilmoth, J. H. 1967. Biology of Invertebrate. Prenticehall, Inc. Englewood Cliffs. New Yersey

5. Đinh Thế Nhân, 1999. Nghiên cứu đặc điểm sinh học và nuôi trùn chỉ (Tubifex tubifex). Tạp chí Nông Lâm Nghiệp, số 11/1999, trang 55-58

Từ khóa » Cách Nuôi Trùn Chỉ