Khang Hy - Vị Minh Quân Minh Hiếm Có Nhất Trung Quốc

Là kết quả của cuộc hôn nhân gượng ép, vua Khang Hy bị cha ghẻ lạnh nhưng lại được bà nội cưng chiều hết mực. 8 tuổi, ông lên ngôi Hoàng đế và trở thành vị vua hiếm có của lịch sử Trung Hoa.

Vua Khang Hy tên thật là Ái Tân Giác La Huyền Diệp (1654 - 1722) là vị vua thứ 4 của nhà Thanh. Ông cai trị toàn cõi Trung Quốc từ năm 1662 đến khi qua đời.

Trong lịch sử Trung Hoa, Khang Hy nổi tiếng là vị minh quân hiếm có, biết chiêu mộ hiền tài, luôn lấy dân làm gốc, có tấm lòng bao dung, độ lượng và hết lòng vì việc nước nên ông đã khiến Trung Quốc trở thành quốc gia có diện tích lãnh thổ lớn nhất, dân cư đông đúc nhất, kinh tế giàu có nhất, văn hóa phồn thịnh nhất, thực lực quốc gia mạnh nhất trên thế giới. Ông đã kiến lập được một lãnh thổ rất thịnh suy gọi là “Khang Càn thịnh thế”, và là một vị minh quân hiếm có từ xưa tới nay.

Ông cũng là vị vua thường xuyên cải trang làm dân thường để đi thị sát, tìm hiểu cuộc sống của dân. Vậy nên, người Trung Quốc hay có câu "Khang Hy vi hành" để nói về vị vua này. Câu chuyện vi hành của ông cũng là nguồn cảm hứng cho bộ phim nổi tiếng Trung Quốc một thời Khang Hy vi hành.

khang hy 1

Đứa con bị cha ghẻ lạnh, bà nội nuôi dạy

Khang Hy là con trai của Thuận Trị Hoàng đế và Hiếu Khang Hoàng hậu. Mẹ của ông vốn họ Đông thị, về sau đổi thành Đông Giai thị, là con gái của một công thần. Cuộc hôn nhân của Hoàng đế và Đông thị vốn chỉ là cuộc hôn nhân chính trị được sắp đặt, nên mẹ của Khang Hi không được vua sủng ái. Vậy nên, Thuận Trị Hoàng đế cũng không mặn mà gì với Huyền Diệp.

Tuy nhiên, bà nội của Khang Hi là Hiếu Trang Hoàng thái hậu lại cực kỳ cưng chiều cháu. Khi Huyền Diệp lên 8 tuổi, Thuận Trị Hoàng đế qua đời. Ông được bà nội nuôi nấng và sắp đặt để kế thừa ngai vàng.

Dù tuổi còn nhỏ lại được bà nội cưng chiều, nhưng Huyền Diệp tỏ ra là một đứa trẻ ngoan ngoãn, thông minh và ham học hỏi. Theo Wikipedia, nhà Hán học Herbert Giles ghi chép rằng Huyền Diệp là một cậu bé có thân hình cân đối, đôi mắt to lanh lợi và yêu thích các môn thể dục, thường dành 3 tháng mỗi năm để đi săn bắn. Tuy nhiên trong mắt Huyền Diệp có vài đốm nhỏ là di chứng của bệnh đậu mùa mà ông mắc khi 5 tuổi.

Ngày 7/2/1662, dù mới tròn 8 tuổi nhưng Huyền Diệp đã lên ngôi, lấy niên hiệu là Khang Hy. Hiếu Trang Hoàng thái hậu được tôn làm Thái hoàng thái hậu, giúp đỡ vị vua nhỏ tuổi cùng 4 đại thần là Sách Ni, Tô Khắc Táp Cáp, Át Tất Long và Ngao Bái giải quyết chuyện triều chính.

Dẹp loạn gian thần

Nổi tiếng là vị vua anh minh, có công lớn trong lịch sử Trung Hoa, Khang Hy Đế không chỉ chiếm được lòng dân mà còn giúp dẹp loạn, thống nhất và duy trì sự cường thịnh cho Đế quốc Đại Thanh.

Bởi lên ngôi từ lúc còn quá nhỏ nên Khang Hy Đế không được lòng tất cả các đại thần, ngay cả 4 vị quan hầu cận ngay bên cạnh ông. Đặc biệt Ngao Bái là quan thần tỏ rõ thái độ hống hách, không phục Hoàng đế và lôi Át Tất Long về phe cánh của mình.

Sách Ni tuổi cao sức yếu, gần như không thể phò tá gì cho vị vua nhỏ tuổi. Chỉ có duy nhất Tô Khắc Táp Cáp là trung thần, tính tình cương trực. Dù phản đối Ngao Bái nhưng xét về thế lực, vị quan này yếu thế hơn hẳn.

Ở thời điểm Khang Hy lên ngôi, Trung Hoa còn tồn đọng nhiều vấn đề bất cập: dân chúng lầm than lại bất mãn với triều đình, thù trong giặc ngoài, đất nước còn bị chia cắt. Vậy nên, việc các quan thần chia bè kéo cánh kết hợp với khó khăn ngoài triều chính khiến cho trách nhiệm càng lớn lao đè nén lên ngai vàng của vị vua nhỏ tuổi.

Tuy nhiên, nhờ sự hậu thuẫn vững chắc của Thái hoàng thái hậu, vua Khang Hy từng bước chậm mà chắc vừa học hỏi lại vừa tiếp quản vương triều một cách chắc chắn.

Trước thế sự nước nhà, Hoàng thái hậu Hiếu Trang hỏi cháu nghĩ gì, vua Khang Hy trả lời: "Duy nhân giả vô địch" (nghĩa là: "Chỉ có người nhân từ mới không có kẻ địch"). Vậy nên, ông cai quản nước nhà với một tấm lòng bao dung, độ lượng.

Trước các quan thần, ông nói: "Định loạn chi phương, duy sùng thượng khoan đại, khoan tắc đắc chúng. Trì thiên hạ chi đạo, dĩ khoan vi bản" (nghĩa là: "Để dẹp loạn, chỉ có duy trì lòng khoan dung, tấm lòng rộng rãi ắt được lòng dân. Đạo lý trị vì thiên hạ, lấy khoan dung làm căn bản").

khang hy 3

Năm 1666, Ngao Bái tìm mọi cách trừ khử các quan thần phản đối hắn bên cạnh vua. Sau khi đạt được mục đích, hắn ngày càng lộng hành, không coi vua ra gì. Quá phẫn nộ với hành động ngang ngược của Ngao Bái, năm 1667, vua Khang Hy muốn trừ bỏ gian thần để dẹp loạn triều chính trước tiên. Tuy nhiên, bè cánh của Ngao Bái quá đông, Khang Hy Đế phải nghĩ cách dẹp loạn từ từ.

Mất 2 năm sau đó, đến năm 1669, Ngao Bái bị vạch trần tội ác và tống giam trong ngục. Ít lâu sau, tên gian thần này chết trong ngục tối. Từ đó, vua Khang Hy chính thức tự quyết chuyện triều chính.

Thống nhất Mãn - Hán

Trong suốt triều đại nhà Thanh (1644-1912), Trung Hoa nằm dưới quyền cai trị của người Mãn Châu đến từ phương Bắc. Nội bộ Trung Hoa luôn có sự xung đột sắc tộc giữa người Hán và người Mãn.

Khang Hy Đế là người đã nhận ra để củng cố quyền lực và sự lớn mạnh của nước nhà, cần phải thống nhất các dân tộc lại với nhau. Vậy nên, trước mọi quan lại trong triều, Khang Hy Đế luôn nhấn mạnh: "Mãn hay Hán đều là bề tôi của trẫm. Mãn Hán là một thể thống nhất".

khang hy 4

Theo sử sách, lãnh thổ Trung Quốc được mở rộng rất nhiều dưới thời vua Khang Hy. "Từ trước đến thời Khang Hy, Trung Quốc chưa từng có thời kỳ nào lãnh thổ rộng lớn, thống nhất, đa sắc tộc và được quản lý hiệu quả, lâu dài như vậy", Wikipedia viết.

Năm 1720, vào ngày sinh nhật thứ 66 của Khang Hy Đế, triều đình mở đại yến tiệc kéo dài 3 ngày nhằm ăn mừng kỷ niệm Mãn Hán thống nhất. Bữa tiệc này còn được gọi là "Mãn Hán toàn tịch" nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa.

Lấy dân làm gốc, chiêu mộ hiền tài

Khang Hy lấy dân làm gốc. Trong những năm tháng trị vì đất nước, ông luôn thương yêu dân, vì dân, quan sát lòng dân, làm phúc cho dân ở khắp mọi nơi. Khang Hy chú trọng khôi phục và phát triển sản xuất, cùng dân nghỉ ngơi dưỡng sức. Nhiều lần ông hạ lệnh đình chỉ việc khoanh vùng lãnh thổ, bãi bỏ thuế ruộng hơn 545 lượt, kế ngân 1.500.000 lạng bạc. Ông tuyên bố: “Sinh thêm nhân khẩu, vĩnh viễn không tăng thêm thuế“, khiến thuế nhân khẩu cả nước giảm xuống, đỡ gánh nặng cho nông dân. Ông coi trọng quản lý sông Hoàng Hà, tự mình giám sát việc trị thủy suốt hơn 10 năm để nhân dân đỡ khổ vì nạn lũ lụt.

Lúc ấy, cửa Bắc Trường Thành bị nghiêng lún rất nhiều, công bộ và nha môn xin xây dựng tu bổ lại. Khang Hy nói với các đại học sỹ: “Việc Đế vương trị vì thiên hạ đều là có căn nguyên của nó, không phụ thuộc vào việc thành quách hiểm. Từ khi nhà Tần xây dựng Trường Thành tới nay, các triều Hán, Đường, Tống cũng đã thường sửa chữa, lúc ấy thật sự không gặp tai họa biên cương nào nữa sao? Cuối đời nhà Minh, đại quân của Thái Tổ tiến quân thần tốc, tỏa đi mọi hướng, đều không có ai dám đương đầu. Có thể thấy rằng đạo lý giữ nước, chỉ có tu đức an dân, hợp lòng dân mới chắc chắn giữ được đất nước, vùng biên cương tự nhiên vững chắc, đây cũng là điều mà người ta gọi là mọi người đồng tâm hiệp lực thì sức mạnh sẽ như bức tường đồng không thể phá.”

Một lần, Khang Hy đang đi thị sát ở khu vực phía Bắc Trường Thành, ông phát hiện thấy một người nằm bất động bên đường. Ông tự mình tiến đến hỏi thăm, biết người này tên là Vương Tứ Hải, là một người làm thuê, trên đường về nhà bị đói quỵ xuống không dậy nổi. Khang Hy lập tức sai người cho ông ta ăn chút cháo nóng. Khi Vương Tứ Hải tỉnh dậy, hoàng đế mang ông ta về hành cung, rồi cho tiền lộ phí và phái người đưa ông ta về tận nhà.

khang hy 5

Khang Hy thi hành rộng rãi chính sách loại bỏ, giảm bớt hình phạt. Năm thứ 22 thời Khang Hy, toàn bộ số phạm nhân bị phán quyết án tử hình trong cả nước chỉ có chưa đến 40 người.

Khang Hy không những quan tâm chăm sóc trăm họ, mà còn yêu cầu quan lại cũng phải yêu thương dân như con. Ông mặc dù không hạn chế trong việc tuyển chọn nhân tài, nhưng tiêu chuẩn để lựa chọn thì yêu cầu hết sức nghiêm ngặt. Ông dùng người trước sau đều giữ vững một tiêu chuẩn là: “Quốc gia dùng người, lấy đức làm gốc, tài nghệ là thứ yếu“. “Tài đức đều cao thì tốt, nếu có tài mà không có đức, thì cũng không bằng người có đức mà không có tài“. Ông còn nói: “Xét tài năng thì phải lấy đức làm căn bản, đức hơn tài thì là người quân tử, tài hơn đức là kẻ tiểu nhân“.

Để trấn an quan lại dân tộc Hán, Khang Hy đã nhiều lần lặp đi lặp lại “Mãn hay Hán đều là bề tôi của trẫm“, “Mãn Hán là một thể thống nhất“, “Quan lại lớn nhỏ trong triều đều là những người mà trẫm tín nhiệm, các quan đều cần phải khuyên can, dâng sớ, không được thoái thác trách nhiệm“. Một số ít trí thức ẩn cư trong rừng núi đã ra làm quan, sự ngăn cách giữa dân tộc Mãn với dân tộc Hán và các dân tộc khác dần dần tan biến, rồi cuối cùng dung hợp với nhau.

Để hình thành nên nếp sống tốt đẹp và thanh liêm cho quan lại, Khang Hy nhiều lần hạ chiếu để cho các quan lại triều đình tiến cử quan thanh liêm. Ông cũng nhiều lần đích thân tuyên dương những vị quan lại thanh liêm. Quan thanh liêm dưới triều đại Khang Hy xuất hiện rất nhiều, như: Lý Quang Địa, Trương Bá Hành…Những vị quan này nhậm chức ở nơi nào, thì dân chúng ở nơi ấy được hưởng ân huệ, lợi ích.

Vu Thành Long ở Sơn Tây tuy làm quan tướng soái, nhưng không hề mưu cầu tư lợi cho bản thân. Mỗi ngày 2 bữa, ông chỉ ăn cơm thô và rau xanh nên được mọi người đặt cho biệt hiệu là “Vu rau xanh”. Ông lấy mình làm gương, ra mệnh lệnh cấm quan lại đút lót và nhận hối lộ, được dân chúng rất ủng hộ và yêu mến. Khi ông qua đời, các vị tướng quân và quan lại dưới quyền ông đến phúng viếng, họ mới thấy trong cái hòm bằng trúc để trong nhà ông chỉ có một chiếc áo dài, đầu giường của ông chỉ có một ít muối ăn, ai nấy đều cảm động rơi nước mắt. Dân chúng nhà nhà đều treo bức họa chân dung của ông và tưởng nhớ về ông, Khang Hy cũng ca ngợi ông là “Đệ nhất thanh quan đương thời”.

Khang Hy vô cùng chú ý nghiêm trị tham quan. Ông nói, quan tham cần phải bị trừng trị nghiêm khắc hơn những cái khác, tội của tham quan là tuyệt đối không thể tha thứ được, nếu không sẽ không có tác dụng răn đe. Trong một lần thẩm tra, ông tự mình răn đe cảnh cáo một loạt các tội phạm tham ô lớn. Đối với các quan lại vùng biên giới, ông yêu cầu càng nghiêm khắc hơn. Ví dụ quan Tuần phủ Thiểm Tây tên là Mục Nhĩ Tái ăn hối lộ làm trái pháp luật, Khang Hy nói: Đối với tội phạm quan trọng rõ ràng nhơ nhuốc như thế, nếu không dùng hình phạt nặng thì không thể được, cho nên lập tức xử tử. Từ năm 1681 kéo dài trong suốt 25 năm, chính sách này đã có tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn những hành vi tham ô hối lộ.

Trong việc thống nhất đất nước, trị quốc bình thiên hạ, hoàng đế Khang Hy được người đời ca ngợi là một vị minh quân hiếm có trong lịch sử Trung Hoa, luôn một lòng vì dân, nghĩ đến dân, lo cho lợi ích của dân, không mảy may tư lợi, hưởng thụ bản thân. Ông là tấm gương sáng mà người đời thường lấy ra để học tập.

Hoàng đế Khang Hy chú trọng trong việc dạy dỗ các Hoàng tử

“Khang Hy gia huấn” là tác phẩm mà Khang Hy dùng để dạy dỗ các hoàng tử, trong đó có rất nhiều những lời cảnh tỉnh đầy trí tuệ và đạo lý sâu xa.

Trong gia huấn của ông có viết: “Dạy rằng: người phàm đối nhân xử thế, nên biết đồng cảm. Thấy người có chuyện vui, thì nên cảm thấy vui vẻ; thấy người có việc buồn, thì nên cảm thông. Những điều này đều có lợi cho mình. Nếu ghen tức với thành công của người khác, vui vẻ trên thất bại của họ thì có ý nghĩa gì? Tự ôm những suy nghĩ xấu xa vô ích. Cổ ngữ có câu: ‘Nhìn sự thành của người như sự thành của mình; xem mất mát của người như mất mát của bản thân.’ Nếu biết giữ lòng như thế, ắt sẽ được Trời giúp đỡ.”

Một người khi đối nhân xử thế, lúc nào cũng nên giữ lòng khoan dung, nhường nhịn. Thấy người khác có chuyện vui thì nên cảm thấy vui vẻ, mừng cho họ. Khi người khác gặp phải những việc không vừa ý thì nên cảm thông, đồng cảm với họ, giúp đỡ họ. Tâm thế này bất cứ lúc nào cũng có ích cho bản thân. Nếu một người luôn ghen tị với thành công của người khác, vui vẻ trên sự thất bại của họ thì tuy không gây tổn hại đến người khác, mà khiến cho đạo đức của chính mình trở nên bại hoại.

khang hy 6

Khang Hy là một vị hoàng đế vĩ đại, 8 tuổi lên ngôi, tại vị 62 năm, xây dựng được rất nhiều thành tựu to lớn. Những lời trong gia huấn chính là tổng kết cuộc đời của chính ông, cũng là lời nhắc nhở đối với vị hoàng đế tương lai nằm trong số các hoàng tử. Chính vì thế, lời gia huấn trên còn có nhiều tầng ý nghĩa khác:

Là hoàng đế của một nước, nắm trong tay tứ hải, đất đai bãi bờ và hoàng cung, cả thiên hạ đều là của mình, đương nhiên là Khang Hy hy vọng người dân trong thiên hạ đều hạnh phúc, sung túc. Bởi vì dân yếu hay mạnh quyết định sự mạnh yếu của đất nước. Dân nghèo thì nước yếu, dân giàu thì nước mạnh. Vậy thì khi người dân có việc vui, đương nhiên người làm vua cũng nên vui vẻ. Khi dân chúng gặp phải tai họa, sống trong khổ cực, đương nhiên vua cũng sẽ lo buồn, cảm thông với người dân, cố gắng tìm cách giúp người dân vượt qua khó khăn. Có vậy lòng dân và đất nước mới ổn định được. Đây chẳng phải là điều có ích nhất đối với vua hay sao?

Ngược lại, nếu vua cứ luôn đi ngược lại ý dân, ghen ghét khi dân chúng có việc vui, vui sướng với những mất mát của họ thì e là sớm muộn người dân cũng sẽ khởi nghĩa. Đây không chỉ là thất bại về đức hạnh của quân vương mà còn làm đất nước hỗn loạn, quả thật rất đáng sợ. Vì vậy nếu các vị vua luôn có thể vui với niềm vui của dân, buồn với nỗi khổ của họ thì lẽ nào trời cao lại không bảo vệ vị vua tốt như vậy chứ?

Tuy gia huấn này là những lời để giáo dục các hoàng tử, nhưng cũng có tác dụng tối với các đại thần trong triều, bởi vì trước khi trở thành vua, hoàng tử và đại thần đều có nhiệm vụ an dân phò quốc. Giữa các triều thần khó mà tránh được tranh chấp, ghen ghét lẫn nhau, thậm chí là xung đột với nhau. Nếu có thể hành động theo gia huấn, thì sẽ xóa bỏ được lòng đố kỵ, người có cũng như ta có, người mất thì ta cũng mất. Đối xử chân thành với người khác ắt sẽ có nhiều bạn bè, dần dần tâm lý tranh đấu cũng sẽ mất đi. Điều này rất có ích cho việc tu thân dưỡng tính. Hơn nữa tâm lý làm tổn hại lẫn nhau giữa các triều thần cũng sẽ được giảm xuống mức thấp nhất.

Khi ta xem điểm mạnh của người khác là thế mạnh của mình, những gì chúng ta thể hiện ra đều là khen ngợi ưu điểm của người khác, sẽ không có ai ghét điều này, mà ngược lại sẽ cảm thấy người này vô cùng rộng lượng, có thể đảm đương trọng trách. Đây chẳng phải là để xây dựng nên một triều đình chính trực ngay thẳng, yêu người như chính mình sao? Vì nước vì dân, đây quả thật là một việc cực kỳ tốt. Những người làm theo gia huấn cũng nhất định sẽ nhận được tình yêu thương của trời cao.

Đối với một người bình thường không quyền thế không tài sản, gia huấn này cũng có thể coi là phương hướng đối nhân xử thế, là liều thuốc cứu thế an dân. Tục ngữ có câu “Thêm một người bạn thêm một con đường, thêm một kẻ thù thêm một ngõ cụt.” Bạn bè từ đâu đến, kẻ thù từ đâu ra. Nói chung đều xuất phát từ lòng phân biệt của chúng ta với họ quá mạnh mẽ, cố chấp, đặt nặng cái tôi, khiến bạn thì ít mà thù thì nhiều. Nếu có thể bỏ qua thành kiến, bỏ qua cái tôi, vui với niềm vui của người khác, xem điểm mạnh của họ như điểm mạnh của mình, nhìn nguy nan của họ cũng như của chính bản thân, như vậy thì trong lòng ắt có thần linh phù trợ.

“Thiên đạo vô thân, thường vu thiện nhân” (Lẽ trời thường đứng về phía người tốt). Quy luật của lẽ trời là bao dung không có tư thân, một cách công bằng mà khiến cho người tốt được báo đáp. Khi chúng ta phù hợp với quy luật này, bỏ qua cái tôi, bao dung ưu khuyết điểm của người khác, đây chẳng phải là cách tốt nhất để được thần linh phù hộ đó ư? Đạo gia giảng rằng “Thiên nhân hợp nhất” (Trời và người hòa làm một), khi lòng chúng ta đến gần với đạo, phù hợp với lẽ trời, luân lý làm người và đặc tính của vũ trụ, thì thật sự rất có ích cho chúng ta. Khi chúng ta mở rộng tấm lòng này để đối xử với mọi sự mọi vật, xem niềm vui của trời đất như niềm vui của mình, lo buồn vì nỗi lo của trời đất thì khoảng cách của chúng ta đến với đạo không còn xa nữa.

Nguồn căn của đạo đức tốt đẹp xuất phát từ tấm lòng rộng mở, ý nghĩa của gia huấn này rất sâu xa, khiến người ta phải suy ngẫm. Dù đối với người trong triều đình hay người dân bình thường thì gia huấn này cũng đã mở ra con đường “Thiên nhân hợp nhất” cho chúng ta, khiến chúng ta biết đến đạo lý để có được sự bảo vệ của trời cao và cũng giúp chúng ta nhìn thấy được tấm lòng rộng lớn của vua Khang Hy.

Vị vua phong lưu, đa tình

Không chỉ nổi tiếng là vị vua anh minh, sáng suốt mà Khang Hi còn được biết đến nhiều nhờ sự phong lưu, đa tình có thể xếp vào bậc nhất lịch sử phong kiến Trung Hoa.

Thường thì các hoàng đế nhà Thanh sẽ có khoảng 10 phi tần nhưng trong cuốn sách "Khang Hy toàn truyện", các sử gia đã ghi lại rằng trong hậu cung của ông có đến 49 vị từ quý nhân trở lên, 67 người nhận sắc phong chính thức còn những người từng hầu hạ vua nhưng lại ở phân vị thấp thì có không dưới 200. Tính về con cái thì ông có đến 55 người con, 35 hoàng tử và 20 công chúa.

Thậm chí cho đến khi về già, nhà vua vẫn không ngừng triệu các mỹ nữ từ vùng Giang Nam vào cung hầu hạ mà hoàn toàn không phải để sinh con cho hoàng thất. Nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy mức độ đa tình, phong lưu của vị vua này rồi.

Có đến 4 vị hoàng hậu

Vì một số lý do chính trị mà Khang Hi buộc phải lập hậu khi ông mới chỉ 12 tuổi. Thê tử kết tóc đầu tiên của hoàng đế là Hiếu Thành Nhân hoàng hậu Hách Xá Lý thị. Dù nhập cung khi còn nhỏ tuổi nhưng hoàng hậu ngày càng tỏ rõ nhân cách tốt đẹp, cử chỉ đoan trang, lại hiệp trợ nhà vua không ít trong quản lý hậu cung, cũng rất cung kính với Thái hậu và Thái hoàng thái hậu. Vì vậy, nàng rất được lòng bề trên, tình cảm phu thê vì thế mà vô cùng tốt đẹp.

hieu thanh nhan hoang hau

Nhưng mà vị hoàng hậu trẻ tuổi này lại chẳng thọ mệnh. Bà có với Khang Hy hai người con trai, người con đầu tiên qua đời chỉ trong 4 năm kể từ ngày sinh ra. Khi bà sinh người con thứ hai thì lại băng huyết mà nhanh chóng ra đi lúc mới 21 tuổi. Cái chết của bà để lại nỗi đau buồn sâu sắc trong lòng Khang Hy, dù sau này ông có nạp bao nhiêu phi tần nhưng chẳng có ai được ông đối xử trân trọng như với bà. Thậm chí với đứa con mới ra đời mà đã mồ côi mẹ, Khang Hy cũng phá lệ mà đem vào tẩm cung của mình để nuôi dưỡng, còn đặc cách phong làm Thái tử từ khi mới 2 tuổi.

Vốn là sau sự ra đi của bà, Khang Hy không muốn lập hậu nữa. Tuy nhiên Thái hoàng Thái hậu Hiếu Trang buộc nhà vua phải có tân hậu; vì thế 3 năm sau khi bà mất, ông lập một phi tần thuộc dòng họ Nữu Hỗ Lộc làm kế hậu. Tuy nhiên chỉ 6 tháng sau khi ngồi lên phượng vị, Nữu Hỗ Lộc thị cũng qua đời, nguyên nhân không được sử sách ghi chép lại.

Vị hoàng hậu thứ ba của Khang Hi là Đông Giai thị, bà này được phong làm Hoàng quý phi, quản lý hậu cung sau khi Nữu Hỗ Lộc thị hoàng hậu qua đời. Hoàng quý phi chỉ có một người con gái, thế nhưng công chúa lại đoản mệnh, chết non ngay khi mới sinh. Quá đau buồn nên bà cũng sinh bệnh ngày càng trở nặng. Thấy vậy, nhà vua bèn nghĩ cách "trùng hỉ" để mong bệnh tình bà giảm nhẹ.

Ông lập tức sắc phong cho bà làm hoàng hậu thế nhưng đau đớn thay, vào đúng ngày sắc phong thì Đông Giai Hoàng quý phi hương tiêu ngọc vẫn. Đại điển sắc phong đột nhiên biến thành tang lễ, đau thương bàng hoàng bao trùm hoàng cung nhà Thanh. Từ đó trở đi, Khang Hi đế không lập thêm bất kỳ hoàng hậu nào nữa.

Mãi sau khi Khang Hy băng hà, tứ a ca Dận Chân nối ngôi trở thành Ung Chính đế mới tôn mẫu thân của mình là Ô Nhã thị thành hoàng thái hậu, tức vị hoàng hậu thứ tư của Khang Hi. Nhưng mà tiếc rằng lúc này Khang Hi đã mất trước khi biết.

Dàn hậu phi đông đảo

Dưới triều nhà Minh, số người được sắc phong trong hậu cung không vượt quá 19 người. Nhiều hoàng đế Minh triều chỉ có 2-3 phi tần, thậm chí có người suốt đời chỉ "một vợ một chồng" như Minh Hiếu Tông. Ngược lại dưới Thanh triều lại đặt ra luật lệ tất cả các cô gái phải được hoàng đế tuyển chọn qua mới được đi lấy chồng. Nếu muốn thì hoàng đế có thể lấy cả nữ nhân từ Hán tộc. Các hoàng đế nhà Thanh có không dưới 10 phi tần, trong đó có Khang Hi là sắc phong với số lượng đông đảo nhất.

khang hy 7

Dưới thời Khang Hy có đến gần 70 phi tần được sắc phong chính thức, nhưng đây mới chỉ là con số ước lượng dựa trên số lượng trong lăng mộ còn số liệu thực tế thì chưa một sử gia nào có thể khẳng định chắc chắn. Từ chức quý nhân trở lên thì trong hậu cung của nhà vua có 49 người, được sắc phong có 67 người còn số lượng các "đáp ứng" hay "thường tại" - phi tần có địa vị thấp thì chắc chắn không dưới 200 người.

Khi đã về già thì Khang Hi còn liên tục triệu triệu các mỹ nữ vùng Giang Nam vào cung hầu hạ; hoàn toàn không phải để sinh hoàng tử, công chúa bởi số lượng con của vị vua này lúc đó đã không ai sánh kịp. Sở dĩ Khang Hy rất yêu thích các mỹ nữ Giang Nam bởi trong những năm trị vì đất nước, ông đã rất nhiều lần vi hành tới đây và lần nào cũng bị đắm chìm bởi vẻ đẹp của một cô gái nào đó thuộc vùng "sơn thủy hữu tình" này.

Phong lưu nhưng cũng rất chân thành

Có thể nói, đối với những phi thiếp thì Khang Hy lại dùng tình cảm chân thành mà đối đãi, quan tâm. Sinh thời ông hay đi vi hành, mỗi khi đến một địa phương nào thì ông đều cho người gửi những đặc sản của địa phương đó về cho những ái phi ở hậu cung đang ngóng chờ.

Khi hoàng hậu đầu tiên của nhà vua là Hách Xá Lý thị qua đời, Khang Hy ra lệnh ngừng lâm triều trong 5 ngày để tổ chức lễ tang cho hoàng hậu. Trong 25 ngày tế lễ nhà vua tự mình khóc thương đến 20 ngày. Đến khi Nữu Hỗ Lộc hoàng hậu ra đi, nhà vua đau buồn, mỗi ngày cứ từ giờ thìn đến giờ dần, ông đều đến nơi quàn thi hài của bà mà ngồi đó ngây ngốc.

Đối với những phi tần khác, Khang Hy cũng rất quan tâm đến sắp xếp cho họ sau khi bản thân đã ra đi. Ông đã từng hạ lệnh chôn cất hai hoàng hậu trong địa cung của Cảnh lăng, vì thế sau khi ông băng hà thì các phi tần qua đời sau đó cũng đều được an táng nơi đây. Cứ như vậy, lăng mộ của Khang Hy trở thành nơi án táng của rất nhiều hậu phi.

Phong lưu nhưng vẫn là một minh quân hiếm thấy

Thường thì phong lưu đa tình thường gắn liền với những hôn quân, như Trụ vương say mê Đắc Kỷ mà vương triều nhà Trụ sụp đổ hay Ngô vương Phù Sai vì ham mê sắc đẹp của Tây Thi mà để cho Việt vương Câu Tiễn nhân thời cơ đoạt lại quyền lực. Thế nhưng điều này lại không đúng với vua Khang Hi triều Thanh.

Dù bao quanh ông có rất nhiều bóng hồng, giai nhân tuyệt sắc nhưng mà ông vẫn rất tỉnh táo khi nói đến những chuyện quốc gia đại sự. Một vị giáo sĩ phương Tây đã từng kể rằng trong lần hoàng đế tới Nam Kinh thì người ta dâng cho ông 7 mỹ nữ. Nhưng hoàng đế chỉ nhìn một lần rồi từ chối luôn, đồng thời phạt tất cả những kẻ to gan đó. Điều này cho thấy sự cảnh giác cao độ của ông trước việc các đại thần muốn dùng sắc đẹp để lung lạc nhà vua.

Một cận thần của hoàng đế cũng kể lại rằng khi tuần phủ Giang Đông nghênh giá ở Khánh Đô thì cũng dâng lên 4 cô gái đẹp; nhà vua nổi trận lôi đình, còn bí mật cho điều tra thêm thì thấy thuộc hạ đều được tặng những "món quà" như vậy bèn hạ lệnh nghiêm trị đối với vị quan này.

Chính sự tỉnh táo, cứng rắn, dù yêu thích nhưng không mê đắm trong sắc đẹp là điểm khác biệt của Khang Hy, khiến ông trở thành một trong những vị vua vĩ đại nhất trong các triều đại phong kiến Trung Hoa.

Hẳn với những thông tin mà Viet Viet Tourism vừa trên sẻ trên đây, du khách cảm thấy thích thú và muốn khám phá nhiều hơn về lịch sử phong kiến Trung Hoa. Vậy còn chần chờ gì nữa mà du khách không đặt ngay cho mình một tour du lịch Trung Quốc của Viet Viet Tourism để tự mình tìm hiểu nhiều hơn về đất nước - văn hóa và con người nơi đây nhé!

Từ khóa » Cha Của Khang Hy Là Ai