Kháng Thể - VOER

Cấu trúc của KTMD

Tất cả các KT đều có cấu trúc giống nhau gồm 4 chuỗi polypeptit. Hai chuỗi nhẹ kí hiệu là L và hai chuỗi nặng kí hiệu là H, gắn với nhau bởi cầu disulfua (S-S) (hình 21.7).

Chuỗi nhẹ: Trật tự axit amin của hai chuỗi nhẹ giống nhau và được chia làm hai vùng. Vùng có trật tự axit amin thay đổi gọi là vùng biến đổi (kí hiệu VL), nằm phía đầu amin (-NH2) của phân tử. Vùng có trật tự không thay đổi gọi là vùng cố định (ký hiệu CL) nằm phía đầu cacboxyl (-COOH). Trật tự axit amin vùng cố định của chuỗi nhẹ luôn giống nhau ở tất cả các lớp kháng thể, hoặc theo trật tự lamda hoặc theo trật tự kappa. Ngược lại, trật tự ở vùng biến đổi luôn khác nhau, kể cả ở các kháng thể do cùng một tế bào sinh ra.

Cấu tạo của kháng thể

Chuỗi nặng: Mỗi chuỗi nặng có 4 vùng axit amin : một vùng biến đổi và ba vùng cố định. Vùng biến đổi (kí hiệu là VH) nằm phía đầu amin đối xứng với vùng biến đổi của chuỗi nhẹ tạo thành vị trí kết hợp KN (paratop). Vùng cố định nằm phía đầu cacboxyl, chia làm 3 vùng nhỏ có kí hiệu CH1, CH2 và CH3. Giữa vùng CH1 và CH2 là vùng khớp nối có tác dụng như bản lề làm cho phân tử có hình chữ Y và có thể điều chỉnh cho hai paratop gắn với epitop của KN.

Dưới tác dụng của papain, phân tử KT bị phân giải tại vùng bản lề thành 3 mảnh: hai mảnh nhỏ chứa chứa toàn bộ chuỗi nhẹ và một nửa chuỗi nặng có đầu amin. Đây là nơi gắn với KN và được gọi là mảnh Fab (Fragment of antigen binding). Mảnh còn lại của chuỗi nặng phía đầu cacboxyl có thể kết tinh được gọi là mảnh Fc (Fragment crystalizable). Mảnh này có thể liên kết với đại thực bào, tế bào B và bổ thể.

Các axit amin nằm xa nhau trên cùng một chuỗi có thể gắn với nhau nhờ cầu nối S-S để tạo vùng gấp (domain)

Dưới tác dụng của pepxin thu được hai mảnh: Mảnh lớn gần như một kháng thể trọn vẹn với hai paratop và mảnh nhỏ thuộc phần Fc.

Từ khóa » Cấu Trúc Kháng Thể Iga