Khảo Cứu Về Chùa Vĩnh Tràng (SC. Thích Nữ Chơn Ngọc)
Có thể bạn quan tâm
Chùa Vĩnh Tràng là một trong những ngôi chùa cổ đã được hình thành và phát triển tồn tại gần hai thế kỷ trên vùng đất Định Tường (xưa), nay là thành phố Mỹ Tho thuộc tỉnh Tiền Giang. Ngôi già lam đã gắn liền với những thăng trầm lịch sử từ thời nhà Nguyễn đến thời Pháp thuộc và các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Theo thời gian, đến nay chùa vẫn lưu giữ được những đường nét trang trí độc đáo, cùng sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Đông-Tây.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ TÔN TẠO
Khi đến vùng đất Mỹ Tho, những nhà hành trình du lịch tâm linh luôn chọn điểm dừng chân nơi ngôi cổ tự uy nghiêm có bề dày lịch sử lâu đời gần hai thế kỷ đó chính là chùa Vĩnh Tràng. Vùng đất nơi chùa tọa lạc với “…Vị trí Mỹ Tho thật tuyệt diệu. Nó chiếm một vị thế trung chuyển quan trọng vào bậc nhất cho các loại ghe chài to lớn từ miền Tây lên Chợ Lớn (Sài Gòn) qua con kinh Bảo Định và con kinh Chợ Gạo. Mỹ Tho lại có con đường sắt đầu tiên của Đông Dương, con đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho và con đường thủy nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây lên tận Phnom Pênh qua bến Tàu Lục Tỉnh Mỹ Tho…” [4. tr.7].
Chùa Vĩnh Tràng nằm tại ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 73 km về hướng Tây Nam. Khi mới thành lập chùa chỉ là một ngôi thảo am do ông bà Bùi Công Đạt (quan dưới triều Minh Mạng) mua một miếng đất lập nên làm nơi tu hành lúc tuổi về hưu. Đây là một chi tiết khá quan trọng vì chùa lập nên không phải do một vị Tăng sĩ. Điều này chứng tỏ rằng: “Chùa ở Miền Nam phần đông là chùa dân lập, là dạng cải gia vi tự” [3. tr.14]. Điểm này khác biệt so với các chùa ở miền Bắc thường được xây dựng bởi vua, chúa. Vì thế, ban đầu chùa có tên là “Chùa Ông Huyện” (1840 – 1849), sau đó mới đổi tên là Vĩnh Trường tự thời HT. Huệ Đăng. “Lúc mới xây vào đầu thế kỷ XIX, chùa rất nhỏ. Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, Hòa thượng Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm đến tu ở đây, mới cùng các Phật tử quyên góp tiền của, xây dựng mở rộng ngôi chùa” [6, tr.452]. Tên chùa xuất phát từ hai câu đối:
永乆對山河 長存齊天地
(Vĩnh cửu đối sơn hà Trường tồn tề thiên địa) [ 5, tr.15].
Ngôi chùa này đã hoàn thành vào năm Tự Đức thứ 2 (1849). Sau hơn nửa thế kỷ, năm 1907, Hòa thượng Quảng Ân lại cho trùng tu chùa Vĩnh Tràng. Trong lần trùng tu này, các yếu tố kiến trúc châu Âu đã được kết hợp với các yếu tố truyền thống. Một hệ thống cửa vòm với nhiều cột con và lan can đã hiện lên trước mặt tiền chánh điện. Trước chánh điện là một sân cảnh với nhiều chậu cây xây vuông vắn. Trong chánh điện, trên bàn thờ có nhiều tượng Phật như: A Di Đà, Thích Ca, Di Lặc và các Bồ Tát. Các bao lam được chạm trổ rất tinh xảo.
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Năm 1840, Tri huyện Bùi Công Đạt xây dựng am tranh vách lá, sau khi thỉnh HT. Thích Huệ Đăng về chùa vào năm 1849 đã đại trùng tu, từ đó chùa mang tên Vĩnh Tràng. Đến giai đoạn 3 vào năm 1895 chánh điện trùng tu lại do HT. Chánh Hậu. Năm 1930, HT. Minh Đàn đảm nhiệm trụ trì đã đại trùng tu lại chánh điện chùa Vĩnh Tràng, đồng thời cho xây dựng hai cổng có tên là Phương Tiện và Tịnh Độ. Đến 62 năm sau (1992), khi HT. Thích Hoằng Từ về chùa, đã cho xây nhà thiền phía sau chùa. Nhà thiền này đã được tháo dỡ để xây nhà ăn vào năm 2011.
Năm 2002, HT. Thích Huệ Minh đời trụ trì thứ 13 về đây, đã cho tu sửa ao cá và làm lại hòn non bộ bên hông trái chùa (từ trong nhìn ra), đồng thời xây dựng hàng rào và “Giảng đường Huệ Đăng I”, sửa sang nhà thiền lẫn cổng chùa đã xuống cấp theo thời gian. Nơi đây là điểm dừng chân tâm linh nổi tiếng của du khách nói chung và tín đồ tỉnh Tiền Giang nói riêng, thế nên Hòa thượng đã cho tôn tạo thêm “Tượng Đức Phật A Di Đà, Đức Di Lặc, Phật nhập Niết-bàn” [ 5, tr.55] trong khoảng thời gian 7 năm. Tiếp đến là công trình “Bảo Tháp Thất Phật” và “Giảng Đường Huệ Đăng II” được hoàn thiện trong giai đoạn 2015 – 2017.
Chùa Vĩnh Tràng hiện nay là Văn phòng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Tiền Giang. Đồng thời, là nơi tổ chức nhiều sự kiện Phật giáo quan trọng. Chùa còn để lại những dấu ấn quan trọng đối với du khách quốc tế qua các cổ vật cũng như công trình kiến trúc được kết hợp hài hòa, mang âm hưởng tâm linh sâu sắc, giúp lan tỏa việc truyền bá chánh pháp.
CÁC THẾ HỆ TRỤ TRÌ
Hòa thượng Huệ Đăng sinh năm 1794, thuộc dòng thiền Lâm Tế Chánh Tông thứ 38, pháp hiệu Minh Liễu, đã khai sơn chùa Vĩnh Tràng. Ông có công lao to lớn gánh đất đắp nền tôn tạo cho ngôi cổ tự ngay từ những ngày đầu nhận chùa khi hai ông bà tri huyện qua đời. Người kế vị là Hòa thượng Minh Đề, sư đệ của Ngài, nối tiếp công việc trùng tu ngôi chùa. Không bao lâu Hòa thượng Minh Đề cũng viên tịch, thời gian này chùa chưa có trụ trì nên được 2 vị thầy Quảng Ân và Minh Truyện trông coi trong một thời gian ngắn.
Đến năm 1890, Phật tử thỉnh Hòa thượng Trà Chánh Hậu từ Sắc tứ Linh Thứu về trụ trì chùa Vĩnh Tràng. Ngài gốc Minh Hương, quê ở Mỹ Tho, là đệ tử Hòa thượng Minh Phước ở Tổ đình Bửu Lâm. Năm 1895, Hòa thượng Chánh Hậu cùng bổn đạo trùng tu toàn bộ ngôi chùa. Đến 1904, do một trận bão lớn, chùa lại bị tàn phá, vì vậy mà 3 năm sau (1907) chùa Vĩnh Tràng mới được trùng tu hoàn thành. Hòa thượng còn cho xây dựng lại Bảo tháp Tổ Huệ Đăng và phần mộ của ông bà Bùi Công Đạt để tưởng niệm công ơn các bậc tiền nhân. Ngoài ra, còn mua thêm 12 sào đất để làm tài sản cho chùa, giúp cho hậu thế có cơm gạo để an tâm tu học.
Hòa thượng Chánh Hậu viên tịch ngày 9/9/1923, hưởng thọ 72 tuổi, trụ trì chùa Vĩnh Tràng 33 năm (1890 – 1923). Kế tục sự nghiệp là Hòa thượng Minh Đàn, pháp danh Tâm Liễu, tự An Lạc, người làng Mỹ Phong, tổng Thạnh Phong, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang), đệ tử là Hòa thượng Chánh Hậu. Năm 1930, Hòa thượng Minh Đàn đứng ra trùng tu chùa Vĩnh Tràng với quy mô kiểu cách hài hòa giữa văn hóa xứ chùa Tháp và lối kiến trúc phương Tây như hiện nay. Sau này, còn có các đời trụ trì như: HT. Phật Ấn, HT. Trí Long, HT. Bửu Thông, HT. Hoằng Từ và HT. Hoằng Thông. Chùa đã trải qua 12 đời trụ trì và hiện tại là đời thứ 13 do HT. Huệ Minh đảm nhiệm chức vụ này. Chùa đã trải qua nhiều đợt trùng tu, hiện tại có tổng diện tích 30.000 mét vuông. Ngoài chư Tôn đức kể trên, có hai giai đoạn ngắn mà theo sách sử ghi lại “từ năm 1873 – 1890 chùa không có thầy trụ trì, từ năm 1943 – 1953 chùa được ông cư sĩ Hai trông coi” [5, tr.53]. Điểm quan trọng và ít người biết đến do sự truyền thừa không rộng rải chùa Vĩnh Tràng được truyền thừa với dòng kệ Trí Huệ của tổ Trí Bản được HT. Chánh Hậu khai sáng, HT. Huệ Thông dẫn chứng “chùa Vĩnh Tràng là tổ đình của dòng Lâm Tế Trí Huệ ở Tiền Giang” [9, tr.18].
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC VÀ TRANG TRÍ DI TÍCH CHÙA
Có thể nói, chùa Nam Bộ đa phần buổi đầu mới hình thành chỉ là những am tranh được cải biến có dạng nhà ba gian hai chái. Mái chùa có đường nóc ngắn, bốn mái rộng, đỉnh mái nhọn, các đầu đao vút cong như chùa ở miền Bắc mà vuông bằng sắc cạnh, người dân thường gọi là mái bánh ít. Nguyên bản, quy mô tổng thể kiến trúc xây dựng chùa gồm “5 lớp nhà và 2 sân cảnh với 178 cây cột xây dựng và hoàn thành vào năm Tự Đức thứ 2 (1849)” [7, tr.470]. Chùa xây dựng theo hình chữ “Quốc” (khác với nhiều ngôi chùa thường theo kiểu chữ “Tam”), gồm 4 gian chính là thiền đường, chánh điện, nhà tổ, nhà hậu nối tiếp nhau.
Kiến trúc chùa độc đáo vì tham khảo thêm phong cách phương Tây. Có thể thấy, chùa chịu ảnh hưởng của lối kiến trúc “Art nouveau” – trường phái nghệ thuật mới với các đặc trưng cơ bản: “Phong cách: Nhấn mạnh cái đẹp đường nét, dùng sắt trang trí. Thủ pháp: Thích đường cong, giàu nhịp điệu, đen trắng rõ ràng, có sức mạnh. Hoa văn: Bắt chước thiên nhiên, hoa lá, thảm cỏ…” [12]. Trong chùa có những cây cột được uốn rồng theo phong cách Á Đông, các mẫu chữ viết theo chữ Quốc ngữ và Hán cổ. Ngoài ra còn trang trí các loại bông sắt xuất xứ từ Ấn Độ. Khi nhìn tổng thể gian giữa sẽ thấy “Chánh điện nâng cao lên theo kiểu Tứ trụ Stupa với truyền thống Phật giáo Nam Bộ, kết hợp với những ngọn tháp hai bên hình dáng giống như năm tháp Angkor” [11, tr.430].
Như tổng thể các ngôi chùa khác, chùa Vĩnh Tràng hướng đến không gian tâm linh thiêng liêng, mang tính truyền thống Nam Bộ nhằm tạo đường nét sinh động. Nội quan chính là công trình bao lam được chạm trỗ tinh xảo, gồm 7 bao lam chính yếu cùng các bao lam phụ. Điển hình là bộ bao lam “Bát tiên kỵ thú” đặt ở gian giữa Đại Hùng Bảo Điện, xung quanh là các hoành phi và câu đối chạm trổ rất chi tiết, đẹp mắt. Bên cạnh đó là nét điêu khắc những đôi long trụ trên các cây cột tròn to làm bằng gỗ quý theo kiểu “Thượng thu hạ thách”. Các bao lam đề tài Phật giáo chủ yếu chạm khắc rồng, phụng, La hán cưỡi thú, bát bửu… Trong đó, bao lam “Ngư long hý thủy” được nhắc tới như một tác phẩm nghệ thuật chạm khắc có giá trị nghệ thuật cao.
Ngoài ra, còn có bao lam hình mẫu đơn là một loài hoa cao quý bên cạnh loài chim trĩ với phong cách nghệ thuật rất riêng biệt; bố cục các mảng chạm khắc lá, cành, chim sắp xếp thay đổi liên tục không lặp lại, đồng thời các khoảng trống cũng không giống nhau về hình và điện tích, các mảng thoáng dần ở phần trên. Dù chú ý từng chi tiết nhỏ như vậy song không làm phá vỡ bố cục chung, vừa vững vàng, chặt chẽ vừa thanh thoát, không gây cảm giác nặng nề hay dày đặc trong toàn bộ bao lam. Bố cục tạo cảm giác chuyển động từ dưới và hai phía bên, gặp nhau ở giữa rồi bung ra, như sự mãn nguyện, thăng hoa. Nghệ nhân đã thể hiện được ý đồ của nội tâm là mong muốn một cuộc sống yên bình, hạnh phúc.
Trong ngôi chánh điện, “trên bàn thờ có nhiều tượng Phật như A Di Đà, Thích Ca, Di Lặc và các Bồ Tát” [6. tr.470]. Chùa giữ lại hơn 60 pho tượng quý được làm bằng đồng, đất, gỗ có giá trị lịch sử lâu đời. Các bộ tượng cổ nhất đó chính là “bộ Tam Tôn cao 93 cm bằng đồng, tiếc rằng tượng Quan Âm bị thất lạc, Tượng Ngọc Hoàng hầu hai bên là Khuyến Thiện và Trừng Ác” [9, tr.282].
Ngoài ra, bộ tượng 18 vị La Hán với giá trị cổ được nghệ nhân Tài Công Nguyên tạc vào những năm 1909-1910 mang một giá trị và ý nghĩa đặc trưng cho Phật giáo Nam Bộ. Đối với các chùa ở miền Nam, tượng La Hán biểu hiện “nét vui tươi, sống động và một số bộ tượng được tạc cưỡi trên các con thú với ý nghĩa tượng trưng cho công đức và giáo lý Phật giáo” [2, tr.45-46]. Mỗi tượng được tạc cao khoảng 0,8 m, so với bề ngang của gối là 0,38m và tôn trí hai bên điện Phật. Về pháp khí, chùa còn lưu lại pháp bảo chuông, tuy không còn sử dụng được nhưng là cổ vật quan trọng trong tiến trình lịch sử.
Bên cạnh, còn có 20 bức tranh sơn thủy rất có giá trị về mặt nghệ thuật tiêu biểu là công trình của Long Giang cư sĩ vào năm 1904. Một số câu đối rất có ý nghĩa và giá trị như:
永以大公之心能所雙忘雖是莊嚴本來何有 長守中和要旨知見非我利扵萬國放大光明
Phiên âm: Vĩnh dĩ đại công chi tâm năng sở song vong tuy thị trang nghiêm bổn lai hà hữu. Trường thủ trung hòa yếu chỉ tri kiến phi ngã lợi ư vạn quốc phóng đại quang minh.
Dịch nghĩa: Luôn giữ tâm bình đẳng, chủ thể và đối tượng đều quên, dù luôn hiện tướng trang nghiêm nhưng vốn là giả hiện. Mãi giữ yếu chỉ Trung đạo, thấy biết vô ngã, lợi ích muôn loài, tỏa sáng cùng khắp.
Hay: 寶殿巍峩金相莊嚴德感三清法界 天香縹緲玉容整肅慈光九府神宮
Phiên âm: Bảo điện nguy nga kim tướng trang nghiêm đức cảm tam thanh pháp giới. Thiên hương phiêu diểu ngọc dung chỉnh túc từ quang cửu phủ thần cung.
Dịch nghĩa: Điện Phật nguy nga tráng lệ, tướng vàng trang nghiêm, đức của Ngài chiêu cảm làm cho ba cõi trong sạch, thanh tịnh. Hương trời tỏa ngát, ngọc điện chỉnh chu, ánh sáng từ bi của Đức Phật chiếu đến chín cung điện của chư thiên [5, tr.31-32].
Đây là ngôi cổ tự đã có bề dày lịch sử gần hai thế kỷ, đặc biệt là một ngôi chùa có quy mô lớn ở miền Nam theo “Liệt hạng di tích thắng cảnh của quốc gia” [1, tr.18]; đồng thời được xếp hạng “Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia” ngày 30/8/1984. Đến năm 2007, kỷ lục Guinness Việt Nam công nhận là “Ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam có phong cách kiến trúc kết hợp giữa phương Đông và phương Tây”. Sau đó năm 2013, Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam công nhận “Chùa Vĩnh Tràng là điểm du lịch văn hóa tâm linh trong chương trình Việt Nam – Những điểm đến ấn tượng”.
Chú thích:
* SC. Thích Nữ Chơn Ngọc: Học viên Cao học khóa III Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP HCM.
Thư mục tham khảo:
1. Nguyễn Hoàng Cẩm, Nội San Đất Phật Định Tường. 2. Trang Thanh Hiền (2019), Nghệ thuật tạo tác tượng Phật trong các ngôi chùa Việt, Nxb Hà Nội. 3. Trần Hồng Liên (2004), Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã hội. 4. Huỳnh Minh (2001), Định Tường (Mỹ Tho) Xưa, Nxb Thanh niên. 5. Thích Huệ Phát (2017), Chùa Vĩnh Tràng một ngôi chùa nhiều mỹ hiệu, Nxb Tôn giáo. 6. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long (1993), Chùa Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội. 7. Nguyễn Quảng Tuân – Huỳnh Lứa – Trần Hồng Liên (1994), Những ngôi chùa ở Nam Bộ, Nxb TP HCM. 8. Thích Nhật Từ chủ biên (2021), Phật giáo các tỉnh và thành phố tại vùng Nam Bộ, Nxb Hồng Đức. 9. Thích Huệ Thông (2002), Phật giáo Tiền Giang lược sử và những ngôi chùa, Nxb TP HCM. 10. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Diệp Đình Hoa (1978), Cơ sở Khảo cổ học, Nxb Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, TP.HCM.
Download QR 🡻Từ khóa » đặc điểm Kiến Trúc Chùa Vĩnh Tràng
-
Chùa Vĩnh Tràng – Wikipedia Tiếng Việt
-
Chùa Vĩnh Tràng - Điểm Du Lịch Tâm Linh Nổi Tiếng Tiền Giang
-
Giới Thiệu Kiến Trúc Chùa Vĩnh Tràng ở Tiền Giang | Viet Fun Travel
-
Chùa Vĩnh Tràng - Ngôi Chùa Kiến Trúc Á - Âu Linh Thiêng Và Cổ Nhất ...
-
Chùa Vĩnh Tràng, Công Trình Kiến Trúc đặc Sắc ở Tiền Giang
-
Chùa Vĩnh Tràng – Nét Giao Thoa Kiến Trúc Đông Tây Tinh Tế
-
Chùa Vĩnh Tràng Tiền Giang Và Nét đẹp Kiến Trúc Cực Kỳ đặc Biệt
-
Ghé Chùa Vĩnh Tràng Tiền Giang Thưởng Ngoạn Kiến Trúc độc đáo
-
Ngôi Chùa Cổ đặc Sắc Với Nhiều Phong Cách Kiến Trúc ở Tiền Giang
-
Chùa Vĩnh Tràng Tiền Giang 2022: Chiêm Bái Những Tượng Phật ...
-
Ngôi Chùa Hơn 150 Tuổi Mang Nét Kiến Trúc Á – Âu ở Tiền Giang
-
Tham Quan Chùa Vĩnh Tràng – Công Trình Kiến Trúc Phật Giáo ấn ...
-
Về Tiền Giang Ghé Chùa Vĩnh Tràng Chiêm Bái Những Tượng Phật ...
-
Chùa Vĩnh Tràng địa điểm Du Lịch Tâm Linh ấn Tượng - Báo Ấp Bắc