Khí Công Y Đạo Đỗ Đức Ngọc Ngành Y Học Bổ Sung

Khí Công Y Đạo Đỗ Đức Ngọc Ngành Y học Bổ sung

Khí Công Y Đạo: Là một phương pháp tổng hợp của Đông y học cổ truyền bao gồm cách điều chỉnh bệnh bằng ăn uống thuộc tinh, cách điều chỉnh bệnh bằng tập luyện cơ thể để chuyển tinh lực ra khí lực thuộc khí

Khí Công Y Đạo Đỗ Đức Ngọc

Ngành Y học Bổ sung

Vương Văn Liêu

Email vvlieu@gmail.com, Mobile 0913558331

I-Sơ lược lịch sử phát triển

Khoa học nói chung và y học nói riêng luôn phát triển không ngừng. Tuy nhiên không bao giờ có cái gì hoàn thiện tuyệt đối, vì thế con người luôn tìm mọi cách để hoàn thiện những khiếm khuyết của các thành quả do mình đã sáng tạo ra để đưa xã hội loài người tiến lên .

Đông y càng cổ càng giỏi vì ngày xưa chẳng có máy móc, thiết bị gì nhưng các vị danh y chẩn bệnh và chữa bệnh như thần. Tây y càng mới càng tinh, những thiết bị máy móc hiện đại của Tây y đã giúp cho khâu chẩn đoán bệnh được chính xác hơn và do đó việc chữa bệnh có hiệu quả hơn.

Hiện nay Đông Y và Tây Y đã có những bước tiến dài, tuy vậy không phải là không có những nhược điểm trong chẩn bệnh và chữa bệnh. Một ngành Y học bổ sung ra đời để bổ sung cho thiếu sót của Đông y và Tây Y – đó là môn Khí Công Y Đạo Việt Nam ( KCYĐ).

KCYĐ được Thầy Đỗ Đức Ngọc sáng lập ra và đã dạy ở Sài Gòn từ năm 1980 . Năm 1993 Thầy sang định cư tại Canada và đã giảng dạy KCYĐ từ đó đến nay.

ac, và cách điều chỉnh bệnh bằng phương pháp tập thở thiền là điều dưỡng tinh thần an vui hòa hợp thuộc thần. Vì tất cả nguyên nhân gây bệnh đều do xáo trộn chức năng thần kinh do ăn uống sai lầm làm tinh sai, kém tập luyện cơ thể làm khí thiếu, hoặc xáo trộn tâm lý bất thường như giận hờn, ghen ghét, lo âu, sợ hãi, buồn chán, làm việc căng thẳng qúa độ khiến thần kinh suy nhược gọi là thần suy.

Tinh sai, khí thiếu, thần suy là do tự mình làm ra. Tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh do sai lầm ăn ngủ nghỉ không điều độ và không tập luyện thân thể làm rối loạn chức năng thần kinh thì mình phải biết cách tự điều chỉnh lại những sai lầm ấy. Vì thế tập luyện Khí Công Y Đạo để tự chữa bệnh chính là cách điều chỉnh lại tinh- khí- thần theo phương pháp tự nhiên của Y học cổ truyền phương Đông.

Định nghĩa từng chữ Khí Công Y Đạo thì Khí là hơi thở, là sự khí hoá, sinh hóa và chuyển hóa tinh thành khí, chuyển khí hóa thần. Chữ Công là công phu luyện tập hơi thở, công phu học hỏi để hiểu lý thuyết, biết thực hành cách chuyển tinh hoá khí, chuyển khí hóa thần. Chữ Y là tìm hiểu y lý nguyên nhân gây bệnh và cách điều chỉnh cho khỏi bệnh. Chữ Đạo là con đường hướng dẫn y lý Đông phương và là con đường tu tâm dưỡng tánh nhu hòa để bảo tồn nội lực của tinh khí thần, nội lực của tinh là tinh lực, nội lực của khí là khí lực và nội lực của thần là thần lực.

Cho đến ngày nay khí công trên thế giới đã phát triển lên đến hàng ngàn loại khác nhau, nhưng tạm chia thành bốn loại như sau:

1. Khí công Yoga hoặc thiền.

2. Khí công võ thuật

3. Khí công dưỡng sinh phòng bệnh

4. Khí công chữa bệnh

Riêng khí công chữa bệnh có hai loại:

a) Khí công nội lực truyền khí từ thầy thuốc sang bệnh nhân giúp bệnh nhân khỏe mạnh hết bệnh tật.

b) Khí công bệnh nhân được thầy Khí công hướng dẫn phải tự tập lấy các bài tập riêng cho phù hợp với bệnh của mình để giúp cơ thể tự tạo ra thuốc từ hệ nội dược.

Khí công loại b) chính là KCYĐ.

Khí công bắt đầu được nghiên cứu ở nhiều quốc gia do các bác sĩ vừa am hiểu phương pháp Tây y, vừa nghiên cứu học hỏi Đông y châm cứu, vừa luyện tập khí công qua cách thở và kiểm chứng theo tiêu chuẩn Tây y về những thay đổi của cơ thể bằng những thông số cân đong đo đếm được như thành phần máu qua những kiểm nghiệm bằng máy móc.

Ở Pháp có giáo sư bác sĩ châm cứu Nguyễn văn Nghi đã viết, dịch và giảng dạy châm cứu theo kinh điển Hoàng đế nội kinh và viết về khí công theo cách nhìn của một nhà khoa học thực nghiệm; Bác sĩ Nguyễn tối Thiện thuộc nhóm Nghiên cứu và thực hành thiền quán ở Pháp cũng đã nghiên cứu những lợi ích cho sức khỏe khi tập thở thiền. Ở Việt Nam có giáo sư bác sĩ Ngô gia Hy người đã tập luyện khí công để tự chữa bệnh cao áp huyết cho mình khỏi bệnh và sau đó vừa tập vừa thực nghiệm những kết qủa khi tập khí công qua những cách thở khác nhau. Từ đó giáo sư đã viết các công trình nghiên cứu để chỉ ra lợi ích của tập khí công đối với hệ hô hấp, hệ tuần hoàn , hệ tiêu hóa, hệ thần kinh, hệ nội tiết, các tuyến hạch và đối với giấc ngủ .

II-Những nội dung cơ bản của KCYĐ

Trên cơ sở mấy chục năm nghiên cứu khí công chữa bệnh, Thầy Đỗ Đức Ngọc đã đúc rút được 3 vấn đề cốt lõi và đã trực tiếp chữa cho hàng vạn người trên thế giới cả người ngoại quốc và người Việt từ các bệnh thông thường đến các bệnh nan y. Những nội dung cốt lõi của KCYĐ Việt Nam đó là: Điều chỉnh Tinh, điều chỉnh khí, điều chỉnh thần để luôn luôn duy trì sự cân bằng trong cơ thể con người.

Để thực hiện được những điều đó, KCYĐ sử dụng:

1.Điều chỉnh tinh

Điều chỉnh bằng ăn uống hoặc dùng thuốc để tăng cường thêm tinh lực cho cơ thể và luôn luôn chú ý đến vấn đề ăn uống đúng để cân bằng âm dương.

Ví dụ người huyết áp thấp thì không được ăn uống những thức ăn, đồ uống làm giảm áp huyết, ngược lại người huyết áp cao thì không được ăn thức ăn, đồ uống làm tăng huyết áp.

2. Điều chỉnh Khí

Để điều chỉnh khí sử dụng phương pháp động công.

Mục đích của động công là tập luyện cơ thể bền bỉ dẻo dai, khai thông được khí huyết ở chỗ bị bế tắc, khai mở các huyệt của Kỳ kinh Bát mạch và các luân xa theo một nhịp độ sinh học đồng bộ giữa động tác và hơi thở thuận với nhịp sinh học trao đổi chất của âm dương, khí huyết để tự nó có thể khai mở được vòng Tiểu Chu Thiên và Đại Chu Thiên trong cơ thể, nhằm tăng cường khả năng tự chữa bệnh và phòng chống bệnh cho chính bản thân và có khí lực và thần lực để chữa bệnh cho người khác mà không sợ mệt và mất khí như những thầy chữa bệnh khác.

Những bài tập động công cũng có thể áp dụng hướng dẫn cho người bệnh tập luyện nhằm tăng cường dương khí, những động tác tay chân đều theo quy luật trong âm có dương, trong dương có âm và các động tác phải phù hợp với hơi thở tùy theo mỗi trường hợp bệnh cần chữa trị.

Các thế khí công căn bản để trị bệnh thuộc phần động công, chú trọng vào sự điều chỉnh khí hóa của hệ thống Tam Tiêu, điều chỉnh thần kinh ( thần ), thông khí huyết cho Lục Phủ, Ngũ Tạng, chuyển khí chạy theo vòng Nhâm-Đốc và tăng cường khí hoạt động cho Tam tiêu là Tông khí , Ngũ hành khí, Nguyên khí.

3. Điều chỉnh thần

Để điều chỉnh thần thực hiện tập tĩnh công.

Theo quy luật âm dương hòa hợp, tập động công là tập tăng cường dương khí và tập tĩnh công là phần âm chuyển hóa khí làm mạnh chức năng thần kinh, nhưng trong cách luyện và theo dõi hơi thở cũng thể hiện quy luật trong âm có dương, mục đích điều khiển hơi thở nhằm khai thông các đại huyệt trên mạch Nhâm-Đốc, giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp, cùng vận hành liên tục theo vòng Tiểu chu thiên để tạo ra một hệ thống phòng chống bệnh tự động trong cơ thể. Tĩnh công phải hội đủ ba điều kiện là điều thân, điều ý, điều tức.

a) Điều thân:

Có nhiều cách tập thở ở tư thế đứng, nằm, ngồi; cách ngồi để nạp khí và cách nằm để dưỡng thần.

b) Điều ý:

Với khẩu quyết của khí công ý ở đâu khí ở đó, khí đến đâu huyết đến đó cho nên tùy theo mục đích chữa bệnh hợp với nhu cầu cơ thể cần, như muốn tăng cường sự khí hóa, cần tăng huyết, cần an thần.. ý sẽ được tập trung vào các vị trí khác nhau ở Đan điền khí, Đan điền thần, Đan điền tinh hoặc ở huyệt Mệnh môn..

c) Điều tức:

Là tập điều hòa hơi thở được tự nhiên: nhẹ, chậm, sâu, lâu, đều, tự nhiên cho thành một thói quen, nhằm khai thông các huyệt đạo trên Nhâm-Đốc mạch giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp, cùng vận hành liên tục theo vòng Tiểu chu thiên để tạo ra một hệ thống phòng chống bệnh tự động trong cơ thể.

Điều hòa hơi thở đúng sẽ làm thay đổi chức năng co bóp của tim và nhịp tim được cải thiện ngay sau khi tập, đã được kiểm chứng đo điện tâm đồ.

Tập thở đúng tạo thành nhịp thở sinh học đều đặn theo chu kỳ khoảng 6 đến 12 hơi thở ra thở vào trong một phút, sẽ giúp cho hệ thống miễn nhiễm được mạnh gấp nhiều lần hơn những người khác. Bình thường một người khỏe mạnh không bệnh tật, thở trung bình một phút được 18 hơi, nếu đến tuổi già vẫn giữ được 18 hơi thì tuổi thọ có thể sống lâu 100 tuổi. Nếu hơi thở trên 18 hơi là cơ thể đã có bệnh (thí dụ như bị thở gấp, ngắn hơi, hụt hơi trong bệnh tim mạch, suyễn, đau đớn..) thì tuổi thọ sẽ giảm.

Đã có nhiều người tập đều đặn một thời gian, sức khỏe được cải thiện, những bệnh tật kinh niên tự biến mất dần, ít phải dùng thuốc hơn, nhất là các bệnh đau nhức chân tay, lưng gối, cảm cúm, nhức đầu, chóng mặt, dị ứng, ho hen, suyễn, áp huyết, tiểu đường. Các thế tập trong bài không có gì đặc biệt, cầu kỳ và khó nhớ, khó tập như các môn khí công khác, nhưng kết qủa thật kỳ diệu, như một phép lạ.

4. Cách khám bệnh bằng KCYĐ

Đông y có Bát cương( 8 Cương lĩnh) để qui loại bệnh: Âm- Dương, Biểu –Lý, Hàn- Nhiệt, Hư- Thực, Bát Pháp( 8 Phương pháp) để trị bệnh: Hãn, Hòa, Hạ, Tiêu, Thổ, Thanh, Ôn, Bổ. Khi chẩn bệnh Đông Y dùng Tứ chẩn: Vọng, Văn, Vấn, Thiết.

Khí Công Y Đạo cũng sử dụng Bát cương, Bát pháp và Tứ chẩn nhưng theo cách riêng: Đó là sử dụng những thành tựu của Tây Y để vận dụng vào khám bệnh thay cho bắt mạch của Đ.Y và cho kết quả chính xác cao hơn và thậm chí rất ngạc nhiên mà cả Đông Y và Tây Y cũng chưa ngờ tới.

KCYĐ dùng 4 thiết bị sau:

1.Máy đo huyết áp

2.Máy đo đường huyết

3. Máy đo nhiệt độ cơ thể

4. Máy đo oximeter

- Xin trình bày rõ hơn về sử dụng máy đo HA để chẩn đoán bệnh.

Cách chữa đúng gốc bệnh cần phải bổ sung khí, huyết cho cơ thể đầy đủ, kết qủa điều trị phải được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết lọt vào tiêu chuẩn lứa tuổi dưới đây thì bệnh mới mau khỏi.

Bảng tiêu chuẩn áp huyết của người khỏe mạnh theo KCYD:

1. Áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi)

95-100/60-65mmHg, mạch nhanh có thể >100 nhịp/ phút.

2.Áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)

100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65

3. Áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)

110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70

4. Áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)

120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75

5.Áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)

130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80

Khác với Tây Y, KCYĐ luôn đo huyết áp cả 2 tay để từ đó tìm ra bệnh thuộc Âm- Dương, Biểu – Lý, Hàn- Nhiệt, Hư – Thực.

KCYĐ đã chứng minh được bằng thực nghiệm HA trong cơ thể con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có khí của Lục phủ, Ngũ tạng.

Đo huyết áp 2 tay trước và sau khi ăn 30 phút còn tìm ra được sự chuyển hóa đúng, sai của chức năng bao tử và gan. Ngoài ra KCYĐ còn đo HA ở hai chân để kiểm tra khí lực của chân cũng như sự đóng mở của các van tĩnh mạch chân, sự tuần hoàn máu ở chân. Người ta cứ tưởng khi đo huyết áp ở hai tay cũng giống nhau, hay đo ở chân cũng giống như ở tay đó là một sai lầm lớn, nên không phát hiện ra được những bệnh nan y. Theo Tây y, nếu 1 người có số đo HA >= 100/60 và <= 140/ 90 cho là bình thường. Đó cũng là quan niệm sai lầm. Huyết áp biểu hiện khí lực của một người và nó phải tăng theo tuổi (nhưng nằm trong giới hạn). Nhiều người bị chết âm thầm do huyết áp thấp mà không biết cũng như nhiều bệnh nan y cả Đông Y và Tây y tìm mãi không ra vì không nghiên cứu số đo huyết áp, nhịp tim 2 tay, 2 chân để so sánh với tiêu chuẩn của KCYĐ.

- Dùng súng bắn nhiệt độ có thể biết được các vùng của cơ thể cũng như các đường kinh lạc bị hàn, nhiệt, nhiều khi còn tìm ra được các bệnh nan y mà Đông Y cũng như Tây Y không tìm ra.

- Dùng máy thử tiểu đường để biết lượng đường huyết trong cơ thể cũng như trên các đường kinh có nằm trong tiêu chuẩn hay không để từ đó điều chỉnh bằng ăn uống hoặc dùng thuốc cho phù hợp. Khi cơ thể bị bệnh, đường trong huyết sẽ phân bố không đều, khi thử đường ở tay thì có thể nằm trong tiêu chuẩn, nhưng ở chỗ khác thì lượng đường có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với tiêu chuẩn, từ đó các thầy khí công có thể biết được nguyên nhân gây bệnh. Lượng đường tiêu chẩn trong máu khi đói phải từ 6 đến 8 mmol/l sau khi ăn đo được 10- 12 mmol/l mới là người khỏe mạnh.

- Dùng máy oximeter để đo lượng oxy trong cơ thể cũng như trên các đường kinh lạc để biết kinh nào thiếu khí để điều chỉnh bằng tập các bài khí công cho phù hợp.

Khi khám bệnh bằng oximeter ở các ngón chân, ngón tay, sẽ phát hiện dấu hiệu bệnh ở ngọn, thuộc cục bộ ở đầu ngón chân, tay, sẽ phát hiện bệnh ở đường kinh, sẽ phát hiện bệnh trong nội tạng.

Vì Tây y đã không nghiên cứu kỹ về kinh mạch như Đông y, nên đã có sai lầm cứ tưởng khi đo oxy, ở ngón tay hay ngón chân hay bất kỳ nơi nào trong cơ thể cũng đều giống nhau, nên việc đo ở những ngón tay khác hay ở ngón chân không cần thiết, nhưng thật ra nó rất quan trọng để khám định bệnh.

III- Những kết quả kỳ diệu của tập khí công

Sau đây sẽ minh họa một vài bệnh án điển hình

1. Cao huyết áp do thận hư đã 13 năm

Nam bệnh nhân 50 tuổi, có bệnh cao huyết áp do thận hư đã 13 năm, uống thuốc huyết áp mà không xuống. Tây y chẩn đoán nếu huyết áp không xuống phải đi lọc thận.

Khám Bệnh bằng máy đo huyết áp :

Tay trái 165/100mmHg mạch 60, tay phải 178/95mmHg mạch 60. Chân trái 240/120mmHg mạch 62, chân phải 215/124mmHg mạch 58.

Định Bệnh theo Ngũ Hành :

Huyết áp tay trái do ảnh hưởng của Bao tử bị thực hàn do ăn uống chất hàn lạnh mát, uống nhiều nước không chuyển hóa, tay lạnh, hở van tim nên thu nạp oxy thiếu, huyết áp tay phải do ảnh hưởng của gan cũng thực hàn, khiến gan nở lớn, chân trái huyết áp cao do tắc nghẽn mạch háng bởi uống nhiều nước nặng ruột, bị xệ, chèn ép động mạch háng khiến chân phù ứ, huyết áp chân phải cao do thời gian uống nhiều nước lâu ngày theo thói quen làm thoát vị bẹn hai bên, khiến thận trương nở không co bóp làm nhiệm vụ lọc Thận. Theo lý thuyết Đông y, Thận thuộc âm.

-Lý thuyết thứ nhất: âm hư sinh nội nhiệt, cơ thể cảm thấy nóng, cần phải uống nhiều nước mà cổ vẫn khô khát, thận càng hư.

-Lý thuyết thứ hai : âm hư hỏa vượng, có nghĩa là Tâm hỏa thực ra không nóng, nhưng không có thủy khắc chế để trao đổi thủy hỏa giữ quân bình âm dương, cho thân nhiệt đều, tự nhiên không có âm, khiến dương vượt trội lên, Đông y gọi là hư hỏa, tạo ra huyết áp cao giả tạo.

Chữa Bệnh theo Tinh-Khí-Thần :

Khí :

Tập bài điều hòa thủy hỏa làm hạ huyết áp, thông khí huyết xuống chân, tăng thân nhiệt, vừa chữa tiêu hóa, và chữa thận bằng bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần. Đo kiểm chứng lại huyết áp, tay trái 140/95mmHg mạch 65, tay phải 145/90mmHg mạch 68. Bệnh nhân tập chưa đủ liều lượng, để bệnh nhân nghỉ dưỡng thần 5 phút rồi tập tiếp bài Kép Ép Gối 200 lần nữa. Đo kiểm chứng huyết áp xuống, tay trái 139/92mmHg mạch 70, tay phải 140/90mmHg mạch 71, chân tay ấm.

Tinh :

Hướng dẫn bệnh nhân mua lấy 1 bó rau Ngò Tây (parsley) rửa sạch, cắt nhỏ, nấu với 1 lít nước 10 phút, lọc lấy nước cất vào tủ lạnh, uống thay nước trà uống hết trong ngày.

Bệnh nhân uống được 2 ngày, đo huyết áp xuống rất dễ dàng, lọt vào tiêu chuẩn, bệnh nhân đã gọi điện thoại thông báo tin mừng này cho bạn bè, đã thoát khỏi bị lọc thận.

2. Bài tập để giảm huyết áp, hạ mỡ máu, thiếu máu động mạch vành, gan nhiễm mỡ, mất ngủ do đi tiểu đêm, tức ngực và khó thở

Hỏi: Tôi viết thư này mong thầy vui lòng chỉ giúp tôi bài tập để giảm huyết áp, hạ mỡ máu, thiếu máu động mạch vành, và gan nhiễm mỡ, và mất ngủ do đi tiểu đêm nhiều lần, đôi khi tức ngực và khó thở

Còn đo áp huyệt lúc sức khỏe ổn định là:

140/80 mạch 88-90,

Lúc mệt áp huyết thường lên 160/110

Trả lời:

Chữa theo Tinh-Khí-Thần :

Tinh :

Kiêng ăn chất béo, chất bột, và kiêng ăn nhiều, khiến thức ăn không tiêu hóa kịp là nguyên nhân sinh ra bệnh cholesterol, và gan nhiễm mỡ. Kiêng uống nước nhiều, làm hại chức năng thận, và sau 8 giờ tối không được uống nước, nếu không, nó sẽ là nguyên nhân đêm sẽ phải đi tiểu.

Khí :

Do kém vận động cơ thể nên không đủ nhiệt khí chuyển hóa thức ăn, mới bị bệnh cholesterol và gan nhiễm mỡ làm cho áp huyết cao.

Sau mỗi bữa ăn 30 phút, tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần, mỗi ngày tập 5 lần. Bài này là bài chính giúp hạ áp huyết, tiểu đường, cholesterol, hạ men gan, thông khí huyết toàn thân.

Tập bài Vỗ Tay 4 Nhịp 200 lần, và bài Cúi Ngửa 4 Nhịp 20 lần chữa bệnh thiểu năng động mạch vành và giúp chức năng gan tỳ chuyển hóa.

Tâp bài Hạc Tấn Mở Mắt vừa hát vừa nhảy one, two, three…làm hạ huyết áp, điều chỉnh thăng bằng.

Thần :

Tối trước khi đi ngủ, tập bài Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần, tập tiếp bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần, tập bài này xong, nằm thiền, cuốn lưỡi, ngậm miệng, thở bằng mũi bình thường, không chú trọng đến hơi thở. Nam, tay trái đặt lên mỏm xương ức gọi là Đan Điền Thần, tay phải đặt dưới rốn 5cm nơi huyệt Khí Hải, gọi là Đan Điền Tinh. Người nữ đặt tay ngược lại.

Chỉ cần theo dõi được tiếng mạch máu đập nhảy dưới bàn tay nghe bịch bịch rõ ràng, gọi là phương pháp Quán (theo dõi) và bắt đầu đếm số lượng mạch đập, gọi là phương pháp Sổ (đếm).

Khi đã Quán được và Sổ được là đã tập trung được ý vào một chỗ, thì tần số sóng não đang từ hoạt động 11Hertz hạ xuống thấp thành tần số thiền 3-4 Hertz, dưới tần số ngủ của người bình thường ở mức 5-7 Hertz, cho nên không quan trọng về vấn đề nhắm mắt mà ngủ hay thức.

Có hai trường hợp xảy ra :

a) Khi nằm nghe mạch đập rồi đếm, khi chán rồi quên mất không còn nhớ là đếm được bao nhiêu, đã làm mình buồn ngủ, gọi là thiền bị hôn trầm (buồn ngủ) tự nhiên hai bàn tay buông ra rớt xuống đi vào giấc ngủ, lúc đó sóng não ở tần số ngủ 5-7 Hertz, 7 Hertz là mới bắt đầu ngủ, 5 Hertz là đã ngủ sâu.

b) Ngược lại, vẫn tỉnh thức, đếm được mạch nhịp đập suốt đêm được mấy chục ngàn tiếng đập, càng ngày càng rõ, càng ngày càng chậm, gọi là thiền tỉnh thức, tần số sóng não xuống 3-4 Hertz, thì 1 giờ thiền tỉnh thức tương đương vơí 2 giờ ngủ, không cần ngủ, mà người không bị mệt, đó là trình độ thiền cao cấp như các thiền sư hay như bậc thầy khí công hay võ thuật.

Những người bị bệnh mất ngủ kinh niên, chỉ cần tập phương pháp này, cố gắng thức đêm trong vòng 1 tuần lễ, không ngủ để đếm mạch nhịp đập, hôm đầu thí dụ đếm được 2000 lần thì bị buồn ngủ, hôm sau ráng thức hy vọng sẽ đếm được nhiều hơn, nhưng sự thực lại đếm ít hơn khoảng 1500 lần, hôm sau nghĩ phải cố thức theo dõi đếm nhiều hơn, thì ngược lại chỉ đếm được chừng 1000 lần đã bị hôn trầm, từ từ mỗi đêm thở thiền đếm được vài trăm là đã ngủ, nên phương pháp này dùng để chữa bệnh mất ngủ kinh niên rất có kết qủa.

3. Hỏi cách chữa bệnh tiểu đường theo KCY Đ

Cách chữa bệnh tiểu đường theo phương pháp Tinh-Khí-Thần là điều chỉnh lại chức năng của tam tiêu là tăng tính hấp thụ và chuyển hóa các chất dinh dưỡng đúng, đủ và phù hợp với cơ thể, tự động loại bỏ những chất không cần thiết trong máu.

Theo Đông y, mặc dù lượng máu trong cơ thể đủ, nhưng khí lực trong người chỉ đủ thúc đẩy máu tuần hoàn, chứ không làm cho máu sạch được. Muốn giúp máu sạch cần phải biết thanh lọc khí, luyện khí, trao đổi hấp thụ nhiều oxy có nhiều ion dương giúp cho tam tiêu thanh lọc máu, thì thuốc Đông Tây y, hay châm cứu không làm được, chỉ chính bệnh nhân phải tập luyện khí công, mới làm thay đổi kết qủa thử máu xấu trở thành tốt được.

Thí dụ đường tụ lại trong Gan Tỳ, tích lũy lâu sẽ làm tăng Triglyceride mặc dù vẫn uống thuốc điều trị tiểu đường. Ngay cả khi dùng sữa Hạnh Nhân, đường trong máu hạ, nhưng đường tích tụ trong Gan lâu ngày vẫn còn, sẽ làm tăng men Gan cao dần, cho đến khi Gan bị bệnh. Cách ăn thuốc uống là điều chỉnh ngọn, ngừa biến chứng. Còn tập luyện khí công bài Vỗ Tay 4 Nhịp 200 lần, Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần, mỗi ngày tập 2-3 lần, lâu ngày mới làm sạch máu, tống hết độc trong cơ thể ra ngoài được. Lúc đó các chức năng hoạt động của Tạng Phủ đều tốt, hòa hợp đồng bộ, có khả năng thu nạp 5 chất cho 5 Tạng là đắng vào Tim, ngọt vào Tỳ, cay vào Phế, mặn vào Thận, chua vào Gan, không thiếu phần tạng nào, cơ thể sẽ không bị bệnh. Như vậy, sau khi tập khí công một thời gian lọc sạch máu, thì tất cả các thức ăn được bộ máy chuyển hóa mạnh và tốt thì, khi ăn tiệc đâu có nguy hiểm gì. Ngược lại nếu chưa chuyển hóa tốt, nếu có đi ăn tiệc, cốt để cho vui với mọi người, chứ việc ăn uống cũng kiêng khem điều độ như ăn cơm ở nhà mà không tham ăn, có gì phải sợ đường lên.

Thời khoa học tiên tiến, có những máy móc kiểm soát, nên tùy theo sự hấp thụ và chuyển hóa của cơ thể của mình, mỗi món ăn vào, các số đo thử nghiệm đều thay đổi khác nhau, mình ghi nhận những sự thay đổi tốt xấu đó để biết cách lựa chọn ăn uống cho phù hợp với mình, để lúc nào thử nghìệm áp huyết và đường lọt vào tiêu chuẩn là được, chứ không có một tiêu chuẩn chung cho mọi người trong việc điều trị bệnh. Đông y chỉ sắp loại bệnh theo hư, thực, hàn nhiệt, và chữa các bệnh theo các thức ăn uống thuốc men sắp theo hàn nhiệt, và theo tính-khí-vị, không ai có thể viết sách khẳng định rõ ràng, vì thế tôi không theo nguồn y liệu nào, mà phải qua xét nghiệm của tây y.

Thí dụ nhiều người nói ăn bánh bao, đường sẽ lên cao, đấy là theo lý luận. Đối với phương pháp chữa bệnh bằng khí công, đều phải thử. Bản thân tôi, trước khi ăn đo đường 6.0mmol/l, sau khi ăn bánh mì, cà phê, đo đường 12.0. Ngày hôm sau trước khi ăn đo đường 6.0, sau khi ăn bánh mì cà phê như hôm trước, và tôi muốn đường lên nữa đến 15-20mmol/l rồi sẽ uống thử nước lá dứa để làm hạ đường, nên ăn thêm một cái bánh bao thập cẩm, sau khi ăn, đo đường lại đường xuống 6.0. Như vậy ai bảo bánh bao lên đường, hôm đó tôi không thử được xem lá dứa có xuống đường hay không. Hôm sau nữa, sau khi ăn bánh mì, cà phê đường 12.0, bắt đầu uống nước lá dứa, đến 12 giờ trưa, thử đường vẫn 12.0, mỗi giờ kế tiếp thử đường cho đến 6 giờ chiều vẫn 12.0, nhưng đến 7 giờ tối, tôi cảm thấy hơi mệt mất sức, đo đường bỗng nhiên tụt xuống 6.0. Có nghĩa nước lá dứa công hiệu chuyển hóa chậm, rồi bỗng nhiên tụt nhanh, như vậy không có lợi bằng Sữa Hạnh Nhân, xuống nhẹ nhàng, từ từ. Đó là kinh nghiệm bản thân mà không cần phải nguồn y liệu nào.

Như vậy phương pháp của tôi là phương pháp mới mẻ trên thế giới chưa ai có, nên không bắt chước theo kiểu tây y dẫn chứng qua sách vở, mà qua kinh nghiệm bản thân, hay qua lý luận theo ngũ hành, đề ra phương pháp chữa theo Tinh-Khí-Thần cho từng người và theo dõi kết quả thử nghiệm của tây y. Yêu cầu bệnh nhân trước và sau khi áp dụng phương pháp khí công y đạo, cho biết kết qủa thử nghiệm thông qua bác sĩ gia đình của bệnh nhân.

4. Kết quả kỳ diệu của phương pháp tập thở khí công để chữa bệnh nan y

Hiện nay trên thế giới, mọi người đều xếp loại bệnh ung thư vào mục bệnh nan y khó chữa, vì chưa tìm ra nguyên nhân, chỉ tìm ra hậu quả là bướu, nên chữa vào ngọn, tiêu diệt hậu quả mà không tiêu diệt nguyên nhân, nên chữa xong bướu này, nguyên nhân phát sinh bệnh vẫn còn lây lan sang nơi khác Tây y gọi là di căn.

Cách chữa ung thư theo Tây y là hóa học trị liệu từ trước đến nay theo phương pháp của Trường Đại Học Johns Hopkins, đã được xem là cách duy nhất để thử nghiệm và loại bỏ ung thư. Nhưng ngày nay phương pháp này đã có một cách nhìn khác dần dần đi đúng lý thuyết tinh-khí-thần trong Đông y.

Sau đây là một vài đoạn trích trong bài viết mới cập nhật của trường đại học Johns Hopkins .

1. Ai cũng có tế bào ung thư trong cơ thể. Những tế bào này không thể bị phát hiện trong những cuộc kiểm tra tiêu chuẩn, trừ khi chúng nhân ra thành vài tỷ tế bào.

2. Tế bào ung thư xuất hiện từ 6 tới 10 lần trong cuộc đời con người.

3. Khi hệ thống miễn dịch của cơ thể mạnh, hệ thống này tiêu diệt các tế bào ung thư đồng thời ngăn chặn chúng sinh sản và hình thành khối u.

4. Hóa học trị liệu bao gồm việc làm nhiễm độc các tế bào ung thư phát triển nhanh, đồng thời cũng tiêu diệt các tế bào khỏe mạnh trong tủy xương và vùng dạ dày – ruột, và có thể gây tổn thương các cơ quan như Gan, Thận, Tim, Phổi…vv..

5. Trị liệu ban đầu bằng hóa học trị liệu và phóng xạ thường làm giảm kích cỡ khối u… Song sử dụng các biện pháp này lâu dài không tiêu diệt được khối u hoàn toàn.

6. Khi cơ thể nhiễm độc do hóa học trị liệu và tia phóng xạ, hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ trở nên yếu ớt và bị tổn thương, do vậy cơ thể thường không chống đỡ nổi với bệnh tật và các biến chứng.

7. Ung thư là căn bệnh của thể xác và tinh thần. Một tinh thần lạc quan và sảng khoái sẽ giúp các bệnh nhân ung thư giành giật được sự sống. Giận dữ, căm thù và cay đắng khiến cơ thể bị căng thẳng và tạo ra acide. Hãy học cách sống vị tha và đầy yêu thương. Học cách thư giãn và hưởng thụ cuộc sống (Thiền).

8. Các tế bào ung thư sẽ không tồn tại được trong môi trường đầy oxy. Tập thể dục đều đặn, hít thở sâu sẽ giúp các tế bào được nạp đầy đủ oxy. Liệu pháp oxy cũng là cách tiêu diệt các tế bào ung thư (Khí Công)

Như vậy, cách nhìn của y khoa ngày nay cũng chú trọng đến TINH là cách ăn uống, chất nào tạo duyên xấu làm tăng trưởng tế bào ung thư phải nên tránh, chất nào là duyên tốt vừa tăng cường cho tế bào tốt, làm mạnh hệ miễn nhiễm, vừa tiêu diệt tế bào ung thư cần phải bổ sung.

Về KHÍ thì Tây y công nhận môi trường tạo nhiều oxy sẽ làm cho tế bào ung thư không tồn tại được, nhưng chưa tìm ra đúng phương pháp, chỉ có phương pháp tập thở Khí Công mới thu nạp và giữ được oxy lâu trong cơ thể, khác với tập thể dục thể thao, có oxy vào rồi lại ra mất, bác sĩ Ngô Gia Hy đã kiểm chứng qua xét nghiệm máu về kết quả tăng hồng cầu sau thời gian tập Khí Công. Có nhiều loại Khí Công, loại Khí Công chúng ta thường gặp và tập luyện nhất là Tài Chi, nhưng khi thử nghiệm máu không thấy tăng hồng cầu, do đó nhiều người còn nghi ngờ khả năng chữa ung thư bằng Khí Công vì không biết loại nào đúng và có hiệu quả nhanh khi thử nghiệm máu. Vì thế mà môn học Khí Công Y Đạo ra đời để chuyên chữa những bệnh nan y bổ sung cho ngành y khoa hiện đại. Các bài tập thể dục Khí Công Y Đạo, cách tập thở thiền, được phân loại có kết quả tương đương như thuốc ngoại dược để chữa bệnh.

Về THẦN, Tây y công nhận Tâm tính cũng có những duyên tốt làm cho bệnh mau lành, tế bào ung thư sẽ không thể phát triển, còn duyên xấu sẽ làm tăng trưởng tế bào ung thư làm bệnh nặng thêm, và khuyên bệnh nhân không nên giận dữ, căm thù, bi quan, cay đắng mà phải sống lạc quan yêu đời, biết sống thư giãn, không gì hơn là phương pháp thiền tĩnh Tâm buông xả. Nhưng thiền cũng có nhiều cách, có cách dùng để chữa bệnh mau khỏi là cách thở thiền trên các Đan Điền hay trên đại huyệt của Khí Công Y Đạo mới có kết quả hơn cách thiền chỉ để thư giãn, kém kết quả hơn nếu muốn dùng thiền để chữa bệnh.

Chúng ta thử tìm hiểu cách chữa bệnh nan y theo phương pháp Khí Công y đạo qua bệnh sau đây:

Bệnh ung thư Phổi do hút nhiều thuốc lá, di căn sang gan và lên não.

Một nam bệnh nhân người Rumany là kỹ sư chế tạo những máy móc điện tử cho ngành y khoa, ông bị bệnh ung thư Phổi do hút nhiều thuốc lá, bướu trong Phổi bên phải to 8cm, đã di căn tạo bướu trong gan và bướu não bên phải, đang chữa hóa trị theo Tây y. Ông vẫn tiếp tục chữa theo Tây y nhưng bắt đầu tập thêm cách thở Khí Công.

Thông thường, sau mỗi lần chữa hóa trị, cơ thể bệnh nhân suy nhược cả thể xác lẫn tinh thần do phản ứng thuốc qúa mạnh, đa số những triệu chứng xẩy ra sau khi chữa là đau đớn, khó thở, không ăn uống được, không ngủ được, người xanh xao, mất máu, mất hồng cầu…

Khi chữa lần đầu, những triệu chứng này kéo dài khoảng 1 tuần, rồi cơ thể từ từ phục hồi lại sức vào tuần lễ thứ hai, cơ thể chưa thấy gì là suy nhược. Khi điều trị lần thứ hai, hệ thống miễm nhiễm giảm, chức năng hoạt động của Tạng Phủ yếu dần mất sức đề kháng, triệu chứng đau đớn, mệt mỏi, mất ăn, mất ngủ kéo dài đến 2 tuần, mới vừa phục hồi lại sức, thì đến đợt trị liệu thứ 3, chức năng khí hóa của cơ thể không đủ sức kịp chuyển hóa tẩy độc để giúp cơ thể phục hồi sức khỏe, mà trái lại, độc tố lưu giữ trong cơ thể trở thành kẻ nội thù phá hỏng chức năng nội tạng, làm tinh thần suy nhược, mất máu, mất hồng cầu, rụng tóc, mặt trắng mét, hơi thở gấp, mắt lõm, má hóp, tiêu hóa không thông, táo bón, ăn uống không được, mất ngủ, người mệt mỏi, chân tay mất sức…

Có nhiều người ở giai đoạn này, bệnh nhân tự cứu mình, đã đến với KCYĐ để học cách tập thở tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.

Bệnh nhân thường quan niệm sau khi chữa hóa trị, cơ thể mệt mỏi mất sức, chắc không thể tập thở Khí Công ngay được, đợi nghỉ ngơi vài ngày cho cơ thể khỏe lại một chút mới đi tập, cho nên tập thở Khí Công được ít ngày rồi nghỉ theo chu kỳ trong thời gian hóa trị, và rồi đến với Khí Công thưa dần cho đến khi sức kiệt quệ không đi đứng dễ dàng để đến với Khí Công được nữa, bệnh càng nặng và trút hơi thở cuối cùng mà chưa hoàn tất xong lịệu trình chữa trị bằng hóa chất theo Tây y.

Rút kinh nghiệm trong phương pháp hướng dẫn tập thở Khí Công để tự chữa bệnh ung thư, tôi thường khuyên bệnh nhân, sau khi ở bệnh viện ra, hãy đến tôi để tập thở loại độc tố ra khỏi cơ thể ngay, khiến cho phản ứng phụ của thuốc mất tác dụng nên không bị mất máu, mất hồng cầu không làm mất ảnh hưởng đến đội quân trong hệ thống miễn nhiễm phòng chống bệnh, và cái đau hay xáo trộn chức năng Tạng Phủ chỉ kéo dài 2 ngày là biến mất, lúc đó cơ thể còn nhiều thời gian để phục hồi lại tinh-khí-thần càng ngày càng khỏe hơn để đợi ngày hóa trị kế tiếp.

Bệnh nhân Rumany kể trên đã áp dụng chiến thuật này, ông nhận thấy, sau khi hoá trị, cơ thể vẫn bình thường khỏe mạnh, thỉnh thoảng, khi đo huyết áp tôi thấy xuống thấp, thiếu máu, thiếu hồng cầu, tôi đề nghị ông xin với bác sĩ truyền máu cho ông. Ông tập thở suốt ngày, khi đi, đứng, hay ngồi, còn khi nằm ông tập thở ở Đan Điền Thần làm cơ thể ấm, tăng hồng cầu, tăng sức tuần hoàn máu cho tim mạch, khi tiêu hóa kém không hấp thụ và chuyển hóa, ông tập thở ở Trung Quản, khi cơ thể nóng hay khó thở, nói chuyện hay bị mệt, ông tập thở ở Đan Điền Tinh để phục hồi nguyên khí, khi suy nhược thần kinh ông tập thở ở Mệnh Môn.

Ba tháng sau, ông cho biết, sau khi scan xem tình trạng bướu trong Phổi, ông và bác sĩ nhìn trên màn hình, không còn thấy bướu to 8cm nữa, mà chỉ thấy một chấm đen mờ khoảng 2mm, gần như không còn bướu, cả ông và bác sĩ ngạc nhiên vui mừng. Hiện nay ông khỏe hơn như lúc chưa bị bệnh.

Ông thắc mắc hỏi tôi tại sao tập thở Khí Công lại có kết quả kỳ diệu như vậy.

Phương pháp thở này phải được duy trì liên tục thường xuyên có gía trị như dùng thuốc.

Đối chứng trị liệu là dùng những phương pháp thở tùy tình trạng bệnh như thiếu máu lên đầu nuôi não, dùng bài tập Khí Công Cúi Ngửa 4 Nhịp, đau nhức mỏi tay chân dùng bài Vỗ Tay 4 Nhịp, người lạnh tập thở Đan Điền Thần, người nóng tập thở Đan Điền Tinh, huyết áp cao tập thở Mệnh Môn, ăn không tiêu tập bài Kéo Ép Gốt Thở Ra làm Mềm Bụng, tăng hồng cầu và bạch cầu để chữa bệnh tập bài Đứng Ngũ hành Tấn 10 phút ép độc tố xuất ra bằng đường mồ hôi, Thận suy nằm úp tập thở Mệnh Môn…Những bài tập của Khí Công, mỗi bài có giá trị riêng giống như một loại thuốc đặc trị để giúp cơ thể tự điều chỉnh chức năng khí hóa của Lục Phủ Ngũ Tạng vẫn theo quy luật Âm Dương Ngũ hành trong cách chữa bệnh của Đông y, nên cần phải theo dõi những biến đổi Ngũ hành do phản ứng thuốc Tây y mỗi lúc mỗi khác để lúc nào cũng giữ được sự quân bình khí hóa Âm - Dương, Ngũ - hành của tinh-khí-thần hoà hợp sẽ tránh được bệnh trở nặng hơn hay bị tái phát.

Hà Nội, tháng 10 năm 2012

Vương Văn Liêu

Từ khóa » Có Nên Tập Khí Công Y đạo