Khỉ, “vị Cứu Tinh” Của Sức Khỏe Con Người

Phát hiện yếu tố Rhesus trong hồng cầu

Trong các loại khỉ được dùng làm thí nghiệm y học, loài người mang ơn rất nhiều loài khỉ Rhesus có tên khoa học là Macaca mulatta. Chính từ khỉ Rhesus, nhà khoa học Landsteiner, người đã phát hiện các nhóm máu theo hệ thống ABO đóng vai trò rất quan trọng trong truyền máu, phát hiện thêm yếu tố Rhesus trong hồng cầu người. Chính yếu tố Rhesus là nguyên nhân sinh bệnh thiếu máu tan huyết ở trẻ sơ sinh. Landsteiner đã tiêm cho thỏ hồng cầu lấy từ máu khỉ Rhesus để thu huyết thanh thỏ kháng hồng cầu khỉ này. Ông nhận thấy huyết thanh thỏ kháng hồng cầu khỉ có khả năng ngưng kết hồng cầu của đa số người. Điều này chứng tỏ trong hồng cầu đa số người có chứa kháng nguyên cùng loại với kháng nguyên có mặt trong hồng cầu khỉ. Kháng nguyên ấy được đặt tên là yếu tố Rhesus. Có khoảng 85% số người mang yếu tố Rhesus và được gọi là nhóm Rhesus dương ( ). 15% số người còn lại không mang yếu tố này và được gọi là nhóm Rhesus âm (-). Việc phát hiện yếu tố Rhesus giúp cho sự giải thích, phòng ngừa và cả điều trị bệnh thiếu máu tan huyết ở trẻ sơ sinh. Nếu bố thuộc nhóm Rhesus ( ) và mẹ thuộc nhóm Rhesus (-) thì đứa con sinh ra rất hay mắc chứng bệnh này. Lý do là đứa con có thể thụ hưởng yếu tố di truyền của cha mang yếu tố Rhesus ( ), khi còn là bào thai trong bụng mẹ, sẽ làm cho máu của mẹ (Rhesus -) hình thành kháng thể kháng Rhesus. Các kháng thể này lọt trở vào máu thai nhi và làm kết dính, phá hủy hồng cầu gây chứng tan máu. Đây là bệnh rất nặng, một số trẻ chết ngay trong bụng mẹ, một số sinh ra nếu không điều trị kịp thời (có khi phải thay toàn bộ máu) cũng sẽ tử vong.

Phân lập virút và điều chế vắcxin

Đối với một số bệnh do virút (thí dụ như sốt bại liệt, rubella...) thì việc thử nghiệm cũng được thực hiện nhờ khỉ Rhesus. Có thể nói, qua 30 năm, kể từ khi virút được phát hiện, khỉ được coi là súc vật thí nghiệm duy nhất mà nhờ chúng người ta phân lập ra virút và tiến hành các thí nghiệm, đặc biệt là thí nghiệm huyết thanh học. Không những thế, có một số vắcxin phòng bệnh do virút đã được điều chế nhờ các bộ phận của khỉ. Như vắcxin Sabin dùng phòng bệnh sốt bại liệt ở trẻ con được điều chế từ virút thuộc ba týp I, II, III nuôi cấy trên tế bào thận khỉ Rhesus.

Nghiên cứu hiện tượng sinh quái thai

Trong lĩnh vực nghiên cứu hiện tượng sinh quái thai, đối tượng thí nghiệm lý tưởng nhất vẫn là khỉ. Lý do là chỉ có khỉ và người là thuộc bộ linh trưởng (Primates), đặc điểm sinh lý của cơ thể khỉ có nhiều điểm rất giống người. Chẳng hạn như chu kỳ kinh nguyệt của khỉ Rhesus là 28 ngày như người, chỉ khác một điểm ngày rụng trứng của người là ngày thứ 14 của chu kỳ trong khi ngày rụng trứng của khỉ là 11, 12.

Tìm ra thuốc mới

Trong lĩnh vực tìm ra thuốc mới, có nhiều giai đoạn nghiên cứu, trong đó bắt buộc phải có giai đoạn thử thuốc trên súc vật thí nghiệm (giai đoạn thử nghiệm dược lý). Chỉ khi thử trên súc vật thấy thực sự an toàn, người ta mới bắt đầu thử thuốc trên người (giai đoạn thử nghiệm lâm sàng). Đúng ra việc thử thuốc trên súc vật nên thử trên khỉ là tốt nhất, tuy nhiên, việc chọn khỉ có khó khăn do các hạn chế sau: việc nuôi dưỡng tốn kém, đời sống khỉ tương đối dài nên phải tốn rất nhiều thời gian nếu muốn quan sát thí nghiệm qua nhiều thế hệ... Vì vậy, khỉ được chọn làm súc vật thử nghiệm thuốc mới không phổ biến bằng chuột (chuột nhắt trắng, chuột lang), thỏ, chó, mèo và một số loài vật có vú khác. Nhưng mặt dù tốn kém, có một số thuốc bắt buộc phải thử dược lý trên khỉ. Không chỉ thử trên khỉ Rhesus mà còn có thể thử trên một số loài khỉ khác như khỉ Baboon (khỉ đầu chó, Papio papio), khỉ tinh tinh (Chimpanzee, Pon troglodytes)... Thí dụ như thuốc trị xơ vữa động mạch được tìm ra khi thử trên động mạch bị xơ vữa của khỉ Baboon. Hay tác dụng phụ ngoại tháp (extrapyramidal) của thuốc ức chế thần kinh chỉ có thể phát hiện khi thử thuốc trên khỉ Rhesus.

Từ khóa » Khỉ Rhesus