Kho Tàng Tục Ngữ Ca Dao Việt Nam - Trinh Vương Qui Nhơn
Có thể bạn quan tâm
Chắc chắn đa số chúng ta, những người được may mắn sinh trưởng và giáo dục dưới thời Việt Nam Cộng Hòa đều không thể quên được những gì chúng ta được các thày cô dạy dỗ ngày chúng ta mới đến trường. Ngay khi vừa bước vào lớp, bên trên tấm bảng đen hay xanh lá cây luôn là câu : “Tiên Học Lễ - Hậu Học Văn”. Đó chính là bằng chứng cho thấy nền tảng giáo dục luôn lấy chữ Đức làm trọng. Đức dục song song cùng Trí dục và Thể dục. Con người có lễ phép và đạo đức thì luôn biết cư xử đúng chừng mực, biết kính trên nhường dưới, tạo nền tảng tốt từ trong gia đình ra đến xã hội, điều này không cần nói thì ai cũng đều biết như vậy.
Hệ thống và chương trình giáo dục thời chính phủ Miền Nam Việt Nam Cộng Hòa chắc cũng không ai quên được, ngay tên gọi của những môn học cũng cho thấy một nền giáo dục nhằm phát triển con người về nhiều phương diện, cung cấp những kiến thức căn bản và đạo đức. Tôi còn nhớ những năm ở bậc tiểu học, ngoài những mộn học như Toán, Chính Tả, Tập Làm Văn, dạy cho học sinh phát triển những kỹ năng căn bản, học sinh còn được học Sử Ký, Địa Lý, Vệ Sinh, Tập Viết, Thủ Công, Nữ Công, Khoa Học Thường Thức, và đặc biệt hai môn học được dạy xen kẽ nhau trong suốt tuần, trước mỗi buổi học là môn Công Dân Giáo Dục và Đức Dục. Hai môn học này không chỉ dạy cho học những khái niệm căn bản mà còn giúp học sinh ý thức hơn về trách nhiệm và bổn phận của mình đối với thày cô, gia đình và xã hội, mỗi bài học đều kết thúc bằng một câu tục ngữ, ca dao nhằm minh họa cho bài vừa học. Những câu này có thể là Văn Chương Bác Học, hay được rút ra từ kho tàng Văn Chương Bình Dân Việt Nam, là những kinh nghiệm được đúc kết từ bao đời cha ông để lại . . . Và có lẽ các nhà soạn chương trình thấy chưa đủ khi chỉ học một số ít câu dưới các bài học nên đã cho học thêm kho tàng Văn Chương Bình Dân Việt Nam ở bậc Trung Học
Như chúng ta đã biết, hệ thống giáo dục trước đây của VNCH theo khuôn mẫu của Pháp quốc nên nặng về thi cử. Cũng một phần vì ngày trước, khi người Pháp đô hộ đất nước ta, không muốn người bản xứ học và hiểu biết nhiều sẽ gây trở ngại cho việc cai trị nên lập ra nhiều kỳ thi để hạn chế việc học của người dân Việt chúng ta. Ví dụ khi học xong lớp ba ở bậc tiểu học thì phải thi bằng “Sơ Học Yếu Lược”, đâu bằng này mới tiếp tục học thêm hai năm lớp nhì và lớp nhất ( lớp Bốn và lớp Năm sau này) phải thi văn bằng tiểu học ( ngày xưa gọi là bằng Primaire), rồi thi tuyển vào lớp đệ Thất ( lớp sáu sau này), học xong lớp đệ Tứ ( lớp chín sau này thì phải thi bằng Trung Học). Đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, có nhiều anh chị, có thể nghỉ học đi làm Thư Ký hoặc ở nhà học Nữ Công Gia Chánh chờ ngày “ lên xe bông về nhà chồng”, vì quan niệm con gái không cần phải học nhiều, mai mốt lấy chồng ở nhà lo tề gia nội trợ là đủ rồi. Tuy nhiên cũng có một số các anh chị tiếp tục theo học đệ nhị cấp, và cả đại học. Ba năm Đệ nhị Cấp thì năm Đệ Tam được học sinh xem là năm “ Hưởng Nhàn” vì năm nay không phải thi cử gì vào cuối năm, năm đệ nhị phải thi tú tài phần I, đâu xong lên đệ nhất tiếp tục thi tú tài phần II hay còn gọi là Tú Tài Toàn Phần, anh chị nào chọn ngành dược thì lại thi tuyển ngay, còn các trường khác thì phải thi đậu chứng chỉ dự bị đại học tùy theo ngành mình chọn thi vào sau này. Chương trình năm đệ tam về các môn toán và vậtt lý cũng là nền tảng cho các năm sau, thế nên nhiều anh chị cứ cho là “Hưởng Nhàn” thì thế nào cũng phải vất vả cho những năm cuối khi thi tú tài, và hậu quả thường là : “rớt tú tài anh đi trung sĩ”, phải đeo “ cánh gà ” bên tay áo, thay vì “Quai Chảo”( chuẩn úy) hay hoa mai trên cổ áo.
Tuy nhiên chương trình Việt Văn thì tương đối nhẹ hơn chút xíu, ngoài hai tác phẩm : “Chinh Phụ Ngâm Khúc “ của tác giả Đặng Trần Côn và bản dịch chữ nôm của bà Đoàn Thị Điểm, cùng tác phẩm “Cung oán Ngâm Khúc” của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, thì học sinh được học rất nhiều văn chương bình dân, đặc biệt tục ngữ, ca dao . . . Những bài thơ hay những câu ca dao, tục ngữ được đúc kết từ những kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày của cha ông chúng ta, thường là truyền khẩu, nên đôi khi có những thay đổi đôi chút tùy theo vùng miền, hay kinh nghiệm sống, ví dụ ta thường nghe :
Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ có thương con chồng
Biến thể thành:
Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời giặc cướp có thương dân nghèo
Kho tàng văn chương bình dân Việt Nam rất phong phú; ngoài kho tàng ca dao, tục ngữ phổ thông được phổ biến trong cả nước, lại còn có những câu ca dao tục ngữ của từng vùng miền, thậm chí của từng tỉnh thành . . . Những câu ca dao, tục ngữ này không chỉ nói đến kinh nghiệm sống mà còn đề cập đến những thắng cảnh, đặc điểm của con người hay những vị anh hùng của riêng địa phương đó, ví dụ như ca dao tục ngữ của Bình Định, nói đến những đặc điểm riêng, những thắng cảnh hay những anh hùng của đất nước xuất thân từ quê hương Bình Định chẳng hạn, có những câu trở thành quen thuộc, nhiều người trong cả nước cũng đều biết, ví dụ như :
Gió đưa mười sáu lá xoài
Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi
Hay, nói về những miền đất giỏi võ của Bình Đinh như:
Trai An Thái, gái An Vinh
Hoặc
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi, đi quyền
Câu này cũng bị biến thể khi anh chàng gặp phải nàng Bình Định, đã kết duyên giai ngẫu mà còn léng phéng, về nhà bảo đảm sẽ bị:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định cầm roi đánh chồng
Hoặc khi anh cháng muốn tán tỉnh cô em gái nào ở Qui Nhơn, nên nói cho nàng nghe:
Câu Đôi, nằm cạnh Tháp Đôi
Vật vô tri nọ còn đôi nữa hai đứa mình
Hay như câu ca dao, nói về tình trạng buôn lậu đưới thời Pháp thuộc:
Đầu phồng đá lửa, bụng chửa kaki
Thai ở Bồng Sơn, ra Tam Kỳ đẻ
Hay như câu :
Ai về nhắn với Nậu nguồn
Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên
Hoặc câu nói về vị anh hùng trong dân gian của Bình Định :
Chiều chiều én liệng Truông Mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành
Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến những câu ca dao tục ngữ chung chung được nhiều người biết đến, nhưng từ sau năm 1975 ít khi được nhắc đến, thậm chí rất nhiều sinh viên quốc nội cũng không biết đến vì không được học, hay được nghe nói, huống chi các em Việt Nam sống ở ngoại quốc, những em cháu được sinh ra và trưởng thành nơi xứ người. Với ước mong được giúp các em cháu biết được phần nào trong kho tàng văn chương bình dân Việt Nam, nhất là tục ngữ ca dao, với ước mong “Gìn vàng Giữ Ngọc” cho ngôn ngữ của quê hương vì “ Tiếng Việt Còn, Dân Việt Còn”
Chắc chắn là trí nhớ của chúng tôi sẽ không được đầy đủ như mong muốn, chỉ mong góp phần khơi gợi lại để các bậc trưởng thượng đọc và đóng góp thêm cho kho tàng văn chương bình dân Việt Nam không bị mai một, để con cháu chúng ta mỗi khi muốn tìm hiểu về cội nguồn còn có thể tự hào về những gì mà cha ông đã góp nhặt và để lại cho đời, bởi ca dao, tục ngữ thương được viết lại theo vần điệu cho dễ nhớ vì đó là những kinh nghiệm sống thực tế, do cha ông chúng ta tích lũy được; ví dụ như câu nói về thời tiết, vì ngày xưa, cha ông ta đâu có những phương tiện khảo sát, nhưng chỉ nhìn trời, nghe gió mà có thể đoán biết :
Vàng Gió, Đỏ Mưa
Ngày xưa khi vừa bước vào lớp vỡ lòng hay còn gọi là lớp mẫu giáo, bài học đầu tiên các học sinh được học thuộc lòng là những câu về gia đình, về hiếu đạo, về công ơn cha mẹ :
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Hay :
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển đông
Núi Cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng ai ơi
Hay : “Cha sanh không bằng mẹ dưỡng”
Hoặc : “ Sinh dưỡng đạo đồng”
Để nhắc nhở cho con cháu về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ
Ơn cha nặng lắm cha ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang
Thà rằng ăn bắp ăn khoai
Còn hơn thịt cá mồ côi một mình
Sinh con ai nỡ sinh lòng
Sinh con ai chẳng vun trồng cho con
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi cha mẹ, tính tháng tính ngày
Hay:
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp mật, như đường mía lau
Để nhắc nhở cho con cháu về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, cho dẫu đó chỉ là cha mẹ nuôi chứ không phải là người đã có công sinh thành ra mình chăng nữa, hay nói đến nỗi cô đơn của người đã mất mẹ cha, hay không may khi sinh ra đời đã không được mẹ cha thừa nhận vì một lý do riêng nào đó :
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây
Đờn đứt dây anh còn nối được
Cha mẹ mất rồi khổ lắm ai ơi
Hay so sánh tình trạng khác biệt giữa mồ côi cha và mồ côi mẹ
Mồ côi cha ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ liếm lá gặm xương
(Mồ côi cha ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ lót lá mà nằm)
Hoặc
Mẹ già như chuối chín cây
Gió lay mẹ rụng con rày mồ côi
Mồ côi tôi lắm ai ơi
Đói cơm khát nước biết người nào lo
Hay:
Thà rằng ăn bắp ăn khoai
Còn hơn thịt cá mồ côi một mình
Hoặc những câu, nói đến nỗi lòng người con khi ở xa cha mẹ, nhất là những người con gái ngày xưa khi đã “xuất giá tòng phu” thì chuyện đi về thăm cha mẹ ở xa là phải xin phép gia đình nhà chồng nên cho dù cho nhớ cha thương mẹ thì cũng đành ngậm ngùi :
Nuôi con mới biết sự tình
Thầm thương cha mẹ nuôi mình khi xưa
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều
Hoặc
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Ngậm ngùi nhớ mẹ chín chiều ruột đau
Hay :
Gió đưa cây cải ly hương
Xa cha xa mẹ, thất thường bữa ăn
Sầu riêng cơm chẳng muốn ăn
Đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày thức đủ vừa năm
Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày
Có vàng, vàng chẳng hay phô
Có con, con nói trầm trồ mẹ nghe
Hoặc
Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần không lấy, lấy chồng xa
Một mai cha yếu mẹ già
Chén cơm đôi đũa, kỷ trà ai dâng
Hoặc :
Chiều chiều ngó ngược ngó xuôi
Ngó không thấy mẹ, ngùi ngùi nhớ thương
Những câu nói lên lòng biết ơn cha mẹ và lòng hiếu đạo của người con :
Trứng rồng lại nở ra rồng
Hạt thông lại nở cây thông rườm rà
Có cha mới sinh ra ta
Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng
Hay :
Thờ cha mẹ, ở hết lòng
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường
Hoặc những câu dạy cho chúng ta biết vì sao phải ăn ở cho có hiếu đạo với mẹ cha
Cây khô đâu dễ mọc chồi
Bác mẹ đâu dễ ở đời với ta
Non xanh bao tuổi mà già
Bởi vì sương tuyết hóa ra bạc đầu
Hay :
Công cha đức mẹ cao dầy
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải kính thờ hai thân
Thức khuya dậy sớm chuyên cần
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con
Đêm đêm thắp ngọn đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Hay :
Tôm càng bóc vỏ bỏ đuôi
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già
Hoặc :
Mẹ già đầu bạc như tơ
Lưng đau con đỡ, mắt mờ con nuôi
Ngoài ra còn có những câu dạy cho con người về tình nghĩa anh em, họ hàng trong gia đình như
Một giọt máu đào hơn ao nước lã
Xảy cha còn chú, xảy mẹ bú dì
Dì ruột thương cháu như con
Rủi mà không mẹ cháu còn cậy trông
Lại có những người sớm mất đi cha mẹ nên ông bà ngoại, nội phải lo còm cõi thân già thay con, nuôi cháu. Vì thế người cháu không thể không nhớ đến bàn tay gầy gò của ngoại hay nội đã chăm bẵm cho cháu, thay cho những người con của mình chẳng may vì tai nạn hay chiến tranh mà qua đời :
Thứ nhất phải có ông bà
Thứ hai kế đến chính là mẹ cha
Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn
Chính nhờ sự chăm lo của ông bà, nhất là bà ngoại nên cũng có câu:
Cháu bà nội, tội bà ngoại
Và cũng vì vậy, nên có những người cháu được ông bà nuôi nấng từ những ngày còn thơ, lòng luôn cánh cánh tình yêu thương dành cho ông bà mình :
Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt thương bà bấy nhiêu
Hay những câu thơ của ai đó viết về công ơn của bà ngoại mình, tình yêu thương thân thuộc, gần gũi và tự nhiên đến độ cũng được xếp vào kho tàng văn học dân gian bởi hình ảnh “Bà Ngoại Việt Nam Tiêu Biểu”:
Thân cò lặn lội sớm trưa
Ngược xuôi bóng ngoại nắng trưa mưa dầm
Tảo tần khuya sớm âm thầm
Cháo rau nuôi cháu lớn dần yêu thương
Tiếng bà ru cháu ngủ vào những đêm mưa buồn, cô đơn vì thiếu mẹ đã theo cháu đi suốt cuộc đời
Tiếng bà ru cháu ầu ơ
Yêu thương còn đến bây giờ ngoại ơi
Thương con xót mấy cho vừa
Nuôi đàn cháu nhỏ còn chưa nên người
Đói no ấm lạnh ngoại ơi
Miếng cơm nhường cháu mặn mòi cá dưa
Sự hy sinh và lòng yêu thương của người bà khiến cho đứa cháu suốt đời không bao giờ quên
Ngoại ơi mỗi sớm khi chiều
Cuộc đời con nhớ thương nhiều ngoại ơi
Ngoài ra còn những câu ca dao nói về tình anh em trong gia đình như :
Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần
Hoặc
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Hay như :
Chị ngã, em nâng
Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Anh em ăn ở thuận hòa
Chớ điều chiếu lệch người ta chê cười
Anh em trên kính dưới nhường
Là nhà có phúc mọi đường yên vui
Anh em chín họ mười đời
Hai đàng cùng có chẳng rời nhau ra
Cắt dây bầu dây bí
Ai cắt dây chị dây em
Khi nói đến những mối dây liên kết trong thân tộc, dòng họ . .. .cũng thường cho rằng họ nội ( nghĩa là bà con anh em phía bên cha) mang tính huyết thống gần gũi hơn họ ngoại ( bà con phía mẹ ) như câu:
Con cô, con cậu thì xa
Con chú con bác, thật là anh em
Bởi ý nghĩ cho rằng người con gái khi đã lấy chồng thì “ Xuất giá tòng phu” do ảnh hưởng ngàn năm bắc thuộc , nhiều tư tưởng còn ảnh hưởng sự phong kiến của tàu, trọng nam khinh nữ, nên có những câu như:
Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô
Có một người con trai đã là Có, còn có mười người con gái cũng là không, thế nên để phản đối sự bất công này, kho tàng văn chương Việt Nam có câu :
Ba đồng một chục đàn ông
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha
Ba trăm một vị đàn bà
Mang về mà trải chiếu hoa cho ngồi
Hay câu :
Trai mà chi, gái mà chi
Ai mà có nghĩa, có nghì thì hơn
Thật ra, đã sinh ra làm người thì ai cũng phải biết giữ đạo hiếu với cha, mẹ, ông bà, bởi có cha mẹ ông bà thì mới có ta, và nên vóc nên hình như ngày hôm nay, hoặc được học hành để trở thành người hữu dụng cho xã hội, có danh vọng với đời đều phải nhờ vào: “ Cơm Cha, Áo mẹ, Chữ Thầy”. Và Hiếu với cha mẹ, ông bà cũng là cách dạy dỗ cho con cháu của chính mình, bởi “Giáo dục chính là làm gương”, nếu mình bất hiếu với ông bà cha mẹ thì sau này, chính bản thân mình cũng sẽ gánh chịu những hậu quả như vậy, thế nên cũng có câu răn dạy như sau :
Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó
Ngoài tình thân gia đình còn có tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Chia sẻ nhau trong cơn hoạn nạn như :
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Hay như:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Tình nghĩa làng xóm, tối lửa tắt đèn phải cần đến nhau trong cơn yếu đau, hoạn nạn như :
Bán anh em xa mua láng giềng gần
Hay:
Thương người như thể thương thân
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Những câu ca dao tục ngữ nói về công việc đồng áng, thời tiết, những kinh nghiệm nhận xét về con người và trong cuộc sống nói chung như :
Gió đàng đông, giông đàng tây
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm
Mấy đời sấm trước có mưa
Mấy đời dì ghẻ mà ưa con chồng
Nói đến sự khó nhọc của nhà nông, quanh năm “ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cầy
Con trâu là cả gia tài đối với người làm ruộng ngày xưa, con trâu giúp nhà nông cày bừa, không có con trâu thì những người nhà nghèo phải kéo cày thay trâu, như một số tỉnh ở miền trung “có người bừa thay trâu cày”
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cầy với ta
Cấy cầy vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa trổ bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Làm ruộng thì ra, làm nhà thì tốn
Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu
Nói đến sự vất vả của người phụ nữ nông thôn
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về
Hay
Cái ngủ mày ngủ cho say
Mẹ mày vất vả chân tay suốt ngày
Đề có được những hạt gạo cho chúng ta ăn hàng ngày là một công việc vất vả, trải qua nhiều công đoạn của nhà nông như chọn giống, gieo giống, nhổ mạ, cây lúa, đó là chỉ nói mọi việc suông sẻ chứ không nói đến khi gặp hạn hán mất mùa để nhắc cho mọi người công lao vất vả của người làm ra hạt gạo chứ đừng nghĩ cứ có tiền ra chợ mua về rồi tha hồ phung phí
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo ngon từng hạt đắng cay muôn phần
Cơm kể ngày, cày kể buổi
Hay nói về cách ăn uống, mối quan hệ xóm làng, và cũng để giáo dục con người phải biết khi ăn uống nơi chốn đông người, hay trong các buổi tiệc tùng phải biết ăn uống sao cho mọi người thấy mình là người có giáo dục, lịch sự trong cách ăn uống
Một miếng giữa làng
Bằng một xàng xó bếp
Miếng ăn là miếng tồi tàn
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu
Miếng ăn là miếng nhục
Ăn lấy hương lấy hoa
Ai ăn lấy no lấy béo
Ăn thanh ăn cảnh
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
Ngoài ra còn khuyên bảo con người cho dẫu trong hoàn cảnh nào chăng nữa thì cũng phải biết giữ lấy nếp nhà, giữ gìn đạo đức cho chính bản thân và gia đình mình :
Giấy rách phải giữ lấy lề
Hay:
Lành cho sạch, rách cho thơm
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu
Tháng ba trồng cà
Tháng tư cày vỡ ruộng ra
Nhưng cũng có bài vè ngược lại như:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè
Tháng tư đong đậu nấu chè
Đoan ngọ trở về ăn tết tháng năm
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân
Tháng tám chơi đèn kéo quân
Tháng chín chong lưng buôn hồng
Tháng mười buôn bấc bán bông
Tháng một, tháng chạp lại về ăn tết giáp năm
Nhận xét về người phụ nữ :
Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con
Những người béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp, đánh con suốt ngày
Hay phê phán về sự khen chê của người đời như:
Ở sao cho vùa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê
Cao chể ngỏng, thấp chê lùn
Béo chê béo trục, béo tròn
Gầy chê xương sống, xường sườn nhô ra
hoặc chế điễu những người làm những chuyện ngớ ngẩn như :
Con kiến mày ở trong nhà
Tao đóng cửa lại mày ra đàng nào
Con cá mày ở dưới ao
Tao tát nước vào mày lội đàng nao
Hay những câu tục ngữ ca dao nói về những người làm những chuyện ngớ ngẩn, hay những chuyện khó có thể xảy ra, ví dụ như:
Mò kim đáy biển
Nhè sư mượn lược
Lo bò trắng răng
Chạy về mua thuốc nhuộm răng cho bò
Con kiến mà kiện củ khoai
Mày chê tao khó lấy ai cho giầu
Nhà tao chin đụn mười trâu
Lại thêm ao cá bắc cầu rửa chân
Cầu này cầu ái cầu ân
Một trăm con gái rửa chân cầu này
Tục ngữ, ca dao diễn tả rất nhiều điều trong cuộc sống quanh ta, từ Nụ Cười, Hạnh Phúc, Niềm Vui đến những Khổ Đau gặp phải trong đời, và nhất là trong Tình Yêu thì tưởng chừng như vô tận, không có sức đâu mà nhớ nổi . . . Bài cũng khá dài, nếu các bạn vẫn còn muốn biết thêm thì tôi sẽ viết tiếp vào những bài sau, đặc biệt là những câu ca dao nói về tình yêu, cũng như những câu “Ca Dao Biến Thể ” của Ca Dao
Phạm Thiên Thu
Thêm bình luậnTên (bắt buộc cung cấp)
Tiêu đề
Gửi Cancel JCommentsTừ khóa » Kho Tàng Tục Ngữ Ca Dao Việt Nam
-
Tổng Hợp Ca Dao Tục Ngữ Dân Gian Việt Nam Hay Nhất
-
Tổng Hợp Kho Tàng Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam Hay Nhất - C10MT
-
Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam ❤️️ Sưu Tầm Kho 100 Câu Hay
-
Tổng Hợp Các Câu Ca Dao - Tục Ngữ Việt Nam đầy đủ Nhất
-
Trong Kho Tàng Tục Ngữ, Ca Dao Việt Nam Có Nhiều Câu ... - Khóa Học
-
Kho Tàng Tục Ngữ Việt Nam Rất Phong Phú O Dó Có Nhiều Bai Hoc Quy ...
-
Tuyển Tập Các Câu Ca Dao, Tục Ngữ, Thành Ngữ Việt Nam Hay Nhất
-
775 Câu Thành Ngữ, Tục Ngữ Việt Nam Quý Giá Dạy Bạn điều ... - VOH
-
Kho Tàng Tục Ngữ, Ca Dao đã Ghi Lại Nhiều Truyền Thống Quý Báu Củ
-
Kho Tàng Tục Ngữ Việt Nam Tập 2_part1 - 123doc
-
Trong Kho Tàng Tục Ngữ, Ca Dao Việt Nam Có Nhiều Câu Như Lời Chào ...
-
Kho Tàng Ca Dao Tục Ngữ - YouTube
-
Kho Tàng Triết Lý Từ Tục Ngữ, Ca Dao Việt Nam
-
[Infographic] Cùng Tìm Hiểu Về Kho Tàng Ca Dao - Tục Ngữ Việt Nam