Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á – Wikipedia Tiếng Việt

Bích chương tuyên truyền cho mối quan hệ hài hòa của người Mãn Châu, Nhật Bản và Trung Quốc. Bích chương viết: “Nhật Hoa Mãn hiệp trợ thiên hạ thái bình” (日華滿協助天下太平).

Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á (大東亞共榮圈 (Đại Đông Á cộng vinh khuyên), Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á?) hay Trật tự Đông Á mới (東亞新秩序 (Đông Á tân trật tự), Trật tự Đông Á mới?) là một khẩu hiệu được chính phủ và quân đội Đế quốc Nhật Bản đề xướng trong thời kỳ Showā nhằm thể hiện khát vọng tạo ra một "khối các quốc gia châu Á do Nhật Bản lãnh đạo và không phụ thuộc vào sức mạnh của phương Tây".[1] Khẩu hiệu này được Thủ tướng Fumimaro Konoe, trong nỗ lực nhằm tạo ra một "khối Đại Đông Á", bao gồm Nhật Bản, Mãn Châu Quốc, Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á với mục tiêu (theo bộ máy tuyên truyền của Nhật Bản) là thiết lập một trật tự thế giới mới nhằm tìm kiếm sự "thịnh vượng chung" cho các quốc gia châu Á, cùng chia sẻ sự thịnh vượng và hòa bình, hoàn toàn không lệ thuộc vào chủ nghĩa thực dân và thống trị của phương Tây.[2]

Tuy nhiên, nó cũng chỉ là một trong những khẩu hiệu và khái niệm được dùng để biện hộ cho sự xâm lược của Nhật Bản tại Đông Á từ thập niên 1930 cho đến hết Chiến tranh thế giới thứ hai và thuật ngữ "Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á" ngày nay chủ yếu được xem là bức bình phong cho sự quản lý của người Nhật tại các quốc gia chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới II, trong đó chính quyền bù nhìn phải vận động người dân và nền kinh tế trong nước phục vụ cho lợi ích của Đế quốc Nhật Bản.

Ý nghĩa tiêu cực tại nhiều người khi nhắc đến cụm từ "Đại Đông Á" (大東亞, "Đại Đông Á"?) vẫn là một trong những khó khăn tại Hội nghị Đông Á hằng năm, bắt đầu từ năm 2005, để bàn thảo về khả năng thiết lập một Cộng đồng Đông Á mạnh mẽ và đoàn kết hơn.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Các nước thành viên của Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á.

Ý tưởng về một nước Nhật thượng đẳng so với các dân tộc châu Á khác đã được nhen nhóm vào khoảng đầu thế kỉ 19 và dần định hình đến cuối cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Học giả Nhật Bản nổi tiếng Fukuzawa Yukichi trong tác phẩm "Vai trò nước Nhật ở châu Á" công bố vào năm 1882 ủng hộ mạnh mẽ cách nhìn về một Đế quốc Nhật Bản và vai trò hiển nhiên là một lãnh đạo của toàn châu Á. Vào đầu thế kỉ 20, một vài học giả dân tộc cực đoan trong đó điển hình là Kita Ikki đã thu hút được nhiều sự chú ý của độc giả khi lần nữa đưa ra nhận định về sứ mệnh của nước Nhật với vai trò đưa châu Á thoát khỏi ách đô hộ của đế quốc thực dân phương Tây, thậm chí bằng khả năng chiến tranh nếu cần. Vào năm 1905, Đế quốc Nhật Bản đánh thắng Đế quốc Nga trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), chính thức lưu danh vào lịch sử là nước châu Á đầu tiên đánh bại một đế quốc phương Tây, góp phần định hướng cho một vai trò lớn hơn của nước Nhật sau này.

Kinh tế mở một bước ngoặt quan trọng trong quyết định đưa ra các tuyên bố trong thuyết Đại Đông Á lần đầu tiên năm 1940. Nhật Bản có nhu cầu rất lớn về các nguyên liệu thô như dầu ở Đông Ấn hay cao su của Đông Dương nhằm duy trì sản xuất và nhu cầu quân đội đang đồn trú ở Trung Quốc. Động thái nghiêm cấm chuyên chở dầu, nguyên liệu thô và sắt thép đến Nhật Bản của Hoa Kỳ và các quốc gia phương Tây đã thúc đẩy Nhật tìm các nguồn cung thay thế ở các quốc gia châu Á, như vậy bằng cách vận động các quốc gia tham gia vào Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á, Nhật có thể duy trì việc sản xuất hàng hóa cho các thị trường xuất khẩu và nhu cầu của một quốc gia đông dân cư.

Ngoài các nguyên nhân trên, tham vọng về một vị trí chính trị quốc tế cũng đã góp phần đưa đến sự ra đời của Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á. Từ cuối thể kỉ 19, các nhà hoạch định chính sách của Nhật Bản tin rằng nước Nhật cũng có quyền tương đương các nước đế quốc phương Tây trong việc mở rộng và duy trì thuộc địa của họ ở châu Á. Tin rằng việc làm đó sẽ là điều kiện cơ bản giúp nước Nhật đạt được một vị trí quan trọng hơn trên vũ đài quốc tế và được nhìn nhận như một quốc gia thượng đẳng.

Các đế quốc phương Tây sau đó phản đối các động thái này của Nhật bằng hàng loạt các điều ước bất bình đẳng vốn dĩ gây ra bất bình với người Nhật. Trong các điều khoản được ký kết tại Hội nghị hải quân quốc tế ở Washington (1921 - 1922) buộc Nhật phải duy trì một tỉ lệ lực lượng tàu chiến là 5:3 với Hoa Kỳ và Anh Quốc. Vào năm 1924, Hoa Kỳ thông qua dự luật ngưng tiếp nhận nhập cư từ Nhật Bản.

Các chính trị gia Nhật dùng chủ thuyết này nhằm thuyết phục dân chúng ở cả Nhật và các nước châu Á khác. Họ cũng nói rằng vốn dĩ "châu Á phải dành cho người châu Á", và phải có các hành động cấp bách để giải thoát các nước châu Á thoát khỏi xiềng xích đế quốc phương Tây. Sau này các chính phủ của mỗi quốc gia bị Nhật chiếm đóng đều khẳng định trong tuyên bố thành lập như là một quốc gia độc lập khỏi thế lực phương Tây.

Học thuyết Đại Đông Á đã được người Nhật ấp ủ từ đầu thế kỉ 19. Hình:Đại Đông Á trên loại tem 10 sen (1sen=1/100yen) phát hành 1942, bị cấm vào năm 1947.

Các quốc gia bị Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng sau đó nhận ra rằng mọi thứ hoàn toàn khác với lời tuyên truyền trước kia về Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á. Chính phủ do Nhật dựng lên nhanh chóng trở thành bù nhìn và chính người Nhật là người quyết định các quyết sách. Dân cư các nước bị Nhật chiếm đóng đã phải chịu nhiều đau khổ do chính sách cai trị của người Nhật. Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á chỉ là một dạng khác của một chủ nghĩa đế quốc vốn dĩ được phương Tây áp dụng trước đó không lâu.

Thất bại của Khối thịnh vượng

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù Nhật Bản đã thành công trong việc kích thích phong trào chống phương Tây tại châu Á, khối này chưa bao giờ thực sự là một châu Á thống nhất. Tiến sĩ Ba Maw, Chủ tịch Miến Điện bị Nhật Bản chiếm đóng thời chiến tranh, nói rằng lý do xuất phát từ quân đội Nhật:

"Các nhà quân sự chỉ nhìn thấy triển vọng của nước Nhật, thậm chí tệ hơn, họ luôn cho rằng tất cả những người khác làm việc với họ đều sẽ nghĩ như vậy. Đối với họ chỉ có một cách thức duy nhất để thực hiện một điều gì đó, đó là cách thức của người Nhật; chỉ có duy nhất một mục tiêu và một quyền lợi, quyền lợi cho nước Nhật; chỉ có một số phận cho các nước Đông Á, đó là trở thành như Mãn Châu quốc hay Triều Tiên cột chặt vào Nhật Bản mãi mãi. Những trò lừa gạt về chủng tộc này...đã khiến cho bất kỳ sự thông cảm có thật nào giữa các nhà quân sự Nhật và người dân quốc gia chúng tôi đều trở nên dường như bất khả".[3]

Nói cách khác, Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á đã không hoạt động vì sự phát triển của tất cả các quốc gia Đông Á, mà chỉ là lợi ích của bản thân nước Nhật và do đó họ đã thất bại trong việc quy tụ sự ủng hộ tại những quốc gia Đông Á khác. Những phong trào của chủ nghĩa dân tộc đã xuất hiện tại những quốc gia Đông Á trong suốt thời kỳ này và những người của chủ nghĩa dân tộc, theo một chừng mực nào đó, có hợp tác với người Nhật. Tuy nhiên, Willard Elsbree, giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Ohio cho rằng chính phủ Nhật và những nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc chưa bao giờ tạo nên "sự thống nhất thực sự về quyền lợi giữa hai bên, [và] đã không có tâm trạng thất vọng tràn ngập tại châu Á khi Nhật Bản bị đánh bại".[4] Dường như sự thất bại của Nhật Bản trong việc hiểu được mục tiêu và quyền lợi của những quốc gia khác trong Khối thịnh vượng đã dẫn đến sự liên minh lỏng lẻo giữa các quốc gia với Nhật Bản, chỉ trên lý thuyết chứ không nằm ở tinh thần. Tiến sĩ Ba Maw cho rằng:

"Nếu người Nhật trung thành với khái niệm châu Á dành cho người Á Đông mà quốc gia này đã tuyên bố vào đầu cuộc chiến, thì số phận của nước Nhật có lẽ đã rất khác. Không có sự thất bại quân sự nào khi đó có thể tước đi niềm tin và lòng biết ơn của một nửa châu Á hoặc hơn thế nữa đối với họ, và điều đó sẽ tác động rất nhiều khi nước Nhật tìm cho một mình một vị thế mới, vĩ đại và vĩnh cửu trong thế giới hậu chiến, trong đó châu Á vẫn dần dần tiến về nước Nhật".[5]

Do đó, nếu Nhật Bản thực tâm tạo ra một khối thịnh vượng đại diện cho quyền lợi của toàn châu Á thay vì chỉ dùng nó như chiêu bài biện hộ xâm lược, châu Á sau chiến tranh có lẽ đã hoàn toàn khác dù cho thất bại về quân sự của nước Nhật.

Các nước thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đế quốc Nhật Bản
  • Azad Hind
  • Campuchia thuộc Nhật
  • Chính quyền Uông Tinh Vệ
  • Lào thuộc Nhật
  •  Mãn Châu quốc
  • Miến Điện
  •  Mông Cương
  •  Philippines
  • Đế quốc Việt Nam
  • Vương quốc Thái Lan
  • Vương quốc Campuchia (1945)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Greater East Asia Co-Prosperity Sphere". Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2008.
  2. ^ Iriye, 6
  3. ^ Lebra, 157
  4. ^ Lebra, 160
  5. ^ Lebra, 158

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Phúc ông tự truyện (Fukuzawa Yukichi)
  • Hội nghị Đại Đông Á
  • Dower, John. War Without Mercy: Race and Power in the Pacific War. Pantheon Books. New York: 1986.
  • Iriye, Akira. Pearl Harbor and the coming of the Pacific War: a Brief History with Documents and Essays. Boston: Bedford/St. Martin's, 1999.
  • Lebra, Joyce C. Japan's Greater East Asia Co-Prosperity Sphere trong Thế chiến thứ hai: Selected Readings and Documents. New York: Oxford University Press, 1975.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Lịch sử khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á Lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2009 tại Wayback Machine
  • Nhật Bản và Viễn Đông Lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2008 tại Wayback Machine
  • Sử liệu Thế chiến II
  • x
  • t
  • s
Đế quốc Nhật Bản
Hoàng đế
  • Minh Trị
  • Đại Chính
  • Chiêu Hòa
Chính quyền
  • Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản
  • Hiến Chương Tuyên Thệ
  • Xu mật viện
  • Hội đồng Hoàng gia
    • Quý tộc viện
    • Chúng Nghị viện
  • Thái chính quan
  • Cung nội sảnh
  • Đại Tàng Tỉnh
  • 民部省tiếng Nhật-{民部省}-
  • Ngoại giao
  • 農商務省tiếng Nhật-{農商務省 (日本)}-
  • 商工省tiếng Nhật-{商工省}-
  • 軍需省tiếng Nhật-{軍需省}-
  • 興亞院tiếng Nhật-{興亜院}-
  • Gozen Kaigi
  • Bộ Nội vụ
  • Bộ Đại Đông Á
  • Giáo dục về Hoàng gia
  • Kōdōha
  • Phong trào Vận động tinh thần Quốc gia
  • Luật Bảo tồn Hòa bình
  • Thần đạo Quốc gia
  • Tòa án Tối cao Nhật Bản
  • Hiệp hội Hỗ trợ cai trị hoàng gia
  • Tokubetsu Kōtō Keisatsu
  • 邻组制tiếng Nhật-{隣組}-
  • Tōseiha
  • Hiệp ước Tam hướng
  • Hội nghị Đại Đông Á
Quân đội
  • Đại bản doanh (Đế quốc Nhật Bản)
    • Bộ tổng tham mưu Lục quân
    • Bộ tổng tham mưu Hải quân
  • Lục quân
    • Không lực Lục quân
    • Vệ binh hoàng gia
  • Hải quân
    • Không lực Hải quân
    • Lục quân Hải quân
  • Binh Bộ Tỉnh
  • Bộ Lục quân
  • Bộ Hải quân
  • Quân lính
  • Nhân viên Đài Loan
  • Chương trình Vũ khí hạt nhân
  • Thần phong
  • Tội ác chiến tranh
  • Hội đồng Chiến tranh Tối cao
  • Tổ chức Nhật Bản
Biểu tượng
  • Quốc kỳ
  • Húc Nhật kỳ
  • Hoàng gia huy
  • Dấu triện Chính phủ
  • Quốc ấn Hoàng gia
  • Quốc ấn riêng Nhật Bản
  • "Kimigayo"
Lịch sử
  • Minh Trị Duy tân
  • Chiến tranh Boshin
  • Chiến tranh Thanh-Nhật
  • Cuộc bao vây các Quân đoàn quốc tế
  • Liên minh Anh-Nhật
  • Chiến tranh Nga-Nhật
  • Chiến tranh thế giới thứ nhất
  • Can thiệp Siberia
  • Sự cố ngày 26 tháng 2
  • Chiến tranh biên giới Xô-Nhật
  • Chiến tranh thế giới thứ nhất
    • Chiến tranh Trung–Nhật
      • Thảm sát Nam Kinh
    • Chiến tranh Thái Bình Dương
    • Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki
    • Chiến tranh Xô-Nhật
    • Nhật Bản đầu hàng
  • Chiếm đóng Nhật Bản
Lãnh thổ
  • Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á
  • Đài Loan
  • Karafuto
  • Triều Tiên
  • Quan Đông Châu
  • Mãn Châu quốc
  • Thái Lan
  • Miến Điện
  • Hồng Kông
  • Đông Ấn Hà Lan
  • Mã Lai
  • Philippines
  • Singapore
  • Đông Dương
Khác
  • Sonnō jōi
  • Fukoku kyōhei
  • Hakkō ichiu
  • Chiến tranh Đại Đông Á
  • 臣民之道tiếng Nhật-{臣民の道}-
  • 昭和现代化tiếng Nhật-{昭和モダン}-
  • Đền Yasukuni
  • Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông
  • Cố vấn chính phủ nước ngoài tại Nhật Bản thời Minh Trị
Chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản · Chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản · Thống kê tại Nhật Bản thời kỳ Chiêu HòaChủ đề nhật Bản
  • x
  • t
  • s
Quốc gia và vùng lãnh thổ bị chiếm đóng bởi Đế quốc Nhật trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai
Đế quốc Anh
  • Nhật Bản
  • Đảo Giáng Sinh
  • Hồng Kông
  • Ấn Độ: Andaman Islands
  • Mã Lai
  • Nauru
  • New Guinea
  • Nhật bản chiếm Borneo thuộc Anh
  • Sarawak, Brunei, Labuan và Bắc Borneo thuộc Anh
  • Singapore
  • Quần đảo Solomon
Cờ Quân đội Hoàng gia
Hoa Kỳ
  • Attu
  • Guam
  • Kiska
  • Philippines
  • Đảo Wake
Khác
  • Trung Quốc
    • Mông Cương
  • Pháp
    • Campuchia
    • Lào
    • Việt Nam
  • Hà Lan
    • Indonesia
  • Bồ Đào Nha
    • Đông Timor
1870–1937
  • Karafuto
  • Triều Tiên
  • Mãn Châu quốc
  • Lãnh thổ Ủy trị Nam Dương: Quần đảo Bắc Mariana
  • Đài Loan
  • x
  • t
  • s
Quốc gia và lãnh thổ nằm dưới ảnh hưởng của Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến II
     Quốc gia Miến Điện Vương quốc Campuchia Chính phủ lâm thời Trung Hoa Dân quốc Chính phủ Duy tân Trung Hoa Dân quốc  Chính phủ Đại Đạo Chính quyền tự trị Đông Hà Bắc Chính phủ lâm thời Ấn Độ Tự do Triều Tiên thuộc Nhật  Vương quốc Lào Đế quốc Mãn Châu Mông Cương Đệ nhị Cộng hòa Philippines  Đài Loan thuộc Nhật Vương quốc Thái Lan Đế quốc Việt Nam Chính quyền Uông Tinh Vệ
Cơ sở dữ liệu tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
Quốc tế
  • VIAF
Quốc gia
  • Hoa Kỳ
  • Pháp
  • BnF data
  • Cộng hòa Séc
  • Hàn Quốc
  • Israel
Khác
  • IdRef
  • Yale LUX

Từ khóa » Khối Thịnh Vượng Chung đại đông á