KHỔNG MINH MÃ TIỀN KHÓA – THÔI BỐI ĐỒ – THIÊU BÍNH CA

Đến thời điểm này, nhận thấy thời điểm của nước Trung Hoa đã ứng theo Sấm ký.

KHỔNG MINH – MÃ TIỀN KHOÁ

孔明馬前課

按孔明馬前課,乃軍中閒暇之時,作此以示後人,趨避之方,此十四課為馬前課中之別裁,每一課指一朝其興衰治亂可得言諸外,至十四課止者,兩次來復之期也,殿以未濟,以見此後又一元矣。天道循環,明者自明,昧者自昧,又烏可以坐而致哉?

八六老僧白鶴山守元誌

Án Khổng Minh Mã Tiền Khóa, nãi quân trung gian hạ chi thì, tác thử dĩ kì hậu nhân, xu tị chi phương, thử thập tứ khóa vi mã tiền khóa trung chi biệt tài, mỗi nhất khóa chỉ nhất triêu kì hưng suy trì loạn khả đắc ngôn chư ngoại, chí thập tứ khóa chỉ giả, lưỡng thứ lai phục chi kì dã, điện dĩ vị tể, dĩ kiến thử hậu hựu nhất nguyên hĩ. Thiên đạo tuần hoàn, minh giả tự minh, muội giả tự muội, hựu ô khả dĩ tọa nhi trí tai ?

Bát lục lão tăng Bạch Hạc sơn Thủ Nguyên chí.

 Muốn biết và tin tưởng vào tương lai, cần dõi tìm hiểu rõ ở quá khứ

Xác nhận và nắm vững quá khứ và hiện tại, sẽ tin tưởng vào tương lai

 Đại lược của Sư Thủ Nguyên:

Trong quân lữ khoảng thời gian nhàn rỗi, Khổng Minh gieo quẻ trước ngựa để người đời sau biết phương nào mà tới, phương nào mà tránh. Mỗi quẻ chỉ một triều đại, hưng suy trị loạn thế nào người ta có thể hiểu được ngoài lời nói.

Đại đạo tuần hoàn, người sáng suốt thì tự hiểu, kẻ ngu tối thì cứ mịt mù mê muội trong u tối, dâu có ngồi yên không làm gì mà hiểu thấu được .

Lời bàn:

Đoạn trên rất ích lợi cho người đọc, nếu suy ngẫm và hiểu thấu đáo, không riêng gì vấn đề Sấm truyền mà còn cho mọi vấn đề mọi phương diện khác, nhất là đang sống toàn cảnh trong ngoài nước Việt, các sự kiện trên thế giới ngày càng dần đi tới tình cảnh rối ren, hỗn loạn, khủng hoảng … mọi vấn đề, “Thế đồ đa hiểm trở – Dục vãng cánh hà chi : đường đời bao hiểm trở – Muốn đi nào biết đi đâu ?”, đi đâu không hiểm trở ?, muốn, muốn đi nào biết đi đâu ?, mà đi đâu thì ở đâu cũng đã và đang hoặc sẽ đầy hiểm trở !!!, nếu cứ ùa theo dòng trào lưu xu thế mà không xét kỹ, có thể tưởng rằng bỏ nơi nguy hại sẽ có hiện nay, nhưng không đến nguy hại lớn và sẽ được yên ổn về sau, để rồi lao vào nguy hại nhiều hơn hoặc rồi sẽ nguy hại lớn hơn về sau.

 第一課 ○●●●●○ 中下

無力回天 鞠躬盡瘁

陰居陽拂 八千女鬼

證曰 : 陽陰陰陰陰陽在卦為頤

解曰 : 諸葛鞠躬盡瘁而死  後蜀漢後主降於魏

Quẻ thứ nhất: Quẻ Di (Trung Hạ)

Vô lực hồi thiên

Cúc cung tận tụy

Âm cư dương phất

Bát thiên nữ quỷ

Chứng viết:  dương âm âm âm âm dương tại quái vi Di

Giải viết:  chư cát cúc cung tận tụy nhi tử, hậu Thục Hán hậu chủ hàng vu Ngụy

Dịch nghĩa:

Không có sức (để) xoay ngược lại (được) cơ trời

Còng lưng kiệt sức

Âm ở lại dương lướt qua

Tám ngàn nữ quỷ

Sư Thủ Nguyên ở núi Bạch Hạc sống vào năm Gia Tĩnh đời Minh đoán như sau:

Sau khi Khổng Minh chết, hậu chúa hàng Ngụy, bốn chữ bát 八 thiên 千 nữ  女 quỷ 鬼 hợp lại thành chữ Ngụy 魏

  1. 第二課 ○●○○●○ 中下

火上有火 光燭中土

稱名不正 江東有虎

證曰 : 陽陰陽陽陰陽在卦為離

解曰 : 司馬炎篡魏  元帝都建康屬江東

Quẻ thứ 2: Quẻ Ly (Trung Hạ)

Hỏa thượng hữu hỏa (Viêm : 炎)

Quang chúc trung thổ

Xưng danh bất chính

Giang Đông hữu hổ

Chứng viết:  dương âm dương dương âm dương tại quái vi Li

Giải viết:  Ti (Tư) Mã Viêm 炎 soán Ngụy, nguyên đế đô kiến khang chúc Giang Đông

Dịch nghĩa:

Trên lửa có lửa

Soi sáng trung thổ (vùng dất ở giữa)

Xưng danh không chính đáng

Giang Đông có cọp

Lời giải thích của sư Thủ Nguyên:

Lưỡng hỏa thành Viêm ý nói Tư Mã Viêm lên ngôi thế nhà Ngụy. Tư Mã Viêm sẽ thống nhất Trung Hoa, nhưng xưng danh không chính đáng, sau này con cháu chạy về phía Giang Đông.

  1. 第三課 ○●●●●● 下下

擾擾中原 山河無主

二三其位 羊終馬始

證曰 : 陽陰陰陰陰陰在卦為剝

解曰 : 五代始於司馬 (五代始於蕭氏 ) 終於楊氏

Quẻ thứ ba: Quẻ Bác (Hạ Hạ)

Nhiễu nhiễu Trung Nguyên

Sơn hà vô chủ

Nhị tam kì vị

Mộc chung mã thảo 草 thủy

Chứng viết:  dương âm âm âm âm âm tại quái vi bác

Giải viết:  ngũ đại thủy vu ti mã (ngũ đại thủy vu Tiêu thị ) chung vu Dương thị

Dịch nghĩa:

Trung Nguyên nhiễu loạn (rối loạn)

Sơn hà (quốc gia) không có chủ

Lại hai ba đời (ngôi vị)

Mộc cuối  mã 馬 đầu (bản khác là chữ thảo 草)

Chứng viết:  dương âm âm âm âm âm tại quái vi Bác

Giải viết:  ngũ đại thủy vu ti mã (ngũ đại thủy vu Tiêu thị), chung vu Dương thị

 Sư Thủ Nguyên giải thích rằng:

Trung Nguyên (Trung Quốc) bị rối loạn, đất nước không có chủ (chính thức). Hai ba đời là ngũ đại. Đời Ngũ Đại (Tề, Lương, Trần, Ngụy, Tùy) bắt đầu từ họ Tiêu có chữ thảo đầu, tức là Tiêu Đạo Thành và kết thúc bằng họ Dương tức là Dương Đế có chữ mộc ở bên.

  1. 第四課 ●●○●○● 中上

十八男兒 起於太原

動則得解 日月麗天

證曰 : 陰陰陽陰陽陰在卦為解

解曰 : 李唐起於太原  武曌稱周

Quẻ thứ tư: Quẻ Giải (Trung Thượng)

Thập bát nam nhi

Khởi vu Thái Nguyên

Động tắc đắc giải

Nhật nguyệt lệ thiên

Chứng viết:  âm âm dương âm dương âm tại quái vi Giải

Giải viết:  Lí Đường khởi vu Thái Nguyên, Vũ ? xưng Chu

Dịch nghĩa:

Mười tám người con trai

Dấy (khởi) lên từ Thái Nguyên

Động ắt được giải (thông)

Mặt trời mặt trăng (sáng) đẹp (ở trên) bầu trời.

 Sư Thủ Nguyên giải:

Nam nhi là chữ tử 子, thập bát tử là chữ Lý 李, chỉ Lý Uyên khởi binh từ Thái Nguyên, sau lên ngôi vua là Đường Cao Tổ, con nối ngôi là Lý Thế Dân tức Đường Thái Tông.

  1. 第五課 ○○○●●● 下中

五十年中 其數有八

小人道長 生靈荼毒

證曰 : 陽陽陽陰陰陰在卦為否

解曰 : 五代八姓  共五十三年

Quẻ thứ năm: Quẻ Bỉ (Hạ Trung)

Ngũ thập niên trung

Kì sổ hữu bát

Tiểu nhân đạo trưởng

Sinh linh đồ độc

Chứng viết:  dương dương dương âm âm âm tại quái vi Phủ (否: phủ, bĩ)

Giải viết:  ngũ đại bát tính, cộng ngũ thập tam niên

Dịch nghĩa:

Trong năm mươi năm

Số đó là tám

Tiểu nhân đạo trưởng (kẻ tầm thường mà muốn ra làm đạo lý xa dài)

Làm hại sinh linh (thần và người ắt phải căm giận cay đắng)

Sư Thủ Nguyên giải:

Sau Đường là đời Ngũ Đại trải 53 năm (Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu), có 8 họ làm vua cả thẩy (Đướng, Vương, Tiêu, Lưu, Mã, Cao, Mạnh, Lý) làm cho mọi sanh linh than thở căm giận oán ghét.

  1. 第六課 ●○○●○○ 上中

惟天生水 順天應人

剛中柔外 土乃生金

證曰 : 陰陽陽陰陽陽在卦為兌

解曰 : 趙宋黃袍加身  而立敵為金

Quẻ thứ sáu: Quẻ Đoài (Thượng Trung)

Duy thiên sinh thủy

Thuận thiên ứng nhân

Cương trung nhu ngoại

Thổ nãi sinh kim

Chứng viết:  âm dương dương âm dương dương tại quái vi Đoái

Giải viết: Triệu Tống hoàng bào gia thân, nhi lập địch vi Kim

Dịch nghĩa:

Chỉ có trời (mới) sinh (ra) nước

Thuận theo trời (thì mới) hợp lòng người

Trong cứng ngoài mềm

Đất sẽ sinh kim

Sư Thủ Nguyên giải thích:

Họ Triệu (Triệu Khuông Dẫn) lập nhà Tống, thống nhất Trung Hoa. Sau đó, Kim vào cướp phá, đó là cứng bên trong mà mềm bên ngoài (Thổ nãi sinh Kim).

  1. 第七課 ●○●○○● 中中

一 兀 復始 以剛處中

五五相傳 爾西我東

證曰 : 陰陽陰陽陽陰在卦為井

解曰 : 元代共十主  後各汗國分裂

Quẻ thứ bảy: Quẻ Tỉnh (Trung Trung)

Nhất ngột phục thủy

Dĩ cương xử trung

Ngũ ngũ tương truyền

Nhĩ tây ngã đông

Chứng viết:  âm dương âm dương dương âm tại quái vi Tỉnh

Giải viết:  Nguyên đại cộng thập chủ, hậu các hãn quốc phân liệt

Dịch nghĩa:

Một (cái, sự) cao chót vót trở lại đầu

Lấy (cái) cứng bền đặt ở chính giữa

Năm năm truyền cho nhau

Người ở bên tây ta bên đông

Sư Thủ Nguyên giải thích:

Chữ nhất 一 và chữ ngột 兀 hợp thành chữ nguyên 元 chỉ nhà Nguyên đánh lấy Trung Quốc, truyền được ngũ ngũ là 10 đời vua, về sau mỗi chúa hùng cứ một nơi hai bên Đông Tây (nội Mông và ngoại Mông).

  1. 第八課 ○○●●●○ 上上

日月麗天 其色若赤

綿綿延延 凡十六葉

證曰 : 陽陽陰陰陰陽在卦為益

解曰 : 朱即赤  日月是明  共十六主

Quẻ thứ tám: Quẻ Ích (Thượng Thượng)

Nhật nguyệt lệ thiên

Kì sắc nhược xích

Miên miên diên diên

Phàm thập lục diệp

Chứng viết:  dương dương âm âm âm dương tại quái vi Ích

Giải viết:  chu tức xích, nhật nguyệt thị minh, cộng thập lục chủ

Dịch nghĩa:

Mặt trăng mặt trời đẹp (ở trên) bầu trời

Sắc của nó màu đỏ

Kéo dài không dứt

Tính thành mười sáu lá.

Sư Thủ Nguyên dịch nghĩa:

Chữ nhật 日 chữ nguyệt 月 thành chữ minh 明 chỉ nhà Minh. sắc đỏ chỉ chữ chu 朱 là họ Chu đời nhà Minh, Minh Thái Tổ là Chu Nguyên Chương, đời nhà Minh được 16 đời.

  1. 第九課 ○●○●●● 中上

水月有主 古月為君

十傳絕統 相敬若賓

證曰 : 陽陰陽陰陰陰在卦為晉

解曰 : 水月有主是清也  古月是胡也  滿清十皇朝最後亡於宣統

Quẻ thứ chín: Quẻ Tấn (Trung Thượng)

Thủy nguyệt hữu chủ

Cổ nguyệt vi quân

Thập truyền tuyệt thống

Tương kính nhược tân

Chứng viết: dương âm dương âm âm âm tại quái vi Tấn

Giải viết: thủy nguyệt hữu chủ thị Thanh dã, cổ nguyệt thị Hồ dã, Mãn Thanh thập hoàng triêu tối hậu vong vu tuyên thống

Dịch nghĩa:

Có trăng có nước lại có chủ

Trăng xưa làm vua

Truyền được mười lần thì dứt

Xem nhau như khách

Sư Thủ Nguyên nói:

Ba chữ thuỷ 水, nguyệt 月, chủ 有 hợp lại thành chữ thanh 清 ý chỉ nhà Thanh. Hai chữ cổ 古 và nguyệt 月 hợp lại thành chữ hồ 胡 chỉ người Hồ ở phương Bắc làm vua, truyền được 10 đời thì hết.

–      Lão tăng sinh vào năm thứ 10 đời Gia Tĩnh, đến nay đã 86 tuổi, từ đây về sau không dám bàn láo nữa.

  1. 第十課 ●○●○●● 中下

豕後牛前 千人一口

五二倒置 朋來無咎

證曰 : 陰陽陰陽陰陰在卦為蹇

解曰 : 豕後牛前  辛亥也  千人一口為和  五二倒置是民也  朋者外邦也

Quẻ thứ mười: Quẻ Kiển (Trung Hạ)

Thỉ hậu ngưu tiền

Thiên nhân nhất khẩu

Ngũ nhị đảo trí

Bằng lai vô cửu

Chứng viết:  âm dương âm dương âm âm tại quái vi Kiển

Giải viết:  thỉ hậu ngưu tiền, Tân Hợi dã, thiên nhân nhất khẩu vi hòa, ngũ nhị đảo trí thị dân dã, bằng giả ngoại bang dã.

Dịch nghĩa:

Sau heo trước trâu

Ngàn người một miệng

Năm (5) hai (2) đảo lộn

Bạn đến không lỗi

Sư Thủ Nguyên không giải quẻ này. Hai ông Mã Nguyên Lương và Lê Xuân Mai lạm bàn rằng:

Sau heo trước trâu chỉ năm Tân Sửu, ký hoà ước với 11 nước, đến năm Tân Hợi xảy ra cuộc Cách mạng, xóa ngôi vua.

Chú thích: phong trào Dân chủ Cộng Hoà nổi lên từ năm Tân Sửu (Ngưu tiền 1901), ký hoà ước với 11 nước ngoài (bằng lai), đến năm Tân Hợi (Thỉ hậu 1911) xẩy ra cuộc Cách mạng lập chính phủ Nam Kinh, thiên 千 nhân 人 nhất 一 khẩu 口 là chữ hoà 和 (Cộng hoà)

  1. 第十一課 ○●○○●○ 中下

四門乍辟 (四門乍開) 突如其來

晨雞一聲 其道大衰

證曰 : 陽陰陽陽陰陽在卦為離

解曰 : 當朝之象也  四門乍辟謂為門戶開放  酉年當期時  無人再相信其道理故

Quẻ thứ mười một: Quẻ Ly (Trung Hạ)

Tứ môn sạ tích (Tứ môn sạ khai)

Đột như kì lai

Thần kê nhất thanh

Kỳ đạo đại suy

Chứng viết:  dương âm dương dương âm dương tại quái vi Li

Giải viết: đương triêu chi tượng dã, tứ môn sạ tích vị vi môn hộ khai phóng, dậu niên đương kì thì, vô nhân tái tương tín kì đạo lí cố

Tạm lược dịch: cái tượng đang (còn là) sáng sớm, (mà) bốn cửa chợt nhiên (lại) mở toang ra, gọi là cửa ngõ cửa nhà (đều bị) mở bung ra (cả), (đó là) đang là thời kỳ của năm Dậu, chẳng người (nào) tin được cái đạo (vô) lý (đến) như vậy.

Dịch nghĩa:

Bốn cửa (chợt nhiên) mở toang (ra)

Thình lình mà (xông) đến

Sớm mai gà gáy một tiếng

Đạo ấy rất (là) suy kém

  1. 第十二課 ●○○○○● 上中

拯患救難 是唯聖人

陽復而治 晦極生明

證曰 : 陰陽陽陽陽陰在卦為大過

解曰 : 當來之象也  災難當頭之極  其時聖人出現  救苦救難故

Quẻ thứ mười hai: Quẻ Đại Quá (Thượng Trung)

Chửng hoạn cứu nạn

Thị duy thánh nhân

Dương phục nhi trị

Hối cực sanh minh

Chứng viết:  âm dương dương dương dương âm tại quái vi Đại Quá

Giải viết: đương lai chi tượng dã, tai nan đương đầu chi cực, kì thì Thánh Nhân xuất hiện, cứu khổ cứu nan cố.

Tạm lược dịch: đang là cái tượng đương đầu với tai nạn đến cùng cực (giống như là bị bất ngờ cháy nhà, tai 災: tai vạ, cháy nhà), thì lại có Thánh Nhân xuất hiện, đến cứu giúp khổ nạn vậy.

Dịch nghĩa:

Cứu vớt hoạn nạn

Ấy chỉ có thánh nhân

Dương (khí trở) về (mà sẽ được) trì (sửa chữa lại)

Tối (tăm mù mịt) quá (thì sẽ lại) sinh (ra) sáng (sủa trở lại)

  1. 第十三課 ○●●○○○ 上中

賢不遺野 天下一家

無名無德 光耀中華

證曰 : 陽陰陰陽陽陽在卦為大畜

解曰 : 世界大同之象

Quẻ thứ mười ba: Đại Súc (Thượng Trung)

Hiền bất di dã

Thiên hạ nhất gia

Vô danh vô đức

Quang diệu Trung Hoa

Chứng viết:  dương âm âm dương dương dương tại quái vi Đại Súc

Giải viết:  thế giới đại đồng chi tượng

Tạm lược dịch:

(chẳng bỏ sót) Người hiền tài (nào cho dù có ở nơi đồng quê) thôn dã

Trên dưới (cùng chung) một nhà

(cho dù) Chẳng (có) danh không (có) đức.

(Thì nước) Trung Hoa (cũng được) sáng sủa

  1. 第十四課 ○●○●○● 中下

占得此課 易數乃終

前古後今 其道無窮

證曰 : 陽陰陽陰陽陰在卦為未濟

Quẻ thứ mười bốn (hết): Quẻ Vị Tế (Trung Hạ)

Chiêm đắt thử khóa

Dịch số nãi chung

Tiền cổ hậu kim

Kỳ đạo vô cùng

Chứng viết: dương âm dương âm dương âm tại quái vi Vị Tể

Tạm lược dịch:

Bói được quẻ này

Dịch số bèn hết

Trước cũ sau mới

Đạo ấy vô cùng

Chú thích: Gia Cát Khổng Minh băn khoăn về vận mệnh của nước Trung Hoa ra sao mới gieo thêm quẻ thứ 14, thì lại bị quẻ Vị Tế, có nghĩa là chưa xong, không tốt, cho nên mới tỏ ra lời có vẻ chán chường, nước Trung Hoa quẻ số 13 đã là “Vô danh vô đức” vậy trong tương lai rồi sẽ ra sao ?, lại vẫn chưa xong (Vị Tế) và cũng là quẻ cuối cùng trong 64 quẻ tức là hết rồi “Dịch số nãi chung”, số của Dịch đã hết, không còn có hy vọng nào và quẻ này không có lời giải (giải viết).

Nước Trung Hoa kể từ khi mất nước vào tay nhà Thanh (người Hồ), vào bị thống trị gần 300 năm, cho tới năm 1911 thì có cuộc Cách mạng giành lấy lại được chủ quyền, nhưng nào có được yên ổn thái bình thịnh trị ?, cho đến năm 1949 – 1950 thì cuộc Cách mạng CS đỏ do Mao Trạch Đông lãnh đạo trải qua 40 năm nội tranh và thế chiến, để rồi cả nước Trung Hoa rơi vào tay CS, người dân Trung Hoa với bao xáo trộn khốn khổ lầm than cho tới nay.

Nếu tính từ quẻ số 01 cho tới quẻ số 10, cứ mỗi quẻ là chỉ về một triều đại, thì quẻ thứ 10 là chỉ về triều đại Cộng Hoà, đó là một biến cách sâu xa hệ trọng như nước Việt Nam sau thời 1945 (từ triều đình phong kiến qua chế độ Dân chủ Cộng hòa).

Xét từ quẻ số 10 qua các quẻ 11, 12, 13 không thấy có điểm nào nói đến một triều đại khác, mà chỉ nói đến cục diện tình hình và sự kiện, từ quẻ số 10: “thiên nhân nhất khẩu” là ám chỉ thể chế Cộng hòa cho tới câu “ngũ nhị đảo chí: năm hai đảo lộn”.

Bắt đầu từ (1).Khang Hữu Vi và (2).Lương Khải Siêu khởi xướng công bố chế độ Cộng hòa, lúc đó triều đình nhà Thanh vẫn tồn tại, cho đến khi cuộc Cách mạng năm Tân Hợi do (3).Tôn Văn lãnh đạo lật đổ nhà Thanh, chế độ chính trị vẫn là danh hiệu Cộng hòa (Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng), (4).Tưởng Giới Thạch kế thừa cho tới năm Kỷ Sửu – Canh Dần 1949 -1950, thì cuộc Cách mạng CS đỏ do (5).Mao Trạch Đông lãnh đạo chiến thắng nắm quyền, có năm (ngũ5) nhân vật. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, danh nghĩa là (1).Cộng hòa nhưng theo thể chế (2).Cộng sản  (nhị2), từ khi chế độ CS lên nắm quyền tại Trung Hoa thì mọi tư tưởng, nếp sống, tâm lý, xã hội … đều thay đổi đảo lộn hoàn toàn đảo chí, cho tới ngày nay thì danh gọi là Cộng sản nhưng nghĩa là Tư bản thì cũng vẫn là đảo chí.

 

THÔI BỐI ĐỒ (推背图)

Thôi Bối Đồ (Bức tranh sau lưng): là một kỳ thư tiên tri trong lịch sử Trung Quốc.

Theo những tương truyền kể lại, cách đây hơn 1300 năm, Đường triều Thái Tông hoàng đế (tức Lý Thế Dân) yêu cầu hai vị Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cương tiên đoán cho quốc vận đời Đường, Một người dùng thuật Thiên can ( lấy hào dương cương làm chủ), một người dùng thuật Địa chi (lấy hào âm nhu làm chủ), hai người ngồi đâu lưng vào nhau để bói toán rồi đưa ra sau lưng nên có tên gọi là Thôi bối đồ.

Một làm tranh vẽ để hình tượng sự việc sẽ ra, một dùng câu thơ để chiết giải. Nhưng Lý Thuần Phong càng tiên đoán thì càng say mê, khiến ông đã tiên đoán quốc vận của Trung Quốc đến 2000 năm sau, chỉ đến khi Viên Thiên Cương thúc đẩy vào lưng Lý Thuần Phong mà nói: “Thiên cơ không thể tiết lộ, hãy nghỉ ngơi đi.”, cũng chính là bức tranh cuối cùng thứ 60 khiến Thôi Bối Đồ nổi tiếng từ ấy.

Thôi Bối Đồ gồm tổng cộng 60 bức tranh, bức tranh đầu là lời mở đầu và bức 60 là lời kết.

 60 bức tranh đó được chia thành như sau:

  • Đời Đường: 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9
  • Ngũ Đại Thập Quốc: 10, 11, 12, 13, 14
  • Đời Tống: 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24
  • Đời Nguyên: 25, 26
  • Đời Minh: 27, 28, 29, 30, 31, 32
  • Đời Thanh: 33, 34, 35, 36
  • Dân Quốc: 37, 38, 39 ( thời kỳ Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Mao trạch Đông)
  • Dân Quốc 38 năm sau: từ 40 đến 59 (sau thời Mao cho tới nay và thời gian sắp tới, rất quan trọng có dịch nghĩa từ đồ hình)

Thôi Bối Đồ chia làm hai phần tiên đoán, đó là hình và chữ. Nếu chỉ nhìn hình không thì không thể nào hiểu thấu được thiên cơ trong đó mà phải có chữ đi kèm mới giải ra được chính xác hơn. Và vì sự tiên đoán quá chính xác của Thôi Bối Đồ khiến nó bị liệt vào hàng sách cấm.

Cũng theo một số ghi chép cho biết thì Thôi Bối Đồ xuất hiện khá nhiều dị bản. Tuy vậy hiện nay tại Viện bảo tàng Cố Cung Đài Bắc có lưu giữ lại một bản Thôi Bối Đồ do năm xưa vua Càn Long mời Kim Thánh Thán* đến bình giải. Và thời Kim Thánh Thán còn sống thì sự việc đã ứng đúng với bức tranh thứ 33. Và cũng vào đời vua Càn Long, khi ấy liên quan Anh Pháp tấn công Bắc Kinh đã lấy được cuốn Thôi Bội Đồ buộc Lý Tín Khanh phải dùng 12 viên minh châu để chuộc lại.

Theo như một số chuyên gia cho rằng thì từ bức thứ 39 đến 47 là những tiên đoán về quốc vận Trung Quốc trong thế kỷ 20 đến nửa đầu thế kỷ 21; còn từ bức thứ 48 đến 59 là chưa xảy ra.

* Kim Thánh Thán (Phồn thể: 金聖歎; Giản thể: 金圣叹; bính âm: Jīn Shèngtàn; Wade-Giles: Chin Shêng-t’an, sinh 1608-1610? – mất 17 tháng 8 năm 1661), tên thật Kim Vị (金喟), là một nhà văn, nhà phê bình văn học theo lối ấn tượng của Trung Quốc, được người đời sau mệnh danh là “Vua của thể loại văn bạch thoại Trung Quốc”[1]. Ông nổi tiếng là 1 người đọc rộng, uyên bác nhưng tính tình cuồng ngạo, dị kỳ, thường nói trong thiên hạ có 6 bộ sách tài tử (lục tài tử thư): Nam Hoa kinh, Ly Tao, Sử ký Tư Mã Thiên, thơ luật của Đỗ Phủ, Thủy hử và Tây sương ký.

Năm sinh của Kim Thánh Thán chưa được xác định, có người nói năm 1608, có người nói 1610, [2], chỉ biết vào khoảng cuối thời Minh, đầu thời Thanh, mất vào năm Thuận trị thứ 18 đời Thanh thế tổ (1661). Ông có tên khai sinh là Trương Thái, lớn lên mới đổi sang họ Kim. Ông là người Trường Châu, tỉnh Giang tô.

Thời thanh niên, ông bị hỏng trong kỳ thi tuế, lại đỗ đầu kỳ thi khoa sau khi đổi tên thành Nhân Thụy(人瑞). Nhưng lúc này nhà Minh đã mất, ông dứt bỏ ý định làm quan.

Kim Thánh Thán mất trong 1 trường hợp bi đát, bất ngờ:

Năm 1661, vua Thanh ra chiếu đến Giang tô, lệnh các quan từ chức tuần phủ trở xuống đều phải tới phủ trị. Nhân dịp này các học sinh đến tố cáo việc làm phi pháp của viên lệnh huyện họ Ngô. Tuần phủ Châu Quốc Trị bắt liền 5 học sinh. Hôm sau các học sinh lại đến quốc tử giám kêu khóc, bị bắt thêm 30 người, trong đó có Kim Thánh Thán. Nhân lúc vùng Giang Nam đang có giặc cướp, các học sinh trên liền bị khép vào tội phụ hội với giặc, kết án tử hình, tịch biên gia sản.

Trước khi thọ hình, ông than thở: “Chém đầu thì đau đớn lắm, tịch biên thì thê thảm lắm, thế mà ngờ đâu Thánh Thán lại gặp cảnh này, kỳ lạ lắm thay !”. Rồi cười mà chịu chết.

Trương truyền ông có nhờ ngục tốt đem thư về cho vợ con trước khi bị xử. Ngục tốt trình lên quan. Ngờ trong thư có lời phỉ báng, quan mở ra xem thì bật cười vì thấy mấy dòng: “Gửi con: dưa muối mà ăn với đậu vàng thì có vị như là hồ đào, nếu phép này mà được lưu truyền thì ta chẳng còn hận chi nữa”.

推背

推背图,传闻是一千三百多年前,由唐朝太宗皇帝(李世民)命两位 当时著名的天相家李淳风和袁天罡所作,以推算大唐国运。由于李淳风推算的上了瘾, 一发不可收,竟推算到唐以后中国2000多年的命运,直到袁天罡推他的背,说道:”天机不可再泻, 还是回去休息吧!”,既是第60像所述,所以推背图因此得名。由唐开始一直预言到未来 世界大同,当中共包括六十象,六十,代表著循环周而复始的意思。

推背图因为它预言的准确,使历朝历代的统治者心惊,一直被列为禁书,直到今日它在大陆依然没能逃脱禁书的黑名单。我们只有在港台的一些网站得以一览它的玄 妙。而今天我们从网上看到的推背图,是清乾隆年间的举人金圣叹评批的版本,原本现仍保存于台北故宫博物院中,与我们看到的没有出入。(怀疑者可去台北故 宫)

与西方大名鼎鼎的预言家诺察丹玛斯所著的《诸世纪》不同的是,推背图并没有打乱历史的顺序,而且预言 的也都是有关国家兴亡的大事,所以更有研究价值,其准确性也更高。而最令人感到欣慰的是,它与《诸世纪》预言的悲观世界正好相反,他预言世界大同,天下一 家的其乐融融的未来世界,令人鼓舞。

推背图的预言,主要是对中国於治乱兴替之间的重要关键事件作出的。我们发现由於历史漫长,其中发生 过的重要事件无数,而推背图又仅以六十的象来包容,必然会发生一些我们认为很重要的事件而推背图里没有预言的。但其实我们的未来还是未知之数,现在认为重 要的事,说不定在未来有其他更重大的事件。所以在解释上,不能拘泥於一时的政治事件,要理解这六十象纯粹是作者两人,认为对中国最具有「生死存亡」,有深 远意义的「超头等大事」,否则肯定会解读错误。

推背图共六十象,除去第一像引言和最后一象结言并非预言外,共有58像预言,从大唐气数(第2像) 一直预言到世界大同(第59像),且每像相接,决无次序错乱。其中,在金圣叹老先生在世的时候已应验到第33像。一般认为由第三十九至四十七象,是代表由 二十世纪中叶至廿一世纪上半叶的中国预言,而且由三十九至四十二象都已经发生。

解说 :

於一九九九年八月 修订於二零零二年七月

推背全六十象

  • Đời Đường: 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9
01 第一象 甲子 乾下乾上 乾

谶曰:茫茫天地 不知所止

日月循环 周而复始

颂曰:自从盘古迄希夷 虎斗龙争事正奇

悟得循环真谛在 试於唐後论元机

金圣叹:此象古今治乱相因,如日月往来,阴阳递嬗,即孔子百世可知之意,红者为日,白者为月,有日月而後昼夜成,有昼夜而後寒暑判,有寒暑而後历数定,有历数而後系统分,有系统而後兴亡见

Đệ nhất tượng: Giáp Tý Kiền hạ Kiền thượng Kiền

Sấm viết: mang mang thiên địa, bất tri sở chỉ, nhật nguyệt tuần hoàn, chu nhi phục thủy Tụng viết: tự tòng bàn cổ hất hi di, hổ đấu long tranh sự chánh kì, ngộ đắc tuần hoàn chân đế tại, thí vu đường hậu luận nguyên ky.

Kim Thánh Thán: thử tượng cổ kim trì loạn tương nhân, như Nhật Nguyệt vãng lai, Âm Dương đệ thiện, tức Khổng Tử bách thế khả tri chi ý, hồng giả vi nhật, bạch giả vi nguyệt, hữu Nhật Nguyệt nhi hậu trú dạ thành, hữu trú dạ nhi hậu hàn thử phán, hữu hàn thử nhi hậu lịch sổ định, hữu lịch sổ nhi hậu hệ thống phân, hữu hệ thống nhi hậu hưng vong kiến

02 第二象 乙丑 巽下乾上

谶曰: 硕果 莫明其数

一果一仁 即新即故

颂曰: 万物土中生 二九先成实

一统定中原 阴盛阳先竭

金圣叹:一盘果子即李实也,其数二十一,自唐高祖至昭宣凡二十一主。二九者指唐祚二百八十九年。阴盛者指武当国,淫昏乱政,几危唐代。厥後开元之治虽是媲美贞观,而贵妃召祸,乘舆播迁,女宠代兴,夏娣继之,亦未始非阴盛之象

Đệ nhị tượng: ất Sửu Tốn hạ Kiền thượng Cấu

Sấm viết: thạc quả, mạc minh kì sổ, nhất quả nhất nhân, tức tân tức cố

Tụng viết: vạn vật thổ trung sanh, nhị cửu tiên thành thật, nhất thống định Trung nguyên, Âm thịnh Dương tiên kiệt

Kim Thánh Thán: nhất bàn quả tử tức lí thật dã, kì sổ nhị thập nhất, tự Đường Cao Tổ chí chiêu tuyên phàm nhị thập nhất chủ, nhị cửu giả chỉ đường tộ nhị bách bát thập cửu niên, âm thịnh giả chỉ vũ đương quốc, dâm hôn loạn chánh, kỉ nguy đường đại, quyết hậu khai nguyên chi trì tuy thị bễ mĩ trinh quan, nhi quý phi triệu họa, thừa dư bá thiên, nữ sủng đại hưng, hạ ? kế chi, diệc vị thủy phi âm thịnh chi tượng

03 第三象 丙寅 艮下乾上

谶曰:日月当空 照临下土

扑朔迷离 不文亦武

颂曰:参遍空王色相空 一朝重入帝王宫

遗枝拨尽根犹在 喔喔晨鸡孰是雄

金圣叹:此象主武当国,废中宗於房州,杀唐宗室殆尽。先武氏削发为尼,故有参遍空王之句。高宗废后王氏而立之,故有喔喔晨鸡孰是雄之兆

Đệ tam tượng: Bính Dần Cấn hạ Kiền thượng Độn

Sấm viết: Nhật Nguyệt đương không, chiếu lâm hạ thổ, phác sóc mê li, bất văn diệc vũ Tụng viết: tham biến không vương sắc tương không, nhất triêu trọng nhập đế vương cung, di chi bát tẫn căn do tại, ác ác thần kê thục thị hùng

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ vũ đương quốc, phế trung tông vu phòng châu, sát Đường Tông thất đãi tẫn, tiên vũ thị tước phát vi ni, cố hữu tham biến không vương chi cú, Cao Tông phế Hậu Vương thị nhi lập chi, cố hữu ác ác thần kê thục thị hùng chi triệu

04 第四象 丁卯 坤下乾上 否

谶曰:飞者不飞 走者不走

振羽高冈 乃克有後

颂曰: 威行青女实权奇 极目萧条十八枝

赖有猴儿 著力 已倾大树仗扶持

金圣叹:此象主狄仁杰荐张柬之等五人反周为唐。武后尝梦鹦鹉两翼俱折,

狄仁杰曰:武者陛下之姓也,起二子则两翼折矣。五猴指张柬之等五人

Đệ tứ tượng: Đinh Mão Khôn hạ Kiền thượng Phủ (Bĩ)

Sấm viết: phi giả bất phi, tẩu giả bất tẩu, chấn vũ cao cương, nãi khắc hữu hậu

Tụng viết: uy hành thanh nữ thật quyền kì, cực mục tiêu điều thập bát chi, lại hữu hầu nhân, trứ lực, dĩ khuynh đại thụ trượng phù trì

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ địch nhân kiệt tiến trương giản chi đẳng ngũ nhân phản chu vi Đường, Vũ Hậu thường mộng anh vũ lưỡng dực câu chiết, địch nhân kiệt viết: vũ giả bệ hạ chi tính dã, khởi nhị tử tắc lưỡng dực chiết hĩ, Ngũ Hầu chỉ Trương Giản chi đẳng ngũ nhân

05 第五象 戊辰 坤下巽上

谶曰: 杨花飞 蜀道难

截断竹箫方见日 更无一史乃平安

颂曰: 渔阳鼙鼓过潼关 此日君王幸剑山

木易若逢山下鬼 定於此处葬金环

金圣叹:一马鞍指安禄山,一史书指史思明。一妇人死卧地上,乃贵妃死於马嵬坡, 截断竹萧者肃宗即位,而安史之乱平

Đệ ngũ tượng: Mậu Thần Khôn hạ Tốn thượng Quan

Sấm viết: dương hoa phi, thục đạo nan, tiệt đoạn trúc tiêu phương kiến nhật, canh vô nhất sử nãi bình an

Tụng viết: ngư dương bề cổ quá Đồng Quan, thử nhật Quân vương hạnh kiếm sơn    mộc dịch nhược phùng sơn hạ quỷ, định vu thử xử táng kim hoàn

Kim Thánh Thán: nhất mã an chỉ An Lộc Sơn, nhất sử thư chỉ sử tư minh, nhất phụ nhân tử ngọa địa thượng, nãi Quý phi tử vu mã ngôi pha, tiệt đoạn trúc tiêu giả Túc Tông tức vị, nhi an sử chi loạn bình

06 第六象 已巳 坤下艮上 剥

谶曰: 非都是都 非皇是皇

阴霾既去 日月复光

颂曰: 大帜巍巍树两京 辇舆今日又东行

乾坤再造人民乐 一二年来见太平

金圣叹:此象主明皇还西京,至德二载九月,广平王叔,十月收复东京,安史之乱尽弭,十二月迎上皇还西京,故云再造。

Đệ lục tượng: dĩ Tị Khôn hạ Cấn thượng Bác

Sấm viết: phi đô thị đô, phi hoàng thị hoàng, âm mai kí khứ, nhật nguyệt phục quang

Tụng viết: đại xí nguy nguy thụ lưỡng kinh, liễn dư kim nhật hựu đông hành, Kiền Khôn tái tạo nhân dân nhạc, nhất nhị niên lai kiến thái bình

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Minh Hoàng hoàn Tây kinh, chí đức nhị tái cửu nguyệt, nghiễm bình vương thúc, Quách Tử Đinh thu phục Tây kinh, thập nguyệt thu phục Đông kinh, an sử chi loạn tẫn nhị, thập nhị nguyệt nghênh Thượng hoàng hoàn Tây kinh, cố vân tái tạo

07 第七象 庚午 震下乾上 无妄

谶曰: 旌节满我目 山川 我足

破关客乍来 陡令中原哭

颂曰: 蝼蚁从来足溃堤 六宫深锁梦全非

重门金鼓含兵气 小草滋生土口啼

金圣叹:此象主藩镇跋扈及吐蕃入寇中原

Đệ thất tượng: Canh Ngọ Chấn hạ Kiền thượng Vô Vọng

Sấm viết: tinh tiết mãn ngã mục, sơn xuyên, ngã túc, phá quan khách sạ lai, đẩu lệnh trung nguyên khốc

Tụng viết: lâu nghĩ tòng lai túc hội đê, lục cung thâm tỏa mộng toàn phi, trọng môn kim cổ hàm binh khí, tiểu thảo tư sanh thổ khẩu đề

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ phiên trấn bạt hỗ cập thổ phiền nhập khấu Trung nguyên

08 第八象 辛未 坤下离上 晋

谶曰: 搀枪血中土 破贼还为贼

朵朵李花飞 帝曰迁大吉

颂曰: 天子蒙尘马首东 居然三杰踞关中

孤军一驻安社稷 内外能收手臂功

金圣叹:此象主建中之乱,三人者李希烈、朱 、李怀光也。李怀光以破朱, 功,为卢杞所忌,遂反, 故曰破贼还为贼。三人先後犯阙,德宗乘舆播迁,赖李晟以孤军收复京城,而社稷重安矣

Đệ bát tượng: Tân Vị (Tỵ) Khôn hạ Li thượng Tấn

Sấm viết: sam thương huyết trung thổ, phá tặc hoàn vi tặc, đóa đóa lí hoa phi, đế viết thiên đại cát

Tụng viết: thiên tử mông trần mã thủ đông, cư nhiên tam kiệt cứ quan trung, cô quân nhất trú an xã tắc, nội ngoại năng thu thủ tí công

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ kiến trung chi loạn, tam nhân giả lí hi liệt, chu, lí hoài quang dã, lí hoài quang dĩ phá chu công, vi lô kỷ sở kị, toại phản, cố viết phá tặc hoàn vi tặc, tam nhân tiên hậu phạm khuyết, đức tông thừa dư bá thiên, lại lí thịnh dĩ cô quân thu phục kinh thành, nhi xã tắc trọng an hĩ

09 第九象 壬申 乾下离上 大有

谶曰: 非白非黑 草头人出

借得一枝 满天飞血

颂曰:

万人头上起英雄 血染河山日色红

一树李花都惨淡 可怜巢覆亦成空

金圣叹:此象主黄巢作乱,唐祚至昭宗。朱温弑之以自立,改国号梁温,为黄巢旧党,故曰覆巢亦成空

Đệ cửu tượng: Nhâm Thân Kiền hạ Li thượng Đại Hữu

Sấm viết: phi bạch phi hắc, thảo đầu nhân xuất, tá đắc nhất chi, mãn thiên phi huyết

Tụng viết: vạn nhân đầu thượng khởi anh hùng, huyết nhiễm hà sơn nhật sắc hồng, nhất thụ lí hoa đô thảm đạm, khả liên sào phúc diệc thành không

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ hoàng sào tác loạn, đường tộ chí chiêu tông, chu ôn thí chi dĩ tự lập, cải quốc hào lương ôn, vi hoàng sào cựu đảng, cố viết phúc sào diệc thành không

  • Ngũ Đại Thập Quốc: 10, 11, 12, 13, 14
10 第十象 癸酉 坎下坎上 坎

谶曰: 荡荡中原 莫御八牛

泅水不涤 有血无头

颂曰: 一后二主尽升遐 四海茫茫总一家

不但我生还杀我 回头还有李儿花

金圣叹:「此象主朱温弑何皇后、昭宣、昭宗而自立,所谓一后二主也。未几为次子友圭所弑,

是颂中第三句意。李克用之子存勖代父复仇,百战灭梁,改称後唐,是颂中第四句 意

Đệ thập tượng: Quý Dậu Khảm hạ Khảm thượng Khảm

Sấm viết: đãng đãng trung nguyên, mạc ngự bát ngưu, tù thủy bất địch, hữu huyết vô đầu

Tụng viết: nhất hậu nhị chủ tẫn thăng hà, tứ hải mang mang tổng nhất gia, bất đãn ngã sanh hoàn sát ngã, hồi đầu hoàn hữu lí nhân hoa

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ chu ôn thí Hà hoàng hậu, Chiêu Tuyên, Chiêu Tông nhi tự lập, sở vị nhất hậu nhị chủ dã, vị kỉ vi thứ tử hữu khuê sở thí, thị tụng trung đệ tam cú ý, lí khắc dụng chi tử tồn úc đại phụ phục cừu, bách chiến diệt lương, cải xưng Hậu Đường, thị tụng trung đệ tứ cú ý

11 第十一象 申戍 下坎上

谶曰: 五人同卜 非禄非福

兼而言之 喜怒哀乐

颂曰: 龙蛇相斗三十年 一日同光直上天

上得天堂好游戏 东兵百万入秦川

金圣叹:此象主伶人郭从谦作乱,唐主为流矢所中

Đệ thập nhất tượng: Thân thú Đoái hạ Khảm thượng Tiết

Sấm viết: ngũ nhân đồng bặc, phi lộc phi phúc, kiêm nhi ngôn chi, hỉ nộ ai nhạc

Tụng viết: long xà tương đấu tam thập niên, nhất nhật đồng quang trực thượng thiên    thượng đắc thiên đường hảo du hí, đông binh bách vạn nhập tần xuyên

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ linh nhân quách tòng khiêm tác loạn, đường chủ vi lưu thỉ sở trung

12 第十二象 乙亥 震下坎上 屯

谶曰: 块然一石 谓他人父

统二八州 已非唐土

颂曰: 反兆先多口 出入皆无主

系铃自解铃 父亡子亦死

金圣叹:「此象主石敬塘求救于契丹。唐主遣张敬达讨石敬塘,敬塘不得已,求救于契丹,事之以父礼

贿以幽蓟十六州。晋帝之立国契丹功也,然卒以契丹亡,故有系铃解铃之兆

Đệ thập nhị tượng: ất Hợi Chấn hạ Khảm thượng Truân

Sấm viết: khối nhiên nhất thạch, vị tha nhân phụ, thống nhị bát châu, dĩ phi đường thổ Tụng viết: phản triệu tiên đa khẩu, xuất nhập giai vô chủ, hệ linh tự giải linh, phụ vong tử diệc tử

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Thạch Kính Đường cầu cứu Vu Khế Đan, Đường chủ khiển Trương Kính đạt thảo Thạch Kính Đường, Kính Đường bất đắc dĩ, cầu cứu Vu Khế Đan, sự chi dĩ phụ lễ, hối dĩ u kế thập lục châu, Tấn đế chi lập quốc Khế Đan công dã, nhiên tốt dĩ Khế Đan vong, cố hữu hệ linh giải linh chi triệu

13 第十三象 丙子 离下坎上 既

谶曰: 汉水竭 雀高飞

飞来飞去何所止 高山不及城郭低

颂曰: 百个雀儿水上飞 九十九个过山西

惟有一个踏破足 高栖独自理毛衣

金圣叹:此象主周主郭威夺汉自立。郭威少贱,世称之曰郭雀儿

Đệ thập tam tượng: Bính Tử (Tý) Li hạ Khảm thượng Kí Tể

Sấm viết: hán thủy kiệt, tước cao phi, phi lai phi khứ hà sở chỉ, cao sơn bất cập thành quách đê

Tụng viết: bách cá tước nhân thủy thượng phi, cửu thập cửu cá quá sơn tây, duy hữu nhất cá đạp phá túc, cao tê độc tự lí mao y

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Chu chủ Quách uy đoạt Hán Tự Lập, Quách uy thiểu tiện, thế xưng chi viết Quách tước nhân

14 第十四象 丁丑 离下上 革

谶曰: 李树得根芽 石榴漫放花

枯木逢春只一瞬 让他天下竞荣华

颂曰: 金木水火土已终 十三童子五王公

英明重见太平日 五十三参运不通

金圣叹:此象主周世宗承郭威受命为五代之终,世宗姓柴名荣,英明武断,勤於为治,惜功业未竟而殂。五代共五十三年,凡八姓十三主,颂意显然

Đệ thập tứ tượng: Đinh Sửu Li hạ Đoái thượng Cách

Sấm viết: lí thụ đắc căn nha, thạch lưu mạn phóng hoa, khô mộc phùng xuân chích nhất thuấn, nhượng tha thiên hạ cạnh vinh hoa

Tụng viết: kim mộc thủy hỏa thổ dĩ chung, thập tam đồng tử ngũ vương công, anh minh trọng kiến thái bình nhật, ngũ thập tam tham vận bất thông

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Chu Thế Tông thừa Quách uy thụ mệnh vi ngũ đại chi chung, Thế Tông tính sài danh vinh, anh minh vũ đoạn, cần vu vi trì, tích công nghiệp vị cánh nhi tồ, ngũ đại cộng ngũ thập tam niên, phàm bát tính thập tam chủ, tụng ý hiển nhiên

  • Đời Tống: 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24
15 第十五象 戊寅 离下震上 丰

谶曰: 天有日月 地有山川

海内纷纷 父後子前

颂曰: 战事中原迄未休 几人高枕卧金戈

寰中自有真天子 扫尽群妖见日头

金圣叹:此象主五代末造,割据者星罗棋布,惟吴越钱氏〈钱,四世〉稍图治安.南唐李氏〈李升三世〉略知文物,馀悉淫乱昏虐。大祖崛起,拯民水火。太 小名香孩儿,手执帚著,扫除群雄也

Đệ thập ngũ tượng: Mậu Dần Li hạ Chấn thượng Phong

Sấm viết: thiên hữu nhật nguyệt, địa hữu sơn xuyên, hải nội phân phân, phụ hậu tử tiền

Tụng viết: chiến sự trung nguyên hất vị hưu, kỉ nhân cao chẩm ngọa kim qua, hoàn trung tự hữu chân thiên tử,tảo tẫn quần yêu kiến nhật đầu

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ ngũ đại mạt tạo, cát cư giả tinh la kì bố, duy Ngô Việt tiễn thị, (tiễn, tứ thế) sảo đồ trì an, nam đường lí thị, (lí thăng tam thế) lược tri văn vật, dư tất dâm loạn hôn, đại tổ quật khởi, chửng dân thủy hỏa, thái, tiểu danh hương hài nhân, thủ chấp trửu trứ, tảo trừ quần hùng dã

16 第十六象 已卯 离下坤上 明夷

谶曰: 天一生水 姿禀圣武

顺天应人 无今无古

颂曰: 纳土姓钱并姓李 其馀相次朝天子

天将一统付真人 不杀人民更全嗣

金圣叹:「此象主宋太 受禅汴都,天下大定,钱李二氏相率归化,此一治也

Đệ thập lục tượng: dĩ Mão Li hạ Khôn thượng Minh Di

Sấm viết: thiên nhất sanh thủy, tư bẩm thánh vũ, thuận thiên ứng nhân, vô kim vô cổ

Tụng viết: nạp thổ tính tiễn tịnh tính lí, kì dư tương thứ triêu thiên tử, thiên tương nhất thống phó chân nhân, bất sát nhân dân canh toàn tự

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ tống thái, thụ thiện biện đô, thiên hạ đại định, tiễn lí nhị thị tương suất quy hóa, thử nhất trì dã

17 第十七象 庚辰 坎下坤上

谶曰: 声赫赫 干戈息

扫边氛 奠邦邑

颂曰: 天子亲征乍渡河 欢声百 起讴歌

运筹幸有完全女 奏得奇功在议和

金圣叹:此象主宋真宗澶渊之役。景德元年,契丹大举入寇,寇准劝帝亲征,

乃幸澶渊。既渡河,远近望见卸盖皆踊跃呼万岁,声闻数十里,契丹夺气,遂议和

Đệ thập thất tượng: Canh Thần Khảm hạ Khôn thượng Sư

Sấm viết: thanh hách hách, kiền qua tức, tảo biên phân, điện bang ấp

Tụng viết: thiên tử thân chinh sạ độ hà, hoan thanh bách, khởi âu ca, vận trù hạnh hữu hoàn toàn nữ, tấu đắc kì công tại nghị hòa

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Tống Chân Tông thiền uyên chi dịch, Cảnh Đức nguyên niên, khế đan đại cử nhập khấu, khấu chuẩn khuyến đế thân chinh, nãi hạnh thiền uyên, kí độ hà, viễn cận vọng kiến tá cái giai dũng dược hô vạn tuế, thanh văn sổ thập lí, khế đan đoạt khí, toại nghị hòa

18 第十八象 辛巳 艮下艮上 艮

谶曰: 天下之母 金刀伏兔

三八之年 治安巩固

颂曰: 水旱频仍不是灾 力扶幼主坐灵台

朝中又见钗光照 宇内承平气象开

金圣叹:此象主仁宗嗣立,刘太后垂帘听政。旁有一犬,其惟狄青乎

Đệ thập bát tượng: Tân Tị Cấn hạ Cấn thượng Cấn

Sấm viết: thiên hạ chi mẫu, kim đao phục thỏ, tam bát chi niên, trì an củng cố

Tụng viết: thủy hạn tần nhưng bất thị tai, lực phù ấu chủ tọa linh thai, triêu trung hựu kiến sai quang chiếu, vũ nội thừa bình khí tượng khai

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Nhân Tông tự lập, lưu thái hậu thùy liêm thính chánh, bàng hữu nhất khuyển, kì duy địch thanh hồ

19 第十九象 壬午 离下艮上

谶曰: 众人   尽入其室

百万雄师 头上一石

颂曰: 朝用奇谋夕丧师 人民西北尽流离

陬华虽好春光老 悔不深居坐殿墀

金圣叹:此象主神宗误用安石,引用群邪,致启边衅,用兵西北,丧帅百万。熙宁初,王陬上平戎三策,安石惊为奇谋,力荐於神宗,致肇此祸

Đệ thập cửu tượng: Nhâm Ngọ Li hạ Cấn thượng Bí

Sấm viết: chúng nhân, tẫn nhập kì thất, bách vạn hùng sư, đầu thượng nhất thạch

Tụng viết: triêu dụng kì mưu tịch tang sư, nhân dân Tây Bắc tẫn lưu li, tưu hoa tuy hảo xuân quang lão, hối bất thâm cư tọa điện trì

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Thần Tông ngộ dụng An Thạch, dẫn dụng quần tà, trí khải biên hấn, dụng binh Tây Bắc, tang suất bách vạn, hi trữ sơ, vương tưu thượng bình Nhung tam sách, An Thạch kinh vi kì mưu, lực tiến vu Thần Tông, trí triệu thử họa

20 第二十象 癸未 离下乾上 同人

谶曰: 朝无光 日月盲

莫与京 终旁皇

颂曰: 父子同心并同道 中天日月手中物

奇云翻过北海头 △阙龙廷生怛恻

金圣叹:此象主司马光卒,蔡京父子弄权,群小朋兴,贤良受锢,有日月晦盲之象

Đệ nhị thập tượng: Quý Vị (Tỵ) Li hạ Kiền thượng Đồng Nhân

Sấm viết : triêu vô quang, nhật nguyệt manh, mạc dữ kinh, chung bàng hoàng

Tụng viết: phụ tử đồng tâm tịnh đồng đạo, trung thiên Nhật Nguyệt thủ trung vật    kì vân phiên quá bắc hải đầu, khuyết long đình sanh đát trắc

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ ti Mã Quang Tốt, thái kinh phụ tử lộng quyền, quần tiểu bằng hưng, hiền lương thụ cố, hữu nhật nguyệt hối manh chi tượng

21 第二一象 甲申 下艮上

谶曰: 空厥宫中 雪深三尺

吁嗟元’首首’ 南辕北辙

颂曰: 妖氛未靖不康宁 北扫烽烟望帝京

异姓立朝终国位 卜世三六又南行

金圣叹:此象主金兵南下,徽宗禅位。靖康元年十一月,京师陷,明年四月,金以二帝及宗室妃嫔北去,立张邦昌为帝。卜世三六者,宋自太祖至徽钦,凡九世,然则南渡以後又一世矣, 西元 1126 年,靖康之变。西元 1127 年,南宋始

Đệ nhị nhất tượng: Giáp Thân Đoái hạ Cấn thượng Tổn

Sấm viết: không quyết cung trung, tuyết thâm tam xích, hu ta nguyên “thủ thủ” nam viên bắc triệt

Tụng viết: yêu phân vị tĩnh bất khang trữ, bắc tảo phong yên vọng đế kinh, dị tính lập triêu chung quốc vị, bặc thế tam lục hựu nam hành

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Kim binh Nam Hạ, Huy Tông thiện vị,Tĩnh Khang nguyên niên thập nhất nguyệt, kinh sư hãm, Minh niên tứ nguyệt, Kim dĩ nhị đế cập tông thất phi tần Bắc khứ, lập Trương Bang Xương vi đế, bặc thế tam lục giả, Tống tự Thái Tổ chí huy khâm, phàm cửu thế, nhiên tắc nam độ dĩ hậu hựu nhất thế hĩ, Tây nguyên 1126 niên, Tĩnh Khang chi biến, Tây nguyên 1127 niên, Nam Tống thủy

22 第二二象 乙酉 下离上 睽

谶曰: 天马当空 否极见泰

△△淼淼 木 大赖

颂曰: 神京王气满东南 祸水汪洋把策干

一木会支二八月 临行马色半平安

金圣叹:此象主司马光卒,蔡京父子弄权,群小朋兴,贤良受锢,有日月晦盲之象

Đệ nhị nhị tượng: Ất Dậu Đoái hạ Li thượng Khuê

Sấm viết: thiên mã đương không, phủ cực kiến thái, miểu miểu, mộc, đại lại

Tụng viết: thần kinh vương khí mãn Đông Nam, họa thủy uông dương bả sách kiền    nhất mộc hội chi nhị bát nguyệt, lâm hành mã sắc bán bình an

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ ti Mã Quang Tốt, thái kinh phụ tử lộng quyền, quần tiểu bằng hưng, hiền lương thụ cố, hữu nhật nguyệt hối manh chi tượng

23 第二三象 丙戍 下乾上 履

谶曰: 似道非道 乾沈坤黯

祥光宇内 一江断楫

颂曰: 胡儿大张挞伐威 两柱擎天力不支

如何兵火连天夜 犹自张灯作水嬉

金圣叹:此象主贾似道当权,汪立信文天祥辈不能以独力支持宋室。襄樊围急,西子湖 边似道犹张灯夜宴,宋室之亡其宜也

Đệ nhị tam tượng: Bính Thú Đoái hạ Kiền thượng Lí

Sấm viết: tự đạo phi đạo, Kiền trầm Khôn ảm, tường quang vũ nội, nhất giang đoạn tiếp

Tụng viết: hồ nhân đại trương thát phạt uy, lưỡng trụ kình thiên lực bất chi, như hà binh hỏa liên thiên dạ, do tự trương đăng tác thủy hi

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ cổ Tự Đạo đương quyền, uông lập tín văn thiên tường, bối bất năng dĩ độc lực chi trì tống thất, tương phiền vi cấp, tây tử hồ biên Tự Đạo do trương đăng dạ yến, Tống thất chi vong kì nghi dã

24 第二四象 丁亥 下巽上 中孚

谶曰: 山崖海边 不帝亦仙

二九四八 於万斯年

颂曰: 十一卜人小月终 回天无力道俱穷

干戈四起疑无路 指点洪涛巨浪中

金圣叹:此象主帝迁山,元令张弘范来攻,宋将张世杰兵溃,陆秀夫负帝赴海:宋室以亡

〈西元 1279 年,宋亡

Đệ nhị tứ tượng: Đinh Hợi Đoái hạ Tốn thượng Trung Phu

Sấm viết: sơn nhai hải biên, bất đế diệc tiên, nhị cửu tứ bát, vu vạn tư niên

Tụng viết: thập nhất bặc nhân tiểu nguyệt chung, hồi thiên vô lực đạo câu cùng    kiền qua tứ khởi nghi vô lộ, chỉ điểm hồng đào cự lãng trung

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ đế thiên sơn, nguyên lệnh Trương Hoằng phạm lai công, Tống tương trương thế kiệt binh hội, lục tú phu phụ đế phó hải: Tống thất dĩ vong, Tây nguyên 1279 niên, Tống vong

  • Đời Nguyên: 25, 26
25 第二五象 戊子 艮下巽上

谶曰: 北帝南臣 一兀自立

斡离河水 燕巢捕”麦戈”

颂曰: 鼎足争雄事本奇 一狼二鼠判须臾

北关锁钥虽牢固 子子孙孙五五宜

金圣叹:此象主元太祖称帝斡难河,太祖名铁木真,元代凡十主。斧铁也,柄木也,斧柄 十段即隐十主之意

Đệ nhị ngũ tượng: Mậu Tử (Tý) Cấn hạ Tốn thượng Tiệm

Sấm viết: Bắc đế Nam thần, nhất ngột tự lập, oát li hà thủy, yến sào bộ “mạch qua”

Tụng viết: đỉnh túc tranh hùng sự bổn kì, nhất lang nhị thử phán tu du, bắc quan tỏa thược tuy lao cố, tử tử tôn tôn ngũ ngũ nghi

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ nguyên Thái Tổ xưng đế oát nan hà, Thái Tổ danh Thiết Mộc Chân, Nguyên đại phàm thập chủ, phủ thiết dã, bính mộc dã, phủ bính thập đoạn tức ẩn thập chủ chi ý

26 第二六象 已丑 震下震上 震

谶曰: 时无夜 年无米

花不花 贼四起

颂曰: 鼎沸中原木木来 四方警报起边垓

房中自有长生术 莫怪都城澈夜开

金圣叹:此象主顺帝惑西僧房中运气之术,溺於娱乐,以致刘福通,徐寿辉,方国珍,明玉珍,

张士诚, 陈友谅等狼顾鸱张,乘机而起,宦官朴不花壅不上闻,至徐达, 遇春直入京师, 都城夜开, 毫无警备, 有元一代竟丧於淫僧之手,不亦哀哉。刘福通立韩林儿 ,故曰木木来

Đệ nhị lục tượng: dĩ Sửu Chấn hạ Chấn thượng Chấn Sấm viết: thì vô dạ, niên vô mễ    hoa bất hoa, tặc tứ khởi

Tụng viết: đỉnh phí trung nguyên mộc mộc lai, tứ phương cảnh báo khởi biên cai    phòng trung tự hữu trường sanh thuật, mạc quái đô thành triệt dạ khai

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Thuận Đế hoặc tây tăng phòng trung vận khí chi thuật, nịch vu ngu nhạc, dĩ trí lưu phúc thông, từ thọ huy, phương quốc trân,  minh ngọc trân, trương sĩ thành, trần hữu lượng đẳng lang cố si trương, thừa ky nhi khởi, hoạn quan phác bất hoa ủng bất thượng văn,  chí từ đạt,  Thường Ngộ Xuân trực nhập kinh sư, đô thành dạ khai, hào vô cảnh bị, hữu nguyên nhất đại cánh tang vu dâm tăng chi thủ, bất diệc ai tai, lưu phúc thông lập hàn lâm nhân vi đế, cố viết mộc mộc lai

  • Đời Minh: 27, 28, 29, 30, 31, 32
27 第二七象 庚寅 乾下震上 豫

谶曰: 惟日与月 下民之极

应运而兴 其色曰赤

颂曰: 枝枝叶叶现金光 晃晃朗朗照四方

江东岸上光明起 谈空说偈有真王

金圣叹:此象主明太 登极。太祖曾为皇觉寺僧,洪武一代海内熙洽,治臻大平

Đệ nhị thất tượng: Canh Dần Kiền hạ Chấn thượng Dự

Sấm viết: duy nhật dữ nguyệt, hạ dân chi cực, ứng vận nhi hưng, kì sắc viết xích

Tụng viết: chi chi diệp diệp hiện kim quang, ?? lãng lãng chiếu tứ phương, Giang Đông ngạn thượng quang minh khởi, đàm không thuyết kệ hữu chân vương

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ minh thái, đăng cực, Thái Tổ tằng vi hoàng giác tự tăng, hồng vũ nhất đại hải nội hi hiệp, trì trăn đại bình

28 第二八象 辛卯 坎下震上 解

谶曰: 草头火脚 宫阙灰飞

家中有鸟 郊外有尼

颂曰: 羽满高飞日 争妍有李花

真龙游四海 方外是吾家

金圣叹:此象主燕王起兵,李景隆迎燕兵入都,宫中大火,建文祝发出亡

Đệ nhị bát tượng: Tân Mão Khảm hạ Chấn thượng Giải

Sấm viết :thảo đầu hỏa cước, cung khuyết hôi phi, gia trung hữu điểu, giao ngoại hữu ni

Tụng viết : vũ mãn cao phi nhật, tranh nghiên hữu lí hoa, chân long du tứ hải, phương ngoại thị ngô gia

Kim Thánh Thán : thử tượng chủ yến vương khởi binh, Lí Cảnh Long nghênh yến binh nhập đô, cung trung đại hỏa, kiến văn chúc phát xuất vong 

29 第二九象 壬辰 巽下震上 恒

谶曰: 枝发厥荣 为国之栋

熙熙 康乐利众

颂曰: 一枝向北一枝东 又有南枝种亦同

宇内同歌贤母德 真有三代之遗风

金圣叹:「此象主宣宗时张太后用杨士奇、杨溥、杨荣三人,

能使天下又安,希风三代,此一治也。时人稍士奇为西杨,溥为南杨,荣为东杨。」

Đệ nhị cửu tượng : Nhâm thần Tốn hạ Chấn thượng Hằng

Sấm viết: chi phát quyết vinh, vi quốc chi đống, hi hi, khang nhạc lợi chúng

Tụng viết:nhất chi hướng bắc nhất chi đông, hựu hữu nam chi chủng diệc đồng, vũ nội đồng ca hiền mẫu đức, chân hữu tam đại chi di phong

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ tuyên tông thì trương thái hậu dụng dương sĩ kì, dương phổ, dương vinh tam nhân, năng sử thiên hạ hựu an, hi phong tam đại, thử nhất trì dã, thì nhân sảo sĩ kì vi tây dương, phổ vi nam dương, vinh vi đông dương.

30 第三十象 癸巳 巽下坤上 升

谶曰: 半圭半林 合则生变

石亦有灵 生荣死贱

颂曰: 缺一不成也占先 六龙亲御到胡边

天心复见人心顺 相克相生马不前

金圣叹:此象主张太后崩权归王振,致有乜先之患。其後上皇复辟,石亨自诩首功,率以恣横伏诛,此一乱也

Đệ tam thập tượng: Quý Tị Tốn hạ Khôn thượng Thăng

Sấm viết: bán khuê bán lâm, hợp tắc sanh biến, thạch diệc hữu linh, sanh vinh tử tiện

Tụng viết: khuyết nhất bất thành dã chiêm tiên, lục long thân ngự đáo hồ biên    thiên tâm phục kiến nhân tâm thuận, tương khắc tương sanh mã bất tiền

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ trương thái hậu băng quyền quy vương chấn, trí hữu ? tiên chi hoạn, kì hậu thượng hoàng phục tích, thạch hanh tự hủ thủ công, suất dĩ tứ hoành phục tru, thử nhất loạn dã

31 第三一象 甲午 离下巽上 家人

谶曰: 当涂遗孽 秽乱宫阙

一男一女 断送人国

颂曰: 忠臣贤士尽沉沦 天启其衷乱更纷

纵有胸怀能坦白 乾坤不属旧明君

金圣叹:「此象主天启七年间,妖气漫天,元气受伤。一男一女指魏阉与客氏而言。魏杀客氏,客氏熹宗乳母,称奉圣夫人

Đệ tam nhất tượng: Giáp Ngọ Li hạ Tốn thượng Gia Nhân

Sấm viết: đương đồ di nghiệt, uế loạn cung khuyết, nhất nam nhất nữ, đoạn tống nhân quốc

Tụng viết: trung thần hiền sĩ tẫn trầm luân, thiên khải kì trung loạn canh phân    túng hữu hung hoài năng thản bạch, kiền khôn bất chúc cựu minh quân

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ thiên khải thất niên gian, yêu khí mạn thiên, nguyên khí thụ thương, nhất nam nhất nữ chỉ ngụy yêm dữ khách thị nhi ngôn, ngụy sát khách thị, khách thị hi tông nhũ mẫu, xưng phụng thánh phu nhân

32 第三二象 乙未 巽下坎上 井

谶曰: 马跳北阙 犬敖西方

八九数尽 日月无光

颂曰: 杨花落尽李花残 五色旗分自北来

太息金陵王气尽 一枝春色占长安

金圣叹:此象主李闯、张献忠扰乱中原,崇祯投环梅山,福王偏安不久明祀遂亡。颂末句似指胡后,

大有深意

Đệ tam nhị tượng: ất Tị Tốn hạ Khảm thượng Tỉnh

Sấm viết: mã khiêu bắc khuyết, khuyển ngao tây phương, bát cửu sổ tẫn, nhật nguyệt vô quang

Tụng viết: dương hoa lạc tẫn lí hoa tàn, ngũ sắc kì phân tự bắc lai, thái tức kim lăng vương khí tẫn, nhất chi xuân sắc chiêm trường an

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ lí sấm, Trương Hiến Trung nhiễu loạn trung, Sùng Trinh đầu hoàn mai sơn, Phúc Vương thiên an bất cửu minh tự toại vong, tụng mạt cú tự chỉ hồ hậu, đại hữu thâm ý

  • Đời Thanh: 33, 34, 35, 36
33 * 第三三象 丙申 巽下上 大

谶曰:黄河水清 气顺则治

主客不分 地支无子

颂曰:天长白瀑来 胡人气不衰

藩篱多撤去 稚子半可哀

金圣叹:「此象乃满清入关之徵。反客为主殆亦气数使然,非人力所能挽回欤。辽金而後胡人两主中原,璜璜汉族对之得毋有愧。」

Đệ tam tam tượng: Bính Thân Tốn hạ Đoái thượng Đại Quá

Sấm viết: hoàng hà thủy thanh, khí thuận tắc trì, chủ khách bất phân, địa chi vô tử

Tụng viết: thiên trường bạch bộc lai, hồ nhân khí bất suy, phiên li đa triệt khứ, trĩ tử bán khả ai

Kim Thánh Thán: thử tượng nãi Mãn Thanh nhập quan chi trưng, phản khách vi chủ đãi diệc khí sổ sử nhiên, phi nhân lực sở năng vãn hồi dư, Liêu Kim nhi hậu Hồ nhân lưỡng chủ Trung nguyên, hoàng hoàng Hán tộc đối chi đắc vô hữu quý

34 第三四象 丁酉 巽下巽上 巽

谶曰: 头有发 衣怕白

太平时 王杀王

颂曰: 太平又见血花飞 五色章成 外衣

洪水滔天苗不秀 中原曾见梦全非

金圣叹:「证已往之事易,推未来之事难,然既证已往,似不得不推及将来。吾但愿自此以後,吾所谓平治者皆幸而中,吾所谓不平治者幸而不中,而吾可告无罪矣。此象疑遭水灾或兵戎与天灾共见,此一乱也

Đệ tam tứ tượng: Đinh Dậu Tốn hạ Tốn thượng Tốn

sấm viết: đầu hữu phát, y phạ bạch, thái bình thì, vương sát vương

Tụng viết: thái bình hựu kiến huyết hoa phi, ngũ sắc chương thành, ngoại y, hồng thủy thao thiên miêu bất tú, Trung nguyên tằng kiến mộng toàn phi

Kim Thánh Thán : chứng dĩ vãng chi sự dịch, thôi vị lai chi sự nan, nhiên kí chứng dĩ vãng, tự bất đắc bất thôi cập tương lai, ngô đãn nguyện tự thử dĩ hậu, ngô sở vị bình trì giả giai hạnh nhi trung, ngô sở vị bất bình trì giả hạnh nhi bất trung, nhi ngô khả cáo vô tội hĩ, thử tượng nghi tao thủy tai hoặc binh nhung dữ thiên tai cộng kiến, thử nhất loạn dã

35 第三五象 戊戍 震下上 随

谶曰: 西方有人 足踏神京

帝出不还 三台扶倾

颂曰: 黑云黯黯自西来 帝子临河筑金台

南有兵戎北有火 中兴曾见有奇才

金圣叹:「此象疑有出狩事,亦乱兆也。」(此象是描述八国联军,当日慈禧曾避祸於热河,热河乃满清之夏都,奇才所指是曾国藩

Đệ tam ngũ tượng: Mậu Tuất Chấn hạ Đoái thượng Tùy

Sấm viết:tây phương hữu nhân, túc đạp thần kinh, đế xuất bất hoàn, tam thai phù khuynh

Tụng viết: hắc vân ảm ảm tự tây lai, đế tử lâm hà trúc kim thai, nam hữu binh nhung bắc hữu hỏa, trung hưng tằng kiến hữu kì tài

Kim Thánh Thán: tượng nghi hữu xuất thú sự, diệc loạn triệu dã, thử tượng thị miêu thuật bát quốc liên quân, đương nhật từ hi tằng tị họa vu nhiệt hà, nhiệt hà nãi Mãn Thanh chi hạ đô, kì tài sở chỉ thị tằng quốc phiên

36 第三六象 己亥 乾下巽上 小畜

谶曰: 纤纤女子 赤手御敌

不分祸福 灯光蔽日

颂曰: 双拳旋转乾坤 海内无端不靖

母子不分先後 西望长安入觐

金圣叹:「此象疑一女子能定中原,建都长安。此乃指慈禧之义和团事件,而此次事後慈禧与光绪皆避祸去长安,不久,二人两日间先後去世

Đệ tam lục tượng: Kỷ Hợi Kiền hạ Tốn thượng Tiểu Súc

Sấm viết: tiêm tiêm nữ tử, xích thủ ngự địch, bất phân họa phúc, đăng quang tế nhật

Tụng viết: song quyền toàn chuyển kiền khôn, hải nội vô đoan bất tĩnh, mẫu tử bất phân tiên hậu, tây vọng Trường An nhập cận

Kim thánh thán: thử tượng nghi nhất nữ tử năng định Trung nguyên, kiến đô Trường An, (thử nãi chỉ Từ Hi chi nghĩa hòa đoàn sự kiện, nhi thử thứ sự hậu Từ Hi dữ Quang Tự giai tị họa khứ Trường An, bất cửu, nhị nhân lưỡng nhật gian tiên hậu khứ thế )

  •  37, 38, 39 ( thời kỳ Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Mao trạch Đông)
37 第三七象 庚子 震下巽上 益

谶曰:汉水茫茫 不统继统

南北不分 和衷与共

颂曰:水清终有竭 倒戈逢八月

海内竟无王 半凶还半吉

金圣叹:「此象虽有元首出现,而一时未易平治,亦一乱也。此乃预言民国之成立。

Đệ tam thất tượng: Canh Tý Chấn hạ Tốn thượng Ích

Sấm viết:hán thủy mang mang, bất thống kế thống, nam bắc bất phân, hòa trung dữ cộng

Tụng viết:thủy thanh chung hữu kiệt, đảo qua phùng bát nguyệt, hải nội cánh vô vương, bán hung hoàn bán cát

Kim Thánh Thán: thử tượng tuy hữu nguyên thủ xuất hiện, nhi nhất thì vị dịch bình trì, diệc nhất loạn dã, thử nãi dự ngôn dân quốc chi thành lập.

38 第三八象 辛丑 震下离上 噬嗑

谶曰:门外一鹿 群雄争逐

劫及 鱼 水深火热

颂曰:火运开时祸蔓延 万人後死万人生

海波能使江河浊 境外何殊在目前

金圣叹:「此象兵祸起於门外有延及门内之兆。」〈此乃指第一次世界大战〉

Đệ tam bát tượng: Tân Sửu Chấn hạ Li thượng Phệ Hạp

Sấm viết: môn ngoại nhất lộc, quần hùng tranh trục kiếp cập ngư thủy thâm hỏa nhiệt

Tụng viết: hỏa vận khai thì họa mạn duyên, vạn nhân hậu tử vạn nhân sanh, hải ba năng sử giang hà trọc, cảnh ngoại hà thù tại mục tiền

Kim Thánh Thán: thử tượng binh họa khởi vu môn ngoại hữu duyên cập môn nội chi triệu, (thử nãi chỉ đệ nhất (nhị ?) thứ thế giới đại chiến)

39 第三九象 壬寅 巽下

谶曰:鸟无足 山有月

旭初升 人都哭

颂曰:十二月中气不和 南山有雀北山罗

一朝听得金鸡叫

大海沉沉日已过

金圣叹:「此象疑一外夷扰乱中原,必至酉年始得平也。」〈此象是指日本侵华。鸟无足,山有月,是一个岛字

Đệ tam cửu tượng:  Nhâm Dần Tốn Hạ  Đoài Thượng  Di (?)

Sấm viết: điểu vô túc,  sơn hữu nguyệt, húc sơ thăng,  nhân đô khốc

Tụng viết: thập nhị nguyệt trung khí bất hòa, nam sơn hữu tước bắc sơn la, nhất triêu thính đắc kim kê khiếu, đại hải trầm trầm nhật dĩ quá

Kim Thánh Thán: thử tượng nghi nhất ngoại di nhiễu loạn Trung Nguyên, tất chí dậu niên thủy đắc bình dã, thử tượng thị chỉ Nhật Bổn xâm Hoa, điểu vô túc, sơn hữu nguyệt, thị nhất cá đảo tự

  • Dân Quốc 38 năm sau: từ 40 đến 59 (sau thời Mao cho tới nay và thời gian sắp tới, rất quan trọng có dịch nghĩa từ đồ hình)
40 第四十象 癸卯 巽下艮上

谶曰:一二三四 无土有主

小小天罡 垂拱而治

颂曰:一口东来气太骄 脚下无履首无毛

若逢木子冰霜涣 生我者猴死我雕

金圣叹:「此象有一李姓,能服东夷,而不能图长治久安之策,

卒至旋治旋乱,有兽活禽死之意也。」〈此似指国民党迁台

Đệ tứ thập tượng: Quý Mão – Tốn Hạ – Cấn Thượng – Cổ

Sấm viết: nhất nhị tam tứ, vô thổ hữu chủ, tiểu tiểu Thiên Cương, thùy củng nhi trì

Tụng viết: nhất khẩu đông lai khí thái kiêu, cước hạ vô lí thủ vô mao, nhược phùng mộc tử băng sương hoán, sanh ngã giả hầu tử ngã điêu

Kim Thánh Thán: thử tượng hữu nhất lí tính, năng phục đông di, nhi bất năng đồ trường trì cửu an chi sách, tốt chí toàn trì toàn loạn, hữu thú hoạt cầm tử chi ý dã thử tự chỉ Quốc Dân Đảng thiên thai

Lược dịch:

Sấm viết: một hai ba bốn, đất ở không có chủ, sao Thiên Cương bé nhỏ, cung kính cúi đầu mà sửa trị.

Tụng viết: một cửa (khẩu) to lớn ở phía đông qua lại, dưới chân chẳng có giầy dép đầu không tóc, nếu như giống (mầm) cây gỗ gặp (được) băng sương tan rã, (như) con khỉ đã chết, ấy là ta sống lại (mà) trở thành con chim diều hâu kên kên.

Kim Thánh Thán: tượng này có một tánh lý, có tài (khả) năng chế phục (qui phục) Đông di (Nhật Bản), mà không có khả năng mưu đồ trường trị (trị vì lâu dài), sách lược yên bình lâu dài. Lính tốt (lính quèn) quay trở lại (thì) rối loạn, (mạng người) chết (như) loài chim thú vậy, ấy là chỉ Quốc Dân đảng vậy. (thời kỳ Nhật Bản – Tưởng – Mao)

41 第四一象 甲辰 离下离上 离

谶曰:天地晦盲 草木繁殖

阴阳反背 上土下日

颂曰:帽儿须戴血无头 手弄乾坤何日休

九十九年成大错 称王只合在秦州

金圣叹:「此象一武士握兵权,致肇地覆天翻之祸,或一白姓者平之。〈此指毛泽东所行各种运动,九十九合成是廿八年,与毛在位期相合。秦州即陕西省,延安亦在陕西。帽儿 戴是说扣帽子。

Đệ tứ nhất tượng : Giáp thần Li hạ Li thượng Li

Sấm viết: thiên địa hối manh, thảo mộc phồn thực, âm dương phản bối, thượng thổ hạ nhật

Tụng viết: mạo nhân tu đái huyết vô đầu, thủ lộng Kiền Khôn hà nhật hưu, cửu thập cửu niên thành đại thác, xưng vương chích hợp tại Tần Châu

Kim Thánh Thán: thử tượng nhất vũ sĩ ác binh quyền, trí triệu địa phúc thiên phiên chi họa, hoặc nhất bạch tính giả bình chi, (thử chỉ Mao Trạch Đông sở hành các chủng vận động, cửu thập cửu hợp thành thị nhập bát niên, dữ Mao tại vị kì tương hợp, Tần Châu tức Thiểm Tây tỉnh, duyên an diệc tại Thiểm Tây, mạo nhân đái thị thuyết khấu mạo tử

Lược dịch:

Sấm viết: trời đất tối tăm mờ mịt, cây cỏ cây cỏ đầy rẫy (hoang vu tiêu điều cây cỏ mọc hoang đầy rẫy), âm dương quay lưng đối nhau, mặt trời ở dưới mặt đất.

Tụng viết: người đội mũ râu quai nón (có) tâm huyết sắt máu, không ai đứng trên được, tài giỏi bỡn cợt cả Kiền Khôn mà sao ngày lại tốt lành, chín mười chín năm thành lầm lẫn lớn, chỉ một mình xưng vua ở tại Tần Châu.

Kim Thánh Thán: tượng này là một võ sĩ nắm bình quyến, suy cho cùng là nơi chốn bắt đầu gây ra cái hoạ tự nhiên lập lại, hoặc ấy là một thời bày ra trăm họ được bình trị chăng ? (đó là ám chỉ nơi mà Mao Trạch Đông vận động các phong trào quần chúng, chín mười phong trào đảng phái qui tụ về một thành lập nên làm một trong 28 năm đều là do Mao tập hợp thành, Tần Châu tức là tỉnh Thiểm Tây, cuộc khởi tạo sự nghiệp của Mao cũng ở Thiểm Tây, người đội mũ chính là Mao Trạch Đông vậy

42 第四二象 乙巳 艮下离上 旅

谶曰:美人自西来 朝中日渐安

长弓在地 危而不危

颂曰:西方女子琵琶仙 皎皎衣裳色更鲜

此时浑迹匿朝市 闹乱君臣百万般

金圣叹:「此象疑一女子当国,服色尚白,大权独揽,几危社稷,发现或在卯年,此始乱之兆也

Đệ tứ nhị tượng: Ất Tị Cấn hạ Li thượng Lữ

Sấm viết: mĩ nhân tự tây lai, triêu trung nhật tiệm an, trường cung tại địa, nguy nhi bất nguy

Tụng viết: tây phương nữ tử tỳ bà tiên. kiểu kiểu y thường sắc canh tiên, thử thì hồn tích nặc triêu thị, nháo loạn quân thần bách vạn bàn

Kim Thánh Thán: thử tượng nghi nhất nữ tử đương quốc, phục sắc thượng bạch, đại quyền độc lãm, kỉ nguy xã tắc, phát hiện hoặc tại Mão niên, thử thủy loạn chi triệu dã.

Lược dịch:

Sấm viết:  Người đẹp đến từ phía Tây, ngày giữa sớm mai dần dần yên định, bề dài đo tại đất, nguy nhưng mà chẳng nguy (hoặc cao ngất ngưởng tưởng nguy hiểm nhưng chưa hẳn là nguy hiểm).

Tụng viết: Con gái phương Tây (ôm cây) đàn Tỳ bà (đẹp như) tiên, đổi thay quần áo sạch sẽ lại (càng) thêm tươi tốt (Giang Thanh diễn viên sân khấu điện ảnh ?), ấy thời ẩn dấu vết vẩn đục từ sớm (như) ở chợ búa, vua tôi (bàn cãi) quanh co ầm ỹ nháo nhào rối loạn (đại ý là nhìn bề ngoài áo quần sạch sẽ đẹp đẽ tốt tươi đấy, nhưng ẩn dấu bên trong lẫn lộn sạch đẹp bẩn xấu như các loại ở chợ đã được che dấu sớm từ trước rồi).

Kim Thánh Thán: tượng này nghi ngờ có một nữ nhân đảm đương việc nước, áo mặc màu trắng ở trên, nắm chiếm lấy một mình quyền thế, làm nguy nan cho xã tắc, phát hiện ra ở năm Mão, ấy là cái triệu chứng mới bắt đầu loạn vậy. (thời Giang Thanh mới bắt đầu được Mao sủng ái ?)

43 第四三象 丙午 巽下离上 鼎

谶曰:君非君 臣非臣

始艰危 终克定

颂曰:黑兔走入青龙穴 欲尽不尽不可说

唯有外边根树上 三十年中子孙结

金圣叹:「此象疑前象女子乱国未终,君臣出狩,有一杰出之人为之底定,然必在三十年後

Đệ tứ tam tượng: Bính Ngọ Tốn hạ Li thượng Đỉnh

Sấm viết: quân phi quân, thần phi thần, thủy gian nguy, chung khắc định

Tụng viết: hắc thỏ tẩu nhập thanh long huyệt, dục tẫn bất tẫn bất khả thuyết, duy hữu ngoại biên căn thụ thượng, tam thập niên trung tử tôn kết

Kim Thánh Thán: thử tượng nghi tiền tượng nữ tử loạn quốc vị chung, quân thần xuất thú, hữu nhất kiệt xuất chi nhân vi chi để định, nhiên tất tại tam thập niên hậu

Lược dịch:

Sấm viết: vua chẳng ra vua, tôi chẳng phải là tôi tớ, thời gian đầu gian nan nguy khốn, sau được yên định.

Tụng viết: con thỏ đen chạy vào hang rồng xanh (Đặng Tiểu Bình ẩn trốn chờ thời cơ ?), tham muốn hết sức chẳng còn có thể nói gì được nữa (tứ nhân bang).

Kim Thánh Thán: tượng này là nghi ngờ nữ nhân (quẻ) trước là người làm cho đất nước rối loạn, vua tôi ra ngoài, có một người kiệt xuất đến làm cho yên ổn, như thế ắt hẳn ở tại 30 năm sau đó.

44 第四四象 丁未 坎下离上 未

谶曰:日月丽天 群阴慑服

百灵来朝 双羽四足

颂曰:而今中国有圣人 虽非豪杰也周成

四夷重译称天子 否极泰来九国春

金圣叹:「此象乃圣人复生,四夷来朝之兆,一大治也。

Đệ tứ tứ tượng: Đinh vị Khảm hạ Li thượng Vị Tế

Sấm viết: nhật nguyệt lệ thiên, quần âm nhiếp phục, bách linh lai triêu, song vũ tứ túc

Tụng viết: nhi kim Trung Quốc hữu thánh nhân, tuy phi hào kiệt dã chu thành, tứ di trọng dịch xưng thiên tử, phủ cực thái lai cửu quốc xuân

Kim Thánh Thán: thử tượng nãi thánh nhân phục sanh, tứ di lai triêu chi triệu, nhất đại trì dã

Lược dịch:

Sấm viết: Mặt trời mặt trăng sáng đẹp ở trên bầu trời, bè lũ đen tối sợ hãi khiếp phục, hàng trăm sinh linh lại về chầu, hai lông vũ bốn chân.

Tụng viết: Mà nay Trung Quốc có thánh nhân, cho dầu chẳng phải là hào kiệt làm cho thành trọn vẹn, bốn bên (các nước chung quanh) coi trọng xem như là ông vua (của nước Trung Hoa), bĩ cực lại được thái lai đất nước như mùa xuân đẹp.

Kim Thánh Thán: tượng này là thánh nhân sinh lại, là điềmbốn bên vui vẻ quay trở lại, tất cả đều được sửa trị vậy.

45 第四五象 戊申 坎下艮上 蒙

谶曰: 有客西来 至东而止

木火金水 洗此大耻

颂曰: 炎运宏开世界同 金乌隐匿白洋中

从此不敢称雄长 兵气全消运已终

金圣叹:「此象于太平之世复见兵戎,当在海洋之上,自此之後,更臻盛世矣。」

Đệ tứ ngũ tượng: Mậu Thân Khảm hạ Cấn thượng Mông

Sấm viết: hữu khách tây lai, chí đông nhi chỉ, mộc hỏa kim thủy, tẩy thử đại sỉ

Tụng viết: viêm vận hoành khai thế giới đồng, kim ô ẩn nặc bạch dương trung, tòng thử bất cảm xưng hùng trường, binh khí toàn tiêu vận dĩ chung

Kim Thánh Thán: thử tượng vu thái bình chi thế phục kiến binh nhung, đương tại hải dương chi thượng, tự thử chi hậu, canh trăn thịnh thế hĩ.

Lược dịch:

Sấm viết: Có khách đến từ hướng Tây, ở tận cùng phía Đông, mộc hoả kim thuỷ, ấy thời nhẵn nhụi sạch sẽ (hết cái) nhục lớn.

Tụng viết: vận số to lớn mở ra ở phương Nam thế giới cùng nhau, mặt trời ẩn trốn ở bên trong biển trắng, đi theo vậy mà chẳng dám xứng đáng là tài giỏi khoẻ mạnh, binh khí tan rã xong hết vận số kết thúc.

Kim Thánh Thán: tượng này là thời thái bình (đi qua lại thấy) trở lại áo giáp binh khí, đang ở tại trên biển (căng thẳng eo biển Trung Hoa – Đài Loan ?), bởi vì là sau đó, thay đổi là thời thịnh vượng (Trung Hoa tăng cường quân sự).

46 第四六象 己酉 坎下巽上

谶曰: 黯黯阴霾 杀不用刀

万人不死 一人难逃

颂曰: 有一军人身带弓 只言我是白头翁

东边门 伏金剑 勇士後门入帝宫

金圣叹:「此象疑君王昏 ,一勇士仗义兴兵为民请命,故曰万人不死一人难逃

Đệ tứ lục tượng: Kỷ Dậu Khảm hạ Tốn thượng Hoán

Sấm viết: ảm ảm âm mai, sát bất dụng đao, vạn nhân bất tử, nhất nhân nan đào

Tụng viết: hữu nhất quân nhân thân đái cung, chích ngôn ngã thị bạch đầu ông,     đông biên môn, phục kim kiếm, dũng sĩ hậu môn nhập đế cung

Kim Thánh Thán: thử tượng nghi quân vương hôn, nhất dũng sĩ trượng nghĩa hưng binh, vi dân thỉnh mệnh, cố viết vạn nhân bất tử nhất nhân nan đào.

Lược dịch:

Sấm viết: Đen tối ảm đạm mịt mù, giết chết mà chẳng dùng đến gươm đao, muôn người chẳng chết, một người cũng khó mà trốn được.

Tụng viết: Có một người lính đeo cung tên trên người, chỉ nói ta là ông đầu bạc, bên ngoài cửa phía Đông, dấu gươm sắt, dũng sĩ ở cửa sau vào cung điện của nhà vua.

Kim Thánh Thán: tượng này nghi ngờ là quân vương hôn ám tối tăm, một dũng sĩ vì nghĩa khí động binh lính, vì dân mà truyền lệnh, cớ sao lại viết rằng muôn người chẳng chết một người cũng khó mà trốn chạy được ?.

47 第四七象 庚戍 坎下乾上

谶曰: 偃武修文 紫薇星明

匹夫有责 一言为君

颂曰: 无王无帝定乾坤 来自田间第一人

好把旧书多读到 义言一出见英明

金圣叹:「此象有贤君下士,豪杰来归之兆,盖辅助得人,而帝不居德,王不居功,蒸蒸然有无为而治之盛。此一治也

Đệ tứ thất tượng: Canh thú Khảm hạ Kiền thượng

Sấm viết: yển vũ tu văn, tử vi tinh minh, thất phu hữu trách, nhất ngôn vi quân

Tụng viết: vô vương vô đế định Kiền Khôn, lai tự điền gian đệ nhất nhân, hảo bả cựu thư đa độc đáo, nghĩa ngôn nhất xuất kiến anh minh.

Kim Thánh Thán: thử tượng hữu hiền quân hạ sĩ, hào kiệt lai quy chi triệu, cái phụ trợ đắc nhân, nhi đế bất cư đức, vương bất cư công, chưng chưng nhiên hữu vô vi nhi trì chi thịnh, thử nhất trì dã. Nghỉ. Như yển vũ tu văn 偃武修文  nghỉ việc võ sửa việc văn.

Lược dịch:

Sấm viết: nghỉ việc võ sửa trị việc văn, sao Tử Vi sáng sủa, người đàn ông có trách nhiệm gánh nhận, một lời làm vua.

Tụng viết: Không vua chúa chẳng đế vương xếp đặt Kiền Khôn (Trời Đất), đến từ đồng ruộng (là) người hạng nhất, yêu thích giữ lấy sách cũ nhiều độc đáo, ý nghĩa lời nói ra thấy thật là sáng suốt.

Kim Thánh Thán: tượng này có vua hiền tôi giỏi ở bên dưới, là điềm hào kiệt quay trở về, được người che chở phò trợ, vậy mà vua chẳng ở đức độ, vì sao vương hầu chẳng (vì) việc công, một lũ một bọn như thế làm sao có được thịnh vượng ?, ấy vậy cần phải sửa trị vậy.

48 第四八象 辛亥 离下乾上 同人

谶曰: 卯午之间 厥象维离

八牛牵动 雍雍熙熙

颂曰: 水火既济人民吉 手持金戈不杀贼

五十年中一将臣 青青草自田间出

金圣叹:「此象疑一朱姓与一苗姓争朝纲,而朱姓有以德服人之化,龙蛇相斗,想在辰巳之年,其建都或在南方

Đệ tứ bát tượng: Tân Hợi Li hạ Kiền thượng Đồng Nhân

Sấm viết: Mão Ngọ chi gian, quyết tượng duy li, bát ngưu khiên động, ung ung hi hi

Tụng viết: Thủy Hỏa Kí Tể nhân dân cát, thủ trì kim qua bất sát tặc, ngũ thập niên trung nhất tương thần, thanh thanh thảo tự điền gian xuất

Kim Thánh Thán: thử tượng nghi nhất chu tính dữ nhất miêu tính tranh triêu cương, nhi chu tính hữu dĩ đức phục nhân chi hóa, long xà tương đấu, tưởng tại thần Tị chi niên, kì kiến đô hoặc tại Nam phương.

Lược dịch:

Sấm viết: vào khoảng Mão Ngọ, hiện trạng khởi lên ràng buộc bám dính lấy, co kéo  tám trâu, hoà hợp vui vẻ.

Tụng viết: Thủy Hỏa Kí Tể nhân dân tốt, tay cầm nắm vũ khí chẳng giết giặc, trong năm mươi năm rồi sẽ có một bày tôi, cỏ cây sinh ra xanh ngát một khoảng ruộng.

 Kim Thánh Thán: tượng này ngờ rằng một người họ Chu là một mầm mống tranh giành trong triều cương, vậy mà họ Chu có đức độ cảm phục được lòng người, rồng rắn đánh nhau, nhớ lại ở năm Tị, dựng lên kinh đô hoặc ở phương Nam.

49 第四九象 壬子 坤下坤上 坤

谶曰: 山谷少人口 欲剿失其巢

帝王称弟兄 纷纷是英豪

颂曰: 一个或人口内啼 分南分北分东西

六爻占尽文明见 棋布星罗日月

金圣叹:「久分必合,久合必分,理数然也,然有文明之象,当不如割据者之纷扰也

Đệ tứ cửu tượng: Nhâm tử Khôn hạ Khôn thượng Khôn

Sấm viết: sơn cốc thiểu nhân khẩu, dục tiễu thất kì sào, đế vương xưng đệ huynh, phân phân thị anh hào.

Tụng viết: nhất cá hoặc nhân khẩu nội đề, phân Nam phân Bắc phân Đông Tây, lục hào chiêm tẫn văn minh kiến, kì bố tinh la Nhật Nguyệt

Kim Thánh Thán: cửu phân tất hợp, cửu hợp tất phân, lí sổ nhiên dã, nhiên hữu văn minh chi tượng, đương bất như cát cư giả chi phân nhiễu dã

Tạm dịch:

Sấm viết: hang núi ít người, tham muốn ăn hớt mất luôn cả tổ chim (tham quá bắt lấy cả tổ chim làm tuyệt giống), đế vương xưng anh em (mỗi địa phương là một ông vua con), rối bời anh hùng hào kiệt (người nào cũng tự xưng là tài giỏi).

Tụng viết: một cái (gì đó) hoặc một ngừơi kêu khóc ở bên trong (lòng dân đau xót uất hận ở bên trong), chia Nam chia Bắc chia Đông Tây (chia rẽ trầm trọng), xem (bói) hết thảy cả sáu hào thấy được nền văn minh (mới ló rạng), la liệt cờ vải trăng sao mặt trời.

Kim Thánh Thán: chia ra lâu ắt hẳn (có ngày) hợp lại, hợp lâu (rồi) ắt hẳn (có ngày sẽ phải) phân chia ra, lí số tự nhiên (nó là) như vậy (đấy), hiện tượng này (phân chia ra, cửu hợp tất phân …) có như thế (mới) là sự văn minh, cảnh huống (hiện nay) đang chẳng phải là tốt, cái ấy (hiện tượng ấy, cát cứ địa phương), (hiện nay) là ngổn ngang rối loạn nhũng nhiễu.

Lời bàn: Hiện tượng đồ hình 49 nói chính là thời kỳ của CS Trung Quốc khi Mao Trạch Đông chiếm trọn thống lĩnh toàn cõi Hoa Lục, thực thi chính sách CS tham lam tàn bạo khiến cả trăm triệu người chết trực tiếp hay gián tiếp, khiến cho lòng người dân khắp Hoa Lục phân tán rối loạn ngổn ngang phát sinh ra mọi tệ nạn, suy đồi đạo đức đến tột cùng ở khắp các nơi, và ở mọi nơi ở mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi phường, xã, thôn là một ông vua con nhũng nhiễu cát cứ tự đặt luật riêng, hàng ngàn sứ quân chứ không như thời Xuân Thu chiến Quốc Lục quốc, Tam Quốc … đúng thực trạng của các nước CS như TQ và VN hiện nay, TU ra lệnh địa phương chẳng tuân theo, ỷ dựa vào thẻ Đảng CS mà không tuân theo pháp luật, luật lệnh của TU ban ra nhưng dưới chẳng thi hành “hào lệnh bất hành, thượng ban chỉ sóc”…

50 第五十象 癸丑 震下坤上

谶曰: 水火相战 时穷则变

贞下起元 兽贵人贱

颂曰: 虎头人遇虎头年 白米盈仓不值钱

豺狼结队街中走 拨尽风云始见天

金圣叹:「此象遇寅年遭大乱,君昏臣暴,下民无生息之日,又一乱也

Đệ ngũ thập tượng: Quý Sửu Chấn hạ Khôn thượng Phục

Sấm viết: Thủy Hỏa tương chiến, thì cùng tắc biến, trinh hạ khởi nguyên, thú quý nhân tiện

Tụng viết: hổ đầu nhân ngộ hổ đầu niên, bạch mễ doanh thương bất trị tiễn, sài lang kết đội nhai trung tẩu, bát tẫn phong vân thủy kiến thiên

Kim Thánh Thán: thử tượng ngộ Dần niên tao đại loạn, quân hôn thần bạo, hạ dân vô sanh tức chi nhật, hựu nhất loạn dã

Lược dịch:

Sấm viết: nước lửa đánh nhau, thời (đã tới lúc) cùng cực ắt sẽ biến dạng, dưới chính đính mới đầu khởi lên, loài cầm thú thì quỳ loài người thì hèn mọn.

Tụng viết: người đầu hổ gặp đầu năm hổ, gạo trắng đầy bao chẳng cầm nắm được tiền, loài lang sói kết thành bầy chạy giữa bốn bên (nơi nào cũng thấy loài lang sói), gió mây (làm u ám) hết sạch mới thấy được trời xanh.

 Kim Thánh Thán: tượng hình này năm Dần gặp nạn lớn, vua hôn ám bầy tôi tàn bạo, dân ở dưới hàng ngày sống khó thở (bị áp bức uất ức nghẹn ngào đến khó thở), lại sẽ có một sự rối loạn (trong xã hội) vậy.

51 第五一象 甲寅 下坤上

谶曰: 阴阳和 化以正

坤顺而感 後见尧舜

颂曰: 谁云女子尚刚强 坤德居然感四方

重见中天新气象 卜年一六寿而康

金圣叹:「此象乃明君得贤后之助,化行国内,重见升平,又一治也。卜年一六,或在位七十年

Đệ ngũ nhất tượng: Giáp Dần Đoái hạ Khôn thượng Lâm

Sấm viết: âm dương hòa, hóa dĩ chánh, khôn thuận nhi cảm, hậu kiến Nghiêu Thuấn

Tụng viết: thùy vân nữ tử thượng cương cường, khôn đức cư nhiên cảm tứ phương, trọng kiến trung thiên tân khí tượng, bặc niên nhất lục thọ nhi khang.

Kim Thánh Thán: thử tượng nãi minh quân đắc hiền hậu chi trợ, hóa hành quốc nội, trọng kiến thăng bình, hựu nhất trì dã, bặc niên nhất lục, hoặc tại vị thất thập niên

Lược ldịch:

Sấm viết: Âm Dương hoà, biến hoá thành chánh đáng, nhu thuận mà cảm hoá, sau thấy được vua Nghiêu Thuấn.

Tụng viết: rằng ai là người đàn bà con còn cứng rắn mạnh mẽ, đức của nhu hoà như thế cảm thông được bốn phương, hình tượng mới được xem trọng giữa bầu trời, bói thử yên được lâu trong một sáu năm.

Kim Thánh Thán: tượng hình này là vua hiền được vợ giỏi trợ giúp, thi hành chuyển hoá trong nước, coi trọng sự công bằng, lại có một sự sửa chữa vậy, bói thử một sáu năm, hoặc là ở địa vị bẩy mươi năm.

52 第五二象 乙卯 乾下坤上 泰

谶曰: 慧星乍见 不利东北

踽踽何之 瞻彼乐国

颂曰: 枪一点现东方 吴楚依然有帝王

门外客来终不久 乾坤再造在角亢

金圣叹:此象主东北被夷人所扰,有迁都南方之兆. 角亢南极也。其後有明君出,驱逐外人,再度升平

Đệ ngũ nhị tượng: Ất Mão Kiền hạ Khôn thượng Thái

Sấm viết: Tuệ tinh sạ kiến, bất lợi Đông Bắc, củ củ hà chi, chiêm bỉ nhạc quốc

Tụng viết: thương nhất điểm hiện Đông phương, Ngô Sở y nhiên hữu đế vương    môn ngoại khách lai chung bất cửu, Kiền Khôn tái tạo tại Giác Kháng

Kim Thánh Thán: thử tượng chủ Đông Bắc bị di nhân sở nhiễu, hữu thiên đô Nam phương chi triệu, Giác Kháng Nam cực dã, kì hậu hữu minh quân xuất, khu trục ngoại nhân, tái độ thăng bình

Lược dịch:

Sấm viết: chợt thấy sao Tuệ, chẳng lợi (ich nơi) Đông Bắc, lủi thủi một mình làm chi ?, nhìn xem nước bên cạnh vui thích.

Tụng viết: một ngôi sao chổi nhỏ bé hiện ra ở phương Đông, Ngô Sở vẫn cứ như cũ có được đế vương, khách đến ngoài cửa chẳng lâu sau, Kiền Khôn tạo lại (nơi ngôi sao) Giác (Giốc) Kháng (Cang).

Kim Thánh Thán: tượng này chủ nơi Đông Bắc bị người (nước) bên cạnh quấy rối, có triệu chứng dời kinh đô về phương Nam, sao Giác Kháng ở cực Nam vậy, về sau có vua sáng xuất hiện, xua đuổi người ngoài, làm cho được yên bình.

Các nhà Thiên Văn Học chia bầu trời ra 4 hướng : Đông Tây Nam Bắc . Mỗi hướng gồm có 7 chùm sao . Hay là 4 hướng x 7 chùm sao = 28 chùm sao . Ngày nay chúng ta thường gọi là Nhị Thập Bát Tú

Bảy chòm sao hợp lại thành một phương trời và được biểu tượng thành một con vật có mầu sắc theo sự phối thuộc của ngũ hành- Phương Bắc là con rùa đen gọi là Hoa Cái (Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích).

– Phương Tây là con hổ trắng gọi là Bạch Hổ (Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chuỷ, Sâm).

– Phương Nam là con phượng đỏ gọi là Phượng Các (Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn).

– Phương Đông là con rồng xanh, gọi là Thanh Long (Giốc, Cang, Đê, Phòng Tâm Vĩ, Cơ).

 http://knolstuff.com/profiles/blog/show?id=1781665%3ABlogPost%3A54631

53 第五三象 丙辰 乾下震上 大壮

谶曰: 关中天子 礼贤下士

顺天休命 半老有子

颂曰: 一个孝子自西来 手握乾纲天下安

域中两见旌旗美 前人不及後人才

金圣叹:「此象有一秦姓名孝者,登极关中,控制南北,或以秦为国号,此一治也

Đệ ngũ tam tượng: Bính thần Kiền hạ Chấn thượng Đại Tráng

Sấm viết: quan trung thiên tử, lễ hiền hạ sĩ, thuận thiên hưu mệnh, bán lão hữu tử

Tụng viết: nhất cá hiếu tử tự tây lai, thủ ác kiền cương thiên hạ an, vực trung lưỡng kiến tinh kì mĩ, tiền nhân bất cập hậu nhân tài

Kim Thánh Thán: thử tượng hữu nhất Tần tính danh hiếu giả, đăng cực quan trung, khống chế Nam Bắc, hoặc dĩ tần vi quốc hào, thử nhất trì dã

Lược dịch:

Sấm viết: vua ở Quan Trung (ở nơi giữa cửa), lấy lễ hiền với kẻ sĩ ở dưới, thuận lòng trời sai khiến mệnh lệnh, đến gần già mới có con.

Tụng viết: có một đứa con hiếu nghĩa đến từ phía Tây, cầm nắm lấy kỷ cương thiên hạ yên lành, bờ cõi cờ quạt cả hai thấy đẹp đẽ, người thời trước chẳng theo kịp được sự tài giỏi của người thời sau.

Kim Thánh Thán: tượng này có một tên họ Tần hiếu thảo vậy, lên cao ở Quan Trung (chính giữa, đứng đầu ngôi chính giữa …), cầm nắm cai quản Nam Bắc, hoặc là lấy pháp chế (từ thời) nhà Tần làm pháp chế (cai trị nước coi như là) quốc bảo.

54 第五四象 丁巳 乾下

谶曰: 磊磊落落 残棋一局

啄息苟安    虽笑亦哭

颂曰: 不分牛鼠与牛羊 去毛存悺称强

寰中自有真龙出 九曲黄河水不黄

金圣叹:「此象有实去名存之兆,或为周末时,号令不行,尚颁止朔:亦久合必分之徵也

Đệ ngũ tứ tượng: Đinh Tị Kiền hạ Đoái thượng

Sấm viết: lỗi lỗi lạc lạc, tàn kì nhất cục, trác tức cẩu an, tuy tiếu diệc khốc

Tụng viết: bất phân ngưu thử dữ ngưu dương, khứ mao tồn (cách 革 – hưởng  thượng 尚饗 ) xưng cường, hoàn trung tự hữu chân long xuất, cửu khúc Hoàng Hà thủy bất hoàng

Kim Thánh Thán: thử tượng hữu thật khứ danh tồn chi triệu, hoặc vi chu mạt thì, hào lệnh bất hành, thượng ban chỉ sóc:diệc cửu hợp tất phân chi trưng dã

Tạm dịch: tài cán hơn người, cờ tàn một cuộc, trác tức 啄 息 (than thở, thở ngắn thở dài từng cơn, thở phào ra …) tạm yên, tuy cười lại khóc.

Chẳng chia ra trâu (với) chuột cùng với (hay là) trâu (với) dê, nhổ (bỏ, vặt) lông còn 悺? (cách革: da, đổi, bỏ) hoặc là (hưởng 享: hưởng thụ, dâng lên, thết đãi) –  thượng hưởng (ngõ hầu mới được hưởng mà) xưng (là) mạnh, trong cõi giữa tự có chân long (thánh quân) xuất hiện, chín khúc hoàng hà nước chẳng vàng.

Tượng này có điềm báo chứng thực là bỏ danh (xưng, hiệu …) để tồn tại, hoặc là thời kỳ mạt 末 (cuối cùng)  gây nên khắp nơi, hiệu lệnh ban ra chẳng (nơi nào chịu) thi hành, trên mới ban ra ngừng lại (đình chỉ), chứng cớ là ấy (bởi vì) hợp lâu ắt hẳn (có ngày phải) phân chia ra.

Đại loạn bình 大乱平, tứ di phục 四夷服, xưng huynh đệ 称兄弟, lục thất quốc 六七国”

55 第五五象 戊午 乾下坎上

谶曰: 惧则生戒 无远勿届

水边有女 对日自拜

颂曰: 觊觎神器终无用 翼翼小心有臣众

转危为安见节义 未必河山是我送

金圣叹:「此象有一石姓或刘姓一统中原,有一姓汝者谋篡夺之,幸有大臣尽忠王室,戒谨惕励,一切外侮不灭自灭,虽乱而亦治也。

Đệ ngũ ngũ tượng: Mậu Ngọ Kiền hạ Khảm thượng

Sấm viết: cụ tắc sanh giới,  vô viễn vật giới, thủy biên hữu nữ* , đối nhật tự bái

Tụng viết: kí du thần khí chung vô dụng, dực* dực tiểu tâm* hữu thần chúng, chuyển nguy* vi an kiến tiết nghĩa, vị tất hà sơn thị ngã tống

Kim Thánh Thán: thử tượng hữu nhất Thạch tính hoặc Lưu tính nhất thống trung nguyên, hữu nhất tính nhữ giả mưu soán đoạt chi, hạnh hữu đại thần tẫn trung vương thất*, giới cẩn dịch lệ, nhất thiết ngoại vũ bất diệt tự diệt, tuy loạn nhi diệc trì dã

Lược dịch:

Sấm viết: sợ phép tắc pháp luật (nên) sinh ra phòng bị, chẳng xa chớ (nên) đến, ven (bờ) nước có (con) gái, đối (diện) mặt trời (mà) lạy.

Tụng viết: (cho dầu có cầu) mong (hay là mong ước) thần (thánh) (rồi) sau (cũng) chẳng (có) tác dụng (hay công dụng gì cả), tâm nhỏ (hoặc là: lòng khinh thường, tâm hẹp hòi mà ôm ấp) che chở (cho) bầy tôi mọi người, (vì) tiết nghĩa (nên) chuyển nguy làm (nên) yên ổn, chưa hẳn (là) sông núi (đã) ấy đưa (tới) (hay là trở về) cho ta.

Kim Thánh Thán: tượng này có một danh tánh họ Lưu hoặc là họ Thạch (tập) hợp lại (được) ở giữa (nước, quốc gia), (rồi) có một tên (người khác) người ấy mưu mô soán đoạt (tranh dành quyền lực), may (mắn là) có đại thần hết lòng trung (thành với) nhà vua, đề phòng cẩn thận (cố) gắng (hết) sức, hết thẩy (sự) khinh thường (lấn áp) bên ngoài không tan rã (cũng bị) tự tan mất, tuy loạn mà lại (vẫn được cai)  trị (họ Lưu hay họ Thạch ngồi lại được, tại chức không bị truất phế). 

 Đồ hình này là để tiếp diễn đồ hình 54 “thử tượng hữu thật khứ danh tồn chi triệu, hoặc vi chu mạt 末 thì, hào lệnh bất hành”. Một bản Thôi Bối đồ khác bổ xung những chữ bị mất.

sấm viết lỗi lỗi lạc lạc, tàn kì nhất cục, trác tức cẩu an, tuy tiếu diệc khốc.

tụng viếtbất phân ngưu thử dữ ngưu dương, khứ mao tồn (cách 革 – thượng hưởng 尚饗) xưng cường, hoàn trung tự hữu chân long xuất, cửu khúc Hoàng Hà thủy bất hoàng

Tạm dịch:

Sấm viết: tài cán hơn người, cờ tàn một cuộc, trác tức (than thở, thở ngắn thở dài từng cơn, thở phào ra …) tạm yên, tuy cười lại khóc.

Tụng viết: Chẳng chia ra trâu (với) chuột cùng với (hay là) trâu (với) dê, nhổ (bỏ, vặt) lông còn? (cách 革: da, đổi, bỏ) hoặc là (hưởng 享: hưởng thụ, dâng lên, thết đãi) – thượng hưởng 尚饗(ngõ hầu mới được hưởng mà) xưng (là) mạnh (cường quốc), trong cõi giữa tự có chân long (thánh quân) xuất hiện, chín khúc hoàng hà nước chẳng vàng.

“lỗi lỗi lạc lạc, tàn kì nhất cục, trác tức (thở phào ra) cẩu an (tạm yên), tuy tiếu diệc khốc”.

Câu sấm này rất hay: tưởng như là chủ nghĩa CS lỗi lạc tài ba hơn người, nhưng rồi một cuộc cờ tàn (sự tan rã của khối CS), CS TQ và VN mới “đổi mới” biến chế CN CS theo CN CS/TB biến hoá từ CS chuyên chính vô sản thành độc tài CS lai TB, và trở thành chủ nghĩa vỏ CS ruột tư bản, nhưng vẫn phải dựa vào chủ thuyết CS để giữ lấy vị trí dộc tôn để được “cẩu 苟 an” tạm yên và được “thượng hưởng 尚饗” (ngõ hầu mới được hưởng thụ đủ mọi thứ), nhưng câu “tuy tiếu diệc khốc” mới thực là thấm thía tình cảnh của CS TQ hiện nay (mất phương hướng, lý tưởng), bế tắc hoàn toàn nên sẽ phải đi tới “thử tượng hữu thật khứ danh tồn chi triệu, hoặc vi chu mạt 末 thì, hào lệnh bất hành, thượng ban chỉ sóc:diệc cửu hợp 久 tất phân chi trưng dã”. Đã tới thời kỳ cuối cùng rồi (nên phải phân rã mỗi vùng tự trị tự rã trả về cho các dân tộc như trước khi bị xâm chiếm).

Từ đồ hình 54 để hiểu phần tiếp diễn của đồ hình số 55:

“cụ 懼 tắc 则 sanh giới 戒”.

Thực thi pháp luật (độc tài) quá tàn ác nên các vùng (bị xâm chiếm) sợ hãi giới hạn, phòng bị, “cẩu 苟 an” (bị đè nén, nhưng bên trong rối loạn ngầm) đưa tới cảnh báo là.

“vô viễn vật 勿 giới 屆” ở những nơi xa (các nước khác) đừng nên tới (du lịch), vì đang tàng ẩn một mối nguy cơ ngầm rất lớn (nguy cơ phân rã rối loạn) đến nối người đàn bà phải chắp tay cầu trời “thủy biên hữu nữ, đối nhật tự 自 bái”.

Mà cho dù có “kí du 覬覦 thần khí 器 chung vô dụng” ((cho dầu có)(cầu) mong (hay là mong ước) thần (thánh) (rồi) sau (cũng) chẳng (có) tác dụng (hay công dụng gì cả), việc rối loạn phân rã rồi cũng sẽ phải đến.

Khi sự phân rã ra rồi thì sẽ có người họ Lưu hay họ Thạch mới thống nhất một khối dân tộc nào đó về vùng trung nguyên (chữ trung nguyên 中原: khoảng giữa của nước TQ chứ không phải là cả nước Trung Quốc).

Người họ Lưu hay Thạch này (không phải là thánh nhân hay thánh quân để thống nhất lại được toàn bộ lại TQ) vì có tiểu tâm mà muốn (hoài bão) ôm mọi người (thống nhất lại TQ), nhưng rồi lại có người khác tranh dành quyền lực (nơi trung nguyên của họ Lưu hay Thạch), các nơi khác dòm ngó và dự định chiếm lấy vùng trung nguyên, mà họ Lưu hay họ Thạch đã tập hợp số người chiếm lấy được vùng trung nguyên làm nước mới thành lập sau khi bị phân rã, nhờ có những người vì tiết nghĩa (đại thần) hết lòng phò trợ nên các nơi khác bỏ ý định chiếm lấy trung nguyên “nhất thiết ngoại vũ 侮 bất diệt tự diệt”, cho nên tuy còn rối loạn nhưng nước mới thành lập vẫn giữ được “tuy loạn nhi diệc trì dã”. Giữ lại dược nhưng “vị tất hà 河 sơn thị 是 ngã tống 送” chưa hẳn (là) sông núi ấy (đất nước TQ trước khi phân rã) đưa (tới) (hay là trở về) cho ta (TQ cũ).

Trong đồ hình này có điểm lạ so với các đồ hình khác vì có những chữ : Nữ là nữ nhân mà cũng là sao Nữ, dực là cánh chim, che chở, giúp … mà cũng là sao Dực, tâm là tim, giữa … cũng là sao Tâm, nguy là cao ngất, nguy nan và cũng là sao Nguy đều ở trong nhị thập bát tú.

 56 第五六象 己未 坤下坎上 比

谶曰: 飞者非鸟 潜者非鱼

战不在兵 造化游戏

颂曰: 海疆万里尽云烟 上迄云霄下及泉

金母木公工幻弄 干戈未接祸连天

金圣叹:「此象军用火,即乱不在兵之意。颂云,海疆万里,则战争之烈,不仅在於中国 也。

Đệ ngũ lục tượng: Kỷ vị Khôn hạ Khảm thượng Bỉ

Sấm viết: phi giả phi điểu, tiềm giả phi ngư, chiến bất tại binh, tạo hóa du hí

Tụng viết: hải cương vạn lí tẫn vân yên, thượng hất vân tiêu hạ cập tuyền, kim mẫu mộc công công huyễn lộng, kiền (can) qua vị tiếp họa liên thiên

Kim Thánh Thán: thử tượng quân dụng hỏa, tức loạn bất tại binh chi ý, tụng vân, hải cương vạn lí, tắc chiến tranh chi liệt , bất cận tại vu Trung Quốc dã

Tạm dịch:

Sấm viết: cái đó (ấy) bay (được mà) chẳng phải (là con) chim (hoả tiễn, phi tiễn, phi cơ …), cái đó (ấy) ngầm ẩn dấu (bơi lặn được trong nước mà) chẳng phải (là con) cá (tầu ngầm, thuỷ ngư …) chiến tranh chẳng ở tại binh (lính), tạo hoá (trời đất) rong chơi đùa giỡn.

Tụng viết: (từ) vạn dặm bờ (cõi trên) biển hết thẩy (tất cả đều) đầy khói lửa mù mịt, (từ) khoảng mây cao trên trời (cho) đến (tận) dưới suối nguồn (trong rừng) (khói lửa mù mịt từ trên trời dưới biển cho đến ở sâu trong rừng), cha gỗ mẹ sắt khéo làm nên sự huyễn lộng (khoa học kỹ thuật đã đến trình độ vô cùng tối tân hiện đại, làm ra những điều tưởng giả mà lại như thật, cứ như tưởng đùa mà hoá ra là thật).

Kim Thánh Thán: hình tượng này là quân lính dùng lửa (vũ khí), ý tức là loạn (giặc giã) không ở tại binh lính (đánh nhau không dùng đến binh lính cận chiến), ca tụng rằng: vạn dặm ngoài biển (biên giới, hải giới), chiến tranh thời rất ác liệt (dữ dội), chẳng (đánh cận chiến) ở tại (trên đất) Trung Quốc vậy. (chiến tranh xẩy ra bằng vũ khí hiện đại, từ nơi ở xa đánh tới, dùng phi cơ, phi tiễn, tầu ngầm, tầu chiến… để đánh vào trận địa chiến trên đất nước Trung Quốc, chứ không dùng binh lính để đánh cận chiến vào nước Trung Quốc) .

57 第五七象 庚申

谶曰: 物极必反 以毒制毒

三尺童子 四夷讋服

颂曰: 坎离相克见天倪 天使斯人弭杀机

不信奇才产吴越 重洋从此戢兵师

金圣叹:「此象言吴越之间有一童子,能出奇制胜,将燎原之火扑灭净尽,而厄运自此终矣,又一治也

Đệ ngũ thất tượng: Canh Thân Đoái hạ Đoái thượng Đoái

Sấm viết: vật cực tất phản, dĩ độc chế độc, tam xích đồng tử, tứ di triệp phục

Tụng viết: Khảm Li tương khắc kiến thiên nghê, thiên sử tư nhân nhị sát ky, bất tín kì tài sản Ngô Việt, trọng dương tòng thử tập binh sư

Kim Thánh Thán: thử tượng ngôn Ngô Việt chi gian hữu nhất đồng tử, năng xuất kì chế  thắng, tương liệu nguyên chi hỏa phác diệt tịnh tẫn, nhi ách vận tự thử chung hĩ, hựu nhất trì dã

Tạm dịch 

Sấm viết: sự vật đến cùng cực ắt hẳn (sẽ phải) trở về (trả lại như trước đây), dùng độc (độc kế, cách thức đặc biệt kì lạ) để chế ngự ác độc, đứa trẻ (cao) ba thước (chữ xích 赤 còn có nghĩa là sắc đỏ, phương Nam), bốn bên sợ (mà) bội phục.

Tụng viết: Trong cõi bầu trời bé nhỏ (lẽ của tự nhiên) thấy rõ là Li Khảm (nước lửa) khắc lẫn nhau, trời sai khiến Người ấy (Thánh nhân xuống để) khéo léo (làm cho) ngừng thôi (không còn) đánh giết (lẫn nhau nữa), chẳng (thể) tin (được là Người có) tài năng kì lạ (lại) sinh ra ở (nơi đất) Ngô – Việt, (vì) tôn trọng (đức độ của Thánh nhân to lớn) mênh mông (như biển cả cho nên các nơi) tuân theo bèn lui binh lính cất buông vũ khí.

Kim Thánh Thán: cảnh tượng này nói ở trong khoảng (đất nước của) Ngô – Việt có một người con trai, có tài năng kì lạ làm ra được (bãi binh, buông vũ khí), coi như là nguồn gốc của lửa bốc cháy (chiến tranh) (được dập tắt) tan mất (các nơi) hoàn toàn tĩnh lặng (được thanh bình), thời vận khốn ách khổ sở bèn tự nhiên mà kết thúc vậy, lại cùng (nhau) sửa chữa (xây dựng lại đất nước).   

Chú thích:

Nước Ngô – Việt: Các nước Việt nho nhỏ ở Hán Đông tan rã, nhưng lại nổi lên hai nước cùng dòng tộc Việt khác rất nổi tiếng thời Đông Châu cũng gọi là thời Xuân Thu hay Chiến Quốc, đó là nước Ngô và nước Việt.

Nước Ngô ở vào tỉnh Giang Tô ngày nay. Vua nước Ngô lúc đó là Thọ Mông. Một phản tướng của nước Sở là Khuất Vu chạy trốn qua nước Tấn nên tộc đảng bị vua Sở đem chém hết. Khuất Vu tức giận, đổi tên là Vu Thần, bày mưu cho vua nước Tấn là Tấn Cảnh Công sang giao hiếu với nước Ngô, dạy cho nước Ngô về binh pháp, chế tạo vũ khí để mượn tay nước Ngô đánh phá nước Sở. Vu Thần lại cho con là Hồ Dung sang làm quan ở nước Ngô. Từ đó nước Ngô hùng mạnh lên, chiếm các nước Việt Hán Đông của nước Sở.

Nước Ngô nổi tiếng về tài đúc kiếm. Thanh kiếm Can Tương và Mạc Gia rất nổi tiếng được sử Tàu nói đến nhiều. Vì có tài luyện kim, đúc kiếm, chế tạo vũ khí nên kho vũ khí rất dồi dào. Nước Ngô lại được phản tướng nước Sở là Ngũ Viên tự là Ngũ Tử Tư sang đầu, rèn luyện quân binh rất hùng mạnh. Nước Ngô lại được thêm Tôn Vũ là người Việt nước Ngô. Tôn Vũ là một chiến lược gia, viết bộ Binh Thư, thường được biết dưới tên “Tôn Ngô Binh Pháp” nổi tiếng cho đến ngày nay các nhà quân sự vẫn còn áp dụng. Có thể nói nước Ngô là nước mạnh nhất thời đó. Ngũ Tử Tư vì muốn báo thù vua Sở nên xúi vua Ngô đánh nước Sở. Vua Ngô là Hạp Lư đem quân đánh Sở, vào chiếm kinh đô nước Sở là Dĩnh Đô, vua Sở phải bỏ chạy. Vua Ngô Hạp Lư lập con vua Sở là công tử Thắng làm vua rồi rút quân về. Con Hạp Lư là Phù Sai nối ngôi làm vua nước Ngô, thế lực bao trùm cả các nước chư hầu nhà Châu. Ngô Phù Sai triệu tập các nước chư hầu nhà Châu để xưng Bá thay cho nước Tấn. Đây là lần đầu tiên một nước Việt tộc đã làm bá chủ các nước Hoa tộc và sau đó một nước Việt tộc khác là U Việt của Câu Tiển lên làm bá chủ thay Phù Sai.

Phía dưới nước Ngô, có nước Việt tức U Việt, nay là tỉnh Chiết Giang. Vua nước Việt là Dõan Thường chăm lo sửa sang triều chính, dùng người hiền lương, thương mến dân nên nước mỗi ngày mỗi cường thịnh. Vua nước Ngô là Dư Sái thấy thế đâm lo lắng sai tướng sang đánh nước Việt, bắt được tướng Việt là Tôn Nhân đem về chặt chân sai giữ thuyền vua. Một hôm Dư Sái ngự chơi thuyền, uống rượu say rồi ngủ quên. Tôn Nhân cởi thanh gươm của Dư Sái, đâm Dư Sái chết. Bọn nội thị xúm lại giết Tôn Nhân. Từ đó giữa nước Ngô và nước Việt có mối thù khiến hai nước cùng chung dòng giống Việt này gây chiến muốn tiêu diệt lẫn nhau.

Nước Việt cũng rất giỏi nghề luyện kim đúc kiếm, đúc đồng pha. Tương truyền vua nước Việt có 5 thanh kiếm quý do kiếm sư Âu Gia Tử luyện ra. Vua Ngô là Thọ Mông nghe tiếng muốn lấy nên vua Việt phải dâng 3 thanh kiếm, đó là các thanh Ngư Trường, Ban Dĩnh và Trạm Lư.

58 第五八象 辛酉 坎下上 困

谶曰: 大乱平 四夷服

称兄弟 六七国

颂曰: 烽烟净尽海无波 称王称帝又统和

犹有煞星隐西北 未能遍唱太平歌

金圣叹:「此象有四夷来王,海不扬波之兆。惜乎西北一隅尚未平靖,犹有遗憾,又一治 也

Đệ ngũ bát tượng: Tân Dậu Khảm hạ Đoái thượng Khốn

Sấm viết: đại loạn bình, tứ di phục, xưng huynh đệ, lục thất quốc

Tụng viết: phong yên tịnh tẫn hải vô ba, xưng vương xưng đế hựu thống hòa, do hữu sát tinh ẩn Tây Bắc, vị năng biến xướng thái bình ca

Kim Thánh Thán: thử tượng hữu tứ di lai vương, hải bất dương ba chi triệu, tích hồ Tây Bắc nhất ngung thượng vị bình tĩnh, do hữu di hám, hựu nhất trì dã

Tạm dịch

Sấm viết: loạn lớn được yên bình, bốn bên vui lòng nghe theo, cùng nhau xưng danh là anh em, (Trung Hoa chia ra làm) sáu bẩy nước (Mãn, Mông, Hồi, Tạng, Hán ….).

Tụng viết: biển lặng sóng khói lửa tan mất, hết thẩy (mọi nơi) đều được yên tĩnh, (các nước tự) xưng danh vua chúa (Mãn, Mông, Hồi, Tạng, Hán … chia ra tự lập nền chính trị riêng) tất cả lại cùng nhau (sống) hoà thuận, bởi vì sát tinh lui ẩn về phương  Tây Bắc, khắp nơi ca hát bài ca thái bình.

Kim Thánh Thán: tượng này lại có bốn bên làm vua, có điềm báo biển cả chẳng còn nổi lên sóng dữ, tiếc là đất ngoài nơi phương Bắc còn chưa được bằng phẳng yên tĩnh, còn có sự  hối tiếc, lại phải sửa trị một lần nữa vậy.

59 第五九象 壬戍 艮下上 咸

谶曰: 无城无府 无尔无我

天下一家 治臻大化

颂曰: 一人为大世界福 手执签筒拔去竹

红黄黑白不分明 东南西北尽和睦

金圣叹:「此乃大同之象,人生其际,饮和食德,当不知若何愉快也。惜乎其数已终,其或反本归原,还於混噩欤。」〈此象乃说是天下大同,地球上再无国家与政府。人种经大混种,使肤色混同,世上再无不同肤色之种族

Đệ ngũ cửu tượng: Nhâm thú Cấn hạ Đoái thượng Hàm

Sấm viết: vô thành vô phủ, vô nhĩ vô ngã, thiên hạ nhất gia, trì trăn đại hóa

Tụng viết: nhất nhân vi đại thế giới phúc, thủ chấp thiêm đồng bạt khứ trúc, hồng hoàng hắc bạch bất phân minh, Đông Nam Tây Bắc tẫn hòa mục.

Kim Thánh Thán: thử nãi đại đồng chi tượng, nhân sanh kì tế, ẩm hòa thực đức, đương bất tri nhược hà du khoái dã, tích hồ kì sổ dĩ chung, kì hoặc phản bổn quy nguyên, hoàn vu hỗn ngạc dư, thử tượng nãi thuyết thị thiên hạ đại đồng, địa cầu thượng tái vô quốc gia dữ chánh phủ, nhân chủng kinh đại hỗn chủng, sử phu sắc hỗn đồng, thế thượng tái vô bất đồng phu sắc chi chủng tộc

Tạm dịch

Sấm viết: không còn thành trì, không còn quan phủ (ẩn nghĩa là không còn chất chứa oán hận nhau nữa), không (cái này) là của anh hay của tôi, trên dưới một nhà (thế giới đại đồng), sửa chữa trừng trị (những điều sai trái) (tự) cảm hoá to lớn (ở bên trong mọi người).

Tụng viết: một người (mà) làm cho thế giới to lớn này được hướng phúc, nắm tay nhau cùng ký kết (hoà ước, thoả thuận, tương trợ …), (mọi sắc tộc) da đỏ vàng đen trắng chẳng chia rẽ (không còn kì thị sắc tộc nữa), Đông Nam Tây Bắc (các châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ, Úc) hết lòng sống cùng nhau hoà thuận thân tín kính trọng lẫn nhau.

Kim Thánh Thán: tượng này là hình tượng hoà vui cùng nhau, mọi người cùng sống giao tiếp với nhau (hoà ái), ăn uống thuận hoà cùng (sống) nhau đức độ (không tranh giành quyền lợi), đang (ở trong thời này) chẳng biết được sao (những người ở trong thời đó) lại được hưởng vui vẻ sung sướng (đến) như vậy ?, tiếc vậy (tiếc quá) đã hết số rồi, lại ngờ (rằng) phản bản (thể) (để) quay trở về nguồn gốc (cũ), trở lại ở (thời) (mà trời đất còn) hỗn độn (chưa phân chia ra) thật đáng là kinh ngạc vậy thay !.

Tượng này nói rằng thiên hạ đại đồng, trên trái dất (này) lại (trở về thời mà) chẳng có quốc gia cùng chánh phủ (cai trị) (giống như ở trên niết bàn, thiên đường hay thiên giới vậy), con người trải qua (thời kì) đại hỗn tạp chủng tộc, khiến cho mọi mầu da sắc tộc cùng hỗn hợp đồng nhất với nhau, trên thế gian này lại trở về (thời kì nguyên thuỷ) (chẳng còn phân biệt) màu da sắc tộc (với nhau nữa).

60 第六十象 癸亥 坤下上 萃

谶曰: 一阴一阳 无始无终

终者自终 始者自始

颂曰: 茫茫天数此中求 世道兴衰不自由

万万千千说不尽 不如推背去归休

金圣叹:「一人在前,一人在後,有往无来,无独有偶,以此殿图,其寓意至深远焉。无象之象胜於有象。我以不解解之,著者有知当亦许可。」

Đệ lục thập tượng: Quý Hợi Khôn hạ Đoái thượng Tụy

Sấm viết: nhất âm nhất dương, vô thủy vô chung, chung giả tự chung, thủy giả tự thủy

Tụng viết: mang mang thiên sổ thử trung cầu, thế đạo hưng suy bất tự do, vạn vạn thiên thiên thuyết bất tẫn, bất như thôi bối khứ quy hưu

Kim Thánh Thán: nhất nhân tại tiền, nhất nhân tại hậu, hữu vãng vô lai, vô độc hữu ngẫu, dĩ thử điện đồ, kì ngụ ý chí thâm viễn yên, vô tượng chi tượng thắng vu hữu tượng, ngã dĩ bất giải giải chi, trứ giả hữu tri đương diệc hứa khả.

Tạm dịch

Sấm viết: một âm một dương, chẳng trước không sau, sau lại tự nhiên sau, trước lại tự nhiên trước.

Tụng viết: số (vận của) trời (thật là) mênh mông ấy thế (mà lại) tìm (trở về) sự quân bình, đạo lí của (trần) thế thịnh suy chẳng bởi tự nhiên do (mình làm ra) (mà là đạo lí của trời đất tự nhiên là như vậy), muôn ngàn lời nói chẳng (diễn tả) ra được hết, chẳng bằng (như) thôi bối (đẩy vai nhau) đi (rồi) về (lại) nghỉ ngơi.

Kim Thánh Thán: một người đàng trước một người sau, có đi chẳng lại, chẳng đơn có đôi, lấy thế (làm thành) đồ hình, lại ngụ ý rất thâm sâu xa vậy, chẳng tượng hình (mà lại) thành ra hình tượng, có được ở nơi hình tượng, ta chẳng thể giải thích (được hết thấu đáo) vậy, (Thôi Bối Đồ) trứ danh (như vậy) ấy thế (mà) (người) đang (thời) có biết (đến thì cũng chỉ nói) … ừ (cũng tạm) được !!!

61 第六十一象 歲星逆讖曰: 歲星逆行 諸事不吉 一二九六 換課為宜

頌曰:

Đệ lục thập nhất tượng  Tuế tinh nghịch hành

Sấm viết: Tuế tinh nghịch hành, chư sự bất cát, nhất nhị cửu lục, hoán khóa vi nghi (Tuế tinh “sao Thái Tuế – Mộc tinh” đi ngược, mọi việc chẳng tốt, một hai chín sáu, quẻ thay đổi nên mới gây ra như vậy – )

 

THIÊU BÍNH CA

và Dự ngôn trên bia đá của Lưu Bá Ôn tại núi Thái Bạch tỉnh Thiểm Tây,

胡人至此亡久矣 四大八方有文星

品物咸亨一样形 琴瑟和谐成古道

早晚皇帝又中兴 五百年间出圣君

圣君尚问真人出 周流天下贤良辅

气运南方出将臣 圣人能化乱渊源

八面夷人进贡临 宫女勤耕望夜月

乾坤有象重黄金 北方胡虏害生灵

更令南军诛灭形 匠马单骑安外国

众将揖让留三星 三元复转气运开

大修文武圣主裁 上下三元无倒置

衣冠&# 25991; ୰ 9;一齐来 七元无错又三元

大开文风考对联 猴子满盒鸡逃架

犬吠猪鸣太平年 文武全才一戊丁

流离散乱皆逃民 爱民如子亲兄弟

创立新君修旧京 千言万语知虚实

留与苍生作证盟

这里一看便知中269;将会成为超级大 国 而且伟人将出

参考资料:

THIÊU BÍNH CA

燒 餅 歌

Thiêu Bính ca là một thể loại tiên tri rất khó hiểu, bởi viết theo cách chiết tự để gọi họ tên nhân vật, sự kiện, lý do … cho một triều đại thịnh suy trị loạn tồn vong …, như gọi họ vua nhà Minh mà viết là : thụ thượng quải khúc xích  樹 上 掛 曲 尺 đó là chữ Chu  朱, giải : trên cây treo thước cong, vì chữ thụ thượng là trên cây, chữ chu  朱 có chữ mộc  木 là cây gỗ, quải 掛 là treo, khúc xích 尺 là thước cong, tức là có treo thước cong ở trên chữ mộc 木 đó là chữ chu 朱, hoặc như tên vua cuối cùng nhà Minh là Sùng Trinh 崇 楨 lại gọi là : tổ tôn sơn thượng bối y hành  (lược bớt chữ Nho), vì chữ Sùng có chữ sơn ở trên chữ tôn, chữ Trinh  có chữ y  ở bên chữ bối  và có chữ thượng ở trên …… .Tất cả các tên vua, nhân vật thời đại, sự kiện … đều dùng cách thức cầu kỳ hóc hiểm như vậy.

Vì cố giảm lược tránh quá dài, chỉ đặc biệt chú ý đến hai quẻ :

Hỏa Phong Đỉnh : lưỡng hỏa sơ hưng định thái bình.

Hỏa Sơn Lữ : Ngân hà Chức Nữ nhượng Ngưu Tinh.

Nghĩa là: quẻ Hỏa Phong Đỉnh: hai hỏa mới (lên) hưng thịnh thái bình. Quẻ Hỏa Sơn Lữ: sao Chức Nữ sông Ngân Hà nhường (ngôi cho) sao Ngưu Tinh, câu này liên quan đến những câu trong Sấm Trạng nói về Ngưu Tinh:

Khi Lý Thường Kiệt xác quyết: “Nam quốc sơn hà … tiệt nhiên định phận tại thiên thư” (1076) thì có thể hiểu Thiên thư là bản đồ chiêm tinh ghi rõ biên giới nước Đại Việt” Theo sách Thiên quan, từ sao Đẩu mười một độ qua sao Khiên Ngưu đến sao Chức Nữ bảy độ là tinh kỷ. Kể về sao thì ở về ngôi Sửu … (trích theo Việt Sử Tiêu Án ).

Qua hai câu tiên tri của Thiêu Bính ca Lưu Bá Ôn thì ông đã nhìn thấy sao Chức Nữ là chủ mệnh tinh của dân tộc Hoa – Hán đã nhường ngôi cho sao chủ mệnh tinh Khiên Ngưu của dân tộc Bách Việt, mà điển hình là dòng giống Lạc Việt còn lại hiện nay chưa bị đồng hoá (văn hoá, tập quán, xã hội …) triệt để như những người Bách Việt khác ở trên đất Trung Hoa

Nam Việt hữu Ngưu Tinh …

Ngưu tinh tụ Bảo giang ….

Các nhà Thiên Văn Học chia bầu trời ra 4 hướng : Đông Tây Nam Bắc . Mỗi hướng gồm có 7 chùm sao . Hay là 4 hướng x 7 chùm sao = 28 chùm sao . Ngày nay chúng ta thường gọi là Nhị Thập Bát Tú

Bảy chòm sao hợp lại thành một phương trời và được biểu tượng thành một con vật có mầu sắc theo sự phối thuộc của ngũ hành.

– Phương Bắc là con rùa đen gọi là Hoa Cái (Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích).

– Phương Tây là con hổ trắng gọi là Bạch Hổ (Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chuỷ, Sâm).

– Phương Nam là con phượng đỏ gọi là Phượng Các (Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn).

– Phương Đông là con rồng xanh, gọi là Thanh Long (Giốc, Cang, Đê, Phòng Tâm Vĩ, Cơ).

Phương Bắc – Hoa Cái

Đẩu Mộc Giải : Cua

Ngưu Kim Ngưu : Trâu

Nữ Thổ Bức : Dơi

Hư Nhật Thử : Chuột

Nguy Nguyệt Yến : Én

Thất Hoả Trư : Lợn

Bích Thuỷ Du : Dím

Hai câu trên sau câu Hỏa tinh lai hạ giới  đã ám chỉ nghĩa hẹp là Mao Trạch Đông lên lãnh đạo cuộc C.M đỏ (lửa đỏ, máu đỏ …), còn nghĩa rộng là chủ nghĩa CS phát triển (Hỏa tinh quân) trên toàn thế giới, đem máu lửa đỏ xuống trần gian.

Nên hai quẻ Đỉnh và Lữ là nói đến thời gian sau thi chủ nghĩa CS (sao Hỏa Tinh) sụp đổ trên toàn thế giới và tiên đoán về giai đoạn sau thời của Mao Trạch Đông (sao Hỏa Tinh mờ dần từ khi Mao Trạch Đông bị bệnh rồi chêt).

Hỏa đức tinh quân lai hạ giới

Kim diện lâu đài tận Bính Đinh

Nhất cá Hồ tử đại tướng quân

Án kiếm trì mã sát tình hình

Trừ bạo khử hoạn nhân đa ái

Vĩnh hưởng cửu châu kim mãn doanh

Lược dịch :

Sao hỏa tinh giáng thế

Khiến cho điện các lâu đài mọi nơi đều lửa đỏ (Bính Đinh)

Một gã Hồ tử đại tướng quân

Cắp gươm ruổi ngựa xem xét tình hình

Trừ bạo khử hoạn nhiều người thương mến

Hưởng thụ lâu dài vàng đầy rương

Giải luận :

Một gã Hồ tử 鬍子, chữ Hồ này có nghĩa là lông, râu mặt, râu quai nón là ám chỉ Mao Trạch Đông (mao là lông, râu, tóc) thời mới xuất hiện, được dân chúng (lúc đầu mê lầm mà) yêu mến, tin tưởng đi theo làm cuộc C.M đỏ khiến cho sự máu lửa (Hỏa tinh) ghê gớm chưa từng có ở TQ, các di sản cổ xưa như đền đài miếu mạo chùa chiền .. đã bị đốt phá rất nhiều (Kim diện lâu đài tận Bính Đinh).

Đoạn cuối cùng của Thiêu Binh ca lại cực kỳ đặc biệt và quan trọng hơn nữa từ câu Tứ lục bát phương quan Văn Tinh …, bởi vì từ khi sao Hỏa Tinh mờ đi rồi sẽ biến mất (sao Hỏa Tinh mờ dần từ khi Mao Trạch Đông bị bệnh rồi chêt) thì sao Văn Tinh xuất hiện dần dần sáng tỏ khiến toàn cầu nhân loại quan vọng quan chiêm, đó là Vận hội mới của thời sao Văn Tinh (Thánh Nhân) bắt đầu mở ra, Thánh Nhân xuất hiện đó là khí vận của phương Nam (Ngân hà Chức Nữ nhượng Ngưu Tinh), và cũng là khí vận của Thánh Nhân (sao Văn Xương) xuất hiện (Tứ lục bát phương quan Văn Tinh). Sấm Trạng:

Năm Giáp Tý vẻ Khuê (Văn Xương) đã rạng …

Nếu nói về thời gian sao Hỏa tinh lu mờ (C.N C.S), sao Văn Tinh đã rạng thì năm Giáp Tý có thể là năm 1984 là những năm khởi đầu của sự lối loạn trong khối C.S L.X dẫn đến sụp đổ C.N C.S trên toàn thế giới.

Hai câu này để kết luận:

Hầu tử mãn hạp Kê đào giá

Khuyển phệ Trư minh thái bình niên

Đó là thời gian kinh hoàng của nhân loại trước khi Thánh Nhân xuất hiện cứu vớt nhân loại

Khổng Minh Mả tiền khoá: 

Chửng hoạn cứu nạn

Duy thị Thánh Nhân …

Thiêu Bính ca:

Khí vận Nam phương xuất tướng thần

Thánh Nhân năng hóa loạn uyên nguyên …

Thôi Bối đồ:

Sấm viết: sự vật đến cùng cực ắt hẳn (sẽ phải) trở về (trả lại như trước đây), dùng độc (độc kế, cách thức đặc biệt kì lạ) để chế ngự ác độc, đứa trẻ (cao) ba thước (chữ xích 赤 còn có nghĩa là sắc đỏ, phương Nam), bốn bên sợ (mà) bội phục.

Tụng viết: Trong bầu trời nhỏ bé (lẽ của tự nhiên) thấy rõ là Li Khảm (nước lửa) khắc lẫn nhau, trời sai khiến Người ấy (Thánh nhân xuống để) khéo léo (làm cho) ngừng thôi (không còn) đánh giết (lẫn nhau nữa), chẳng (thể) tin (được là Người có) tài năng kì lạ (lại) sinh ra ở (nơi đất) Ngô – Việt, (vì) tôn trọng (đức độ của Thánh nhân to lớn) mênh mông (như biển cả cho nên các nơi) tuân theo bèn lui binh lính cất buông vũ khí.

 Sấm Trạng:

Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu

Gà kia vỡ tổ chập chùng bay

 Và rất nhiều câu Sấm Trạng nói về Thánh Nhân xuất hiện để cứu đời. Hai câu rất chú ý trong Sấm Trạng là:

Song thiên nhật rạng sáng soi

Thánh nhân chẳng biết, thì coi cho tường …

Hữu xương hồ nhân thập

右 昌 乎 人 十

Hữu sí hồ song thiên

右 熾 乎 雙 天

Hai mặt trời trên đất Việt

Dự ngôn trên bia đá của Lưu Bá Ôn tại núi Thái Bạch tỉnh Thiểm Tây

Hồ nhân chí thử vong cửu hĩ

Tứ lục bát phương quan Văn Tinh

Phẩm vật hàm hanh nhất dạng hình

Cầm sắt hòa hài thành cổ đạo

Tả hưng đế hựu trung hưng

Ngũ bách niên gian xuất Thánh Quân

Thánh Quân thượng vấn Chân Nhân xuất

Chu lưu thiên hạ hiền lương phụ

Khí vận Nam phương xuất Tướng Thần

Thánh Nhân năng hóa loạn uyên nguyên

Bát diện di nhân tiến cống lâm

Cung nữ cần canh vọng dạ nguyệt

Kiền Khôn hữu tượng trọng hoàng kim

Bắc phương hồ lỗ hại sanh linh

Canh lệnh Nam quân tru diệt hình

Tượng mã đan kị an ngoại quốc

Chúng tương ấp nhượng lưu tam tinh

Tam nguyên phục chuyển khí vận khai

Đại tu văn vũ thánh chủ tài

Thượng hạ tam nguyên vô đảo trí

Y quan văn vật nhất tề lai

Thất nguyên vô thác hựu tam nguyên

Đại khai văn phong khảo đối liên

Hầu tử mãn hạp Kê đào giá

Khuyển phệ Trư minh thái bình niên

Văn vũ toàn tài ngộ Mậu Đinh (戊 丁 : 成 thành)

Huyết lâm thiên lý vạn dân đào

Ái dân như tử thân huynh đệ

Sang lập tân quân tu cựu kinh

Thiên ngôn vạn ngữ tri hư thật

Lưu dữ thương sanh tác chứng minh.

Lời dịch giả:

Lịch sử Trung Quốc trải qua nhiều triều đại vua chúa, mỗi một triều đại đều có người tu Đạo, nên đã có một số dự ngôn để lại đời sau, như bài thơ dự ngôn của Bộ Khư Đại Sư đời nhà Từ, “Bài đẩy lưng” của Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cang đời nhà Đường (bên cạnh Lý Thái Dân). “Mã tiền khóa” của Khổng Minh thời kỳ chiến quốc. “Mai hoa thơ” củaThiện Ung đời nhà Tống. Bài “Bánh Chiên Ca” của Lưu Bá Ôn đời nhà Minh (bên cạnh Chu Nguyên Chương).

Đến hôm nay thì tất cả dự ngôn ấy đã có người giải ra rất chính xác với chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Người tu Đạo không cầu danh lợi nên những gì họ để lại đời sau chắc chắn không phải khoe tài, có lẽ chỉ nhằm mục đích cảnh tỉnh đời sau là sự việc trên đời đều đã có sự sắp xếp của Trời. Tất cả bài đều nhắc đến cùng một việc là đừng nên bỏ lỡ việc lớn nhứt ở trên đời sẽ xảy ra. Hôm nay có lẽ tất cả những Thần ấy đều có mặt tại đây để nắm giữ cơ hội cuối cùng này. Bài dưới đây là một bài khác của Lưu Bá Ôn đã phát hiện ở trên bia đá, tạm dịch nghĩa nên chắc chắn không chính xác, chỉ để hiểu sơ đại ý bài thơ.

Thiên có nhãn, Địa có nhãn, người người cũng có một đôi nhãn. Thiên cũng lật, Địa cũng lật, tiêu diêu tự tại lạc vô biên. Kẻ nghèo một vạn lưu một ngàn, kẻ giàu một vạn lưu hai ba. Giàu nghèo nếu không hồi tâm chuyển, nhìn xem ngày chết ở nhãn tiền(trước mắt).

Bình địa không có ngũ cốc trồng. Cẩn phòng tứ phương tuyệt khói người. Nếu hỏi ôn dịch hà thời hiện, nên xem giữa tháng 9 tháng 10 mùa đông. Người làm việc thiện thì được thấy, người làm việc ác không được xem. Trên đời có người hành đại thiện, lây bởi kiếp này thật không đáng.

Còn có mười sầu ở trước mắt.

Nhứt sầu thiên hạ loạn khắp nơi. Nhị sầu đông tây người đói chết. Tam sầu hồ rộng bị đại nạn. Tứ sầu các tỉnh khởi lang khói. Ngũ sầu nhân dân không an nhiên. Lục sầu mùa đông giữa tháng chín tháng mười. Thất sầu có cơm không người ăn. Bát sầu có người không áo mặc. Cửu sầu thi thể không người liệm. Thập sầu khó qua năm heo chuột. Nếu được qua khỏi đại kiếp niên, mới tính là thế gian bất lão tiên.

Dù cho là thiết La Hán làm bằng đồng, khó qua mùng mười ba tháng bảy. Cho dù bạn là Kim Cang Thiết La Hán, trừ phi thiện mới được bảo tồn. Cẩn phòng người người khó khăn qua. Ngãi qua thiên phiên năm Rồng Rắn. Ấu nhi giống như Chu Hồng Võ, Tứ Xuyên còn khổ hơn Hán Trung.

Sư tử gầm như Lôi, hơn hẳn trăm cọp hung. Tây giác hiện ra đuôi, bình địa gặp mãnh dược. Nếu hỏi thái bình niên, dựng cầu nghinh tân chủ. Thượng nguyên giáp tử đến, Người người ha ha tiếu. Hỏi bạn cười cái gì? Nghinh tiếp tân địa chủ. Trên quản đất ba tất, tối không nạn trộm cướp. Tuy là mưu vì chủ, chủ ngồi thổ trung ương.

Nhân dân gọi chân chủ, tiền bạc là cái bửu, nhìn thấu dùng không được, nếu thật là cái bửu, lòng đất nứt không ngã.

Bảy người nhứt lộ tẩu, dụ dỗ đã vào khẩu.

Ba chấm cộng một mốc (Chữ Hán ghép lại là chữ Tâm),

Bát Vương nhị thập khẩu (Chữ Hán ghép lại thành chữ Thiện).

Người người đều hỷ hả vui cười, ai ai cũng bình an.

Share this:

  • Facebook
  • X
Like Loading...

Related

Từ khóa » Bộ Sách Mã Tiền Khóa