Kinh Di Lặc Bồ Tát - Phật Giáo A Lưới

KINH PHẬT NÓI VỀ THỆ NGUYỆN ĐỜI TRƯỚC CỦA BỒ TÁT DI LẶC

Dịch từ Phạn sang Hán Văn Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chí, Việt ngữ Tỳ kheo Thích Thiện Nhơn

LỜI NÓI ĐẦU

Kinh Bồ tát Di Lặc, là tên gọi chung các Kinh nói về Hành trạng Bồ tát Di Lặc, được Đức Phật trình bày trong các Kinh tạng như Kinh Chuyển Luân Vương Sư Tử Hống số 26 Trường Bộ Kinh (Thượng tọa bộ); Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu hành số 6, Trường A Hàm (Hữu bộ); Kinh Thuyết Bổn số 66, Trung A Hàm (Hữu bộ); Kinh số 3 Phẩm 10 Pháp Bất Thiện số 48, Tăng Nhất A Hàm (Hữu bộ); Kinh Phật nói về Thệ nguyện đời trước của Bồ tát Di Lặc, Kinh nói về Bồ tát Di Lặc sinh lên cõi trời Đâu Suất, Kinh Di Lặc hạ sanh thành Phật (Đại chúng bộ), Kinh Pháp Hoa (Đại thừa) v.v… Dù là Thượng tọa bộ, Hữu bộ, Đại chúng bộ hay Đại thừa, dù Nam truyền, Bắc truyền, Pàli, Sankrit, Hán ngữ v.v… tất cả đều đồng nhất một quan điểm chung: Bồ tát Di Lặc là một vị Phật trong tương lai, sẽ làm Giáo chủ cõi Ta bà, thay thế cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và Đức Phật Thích Ca trở thành vị Phật quá khứ.

Di Lặc dịch từ chữ Pali (Mettaya) là Từ Thị, họ Từ, tên húy là A Dật Đa (Ajita), Vô Năng Thắng, có nghĩa là các thứ giặc trong và ngoài đều không thể thắng phục được Ngài. Ngược lại, Ngài đã thắng phục tất cả. Đó là giặc 6 đối tượng: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp không làm cho 6 thức chạy theo để phân biệt, làm động và nhiễm ô Tâm thức, do đó được thanh tịnh. Nói thế có nghĩa là 6 thức: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý thức không duyên theo, không phân biệt, không đắm nhiễm 6 đối tượng, được tự tại vô ngại. Hình ảnh cụ thể là các đứa bé vây quanh thân hình Ngài, một bé thì sờ con mắt (nhãn căn, nhãn thức), một bé thì sờ tai (nhĩ căn, nhĩ thức), một bé thì sờ mũi (tỷ căn, tỷ thức), một bé thì sờ miệng (thiệt căn, thiệt thức), một bé thì sờ rốn (thân căn, thân thức), còn ý thức vì vô tướng nên không có hình tượng. Như vậy, dù 6 căn, 6 trần, 6 thức tiếp cận nhau, nhưng không có làm cho Ngài động tâm, và lúc nào cũng an vui, tự tại, nở một nụ cười hoan hỷ trên môi.

Còn giặc trong là phiền não, tham sân si không phát động, tâm hồn bình ổn, bao dung, độ lượng, mang tính Từ Bi Hỷ Xả. Như Kinh Từ Bi nói: “Tâm từ rãi khắp muôn phương.Tâm bi rãi khắp 10 phương chan hòa. Trong lòng nở một đóa hoa. Chúng sinh lợi lạc chan hòa tình thương”. Cho nên chúng sinh gọi Ngài là đấng Đại Từ bi Hỷ Xả, đại Hoan hỷ v.v… Theo truyền thuyết, Ngài giáng sinh ngày mùng 01 tết âm lịch, nên đầu năm, mùa xuân, gọi là Xuân Di Lặc hay Xuân Hoan hỷ v.v…

Thời gian Bồ tát Di Lặc xuất hiện thế gian, qua tổng hợp các Kinh đều thống nhất chung: Khi con người sống 80.000.000 tuổi, thì Bồ tát Di Lặc giáng sanh cõi trần, tu hành thành Phật, dưới cội Long Hoa tại cõi Diêm Phù - Ấn Độ ngày nay.

Nói rõ hơn, Ngài sẽ giáng sanh vào kiếp giảm thứ 10 trong 4 kiếp lớn của thế giới Ta bà. Vì hiện nay, loài người đang sống trong kiếp giảm thứ 9. Vì một kiếp lớn có 4 chu kỳ Thành, Trụ, Hoại, Không. Kiếp có 20 Tiểu kiếp, một Tiểu kiếp có một lần tăng, một lần giảm. Theo lý luận các kinh Phật xác định: Khi Đức Phật Thích Ca ra đời, là kiếp giảm thứ 9 của chu kỳ kiếp Trụ hiện nay và tuổi thọ con người là 100 tuổi. Đức Phật nhập diệt 2.556 năm, cứ 100 năm giảm 01 tuổi, như vậy đã giảm 25 tuổi. Do đó, tuổi thọ cao nhất hiện nay của con người là 75 tuổi (trừ trường hợp ngoại lệ). Cứ 100 năm giảm 01 tuổi và giảm đến 10 tuổi thì dừng lại. Như vậy, còn 65 tuổi, có nghĩa là 65.000.000 năm thì dừng lại lúc con người tuổi thọ còn 10 tuổi.

Và kiếp tăng, 100 năm tăng 01 tuổi, như vậy từ 10 tuổi tăng lên đến 84.000 tuổi. Có nghĩa là 8.400.000 năm. Rồi bắt đầu giảm đến 80.000 tuổi, có nghĩa là 40,000 năm, thì Bồ tát Di Lặc giáng sanh thành Phật. Như vậy, thời gian Đức Phật Di Lặc ra đời tạm cụ thể như sau: 65.000 năm + 8.400.000 năm + 40.000 năm = 8.505.000 năm.

Về Pháp hội khác với Đức Phật Thích Ca, vì Đức Phật Thích Ca ra đời nhằm lúc thế giới có 5 điều xấu ác, chu kỳ thế giới và mạng sống giới hạn trong 4 chu kỳ thành trụ hoại không (kiếp trược), mạng sống ngắn ngũi (mạng trược), có nhiều thứ tà kiến sai lầm (kiến trược), phiền não vô lượng vô biên, vô số (phiền não trược), chúng sanh thiên ác, sai biệt, nghiệp chướng đau khổ đủ điều, đủ thành phần chung sống với nhau là Ngũ thú tạp cư (chúng sanh trược), nên Đức Phật Thích Ca phải thuyết pháp nhiều hội = 300 hội, trình bày nhiều pháp môn 84.000 pháp môn để hóa độ chúng sanh. Trái lại, thời kỳ Phật Di Lặc ra đời là thời kỳ cực thiện, hoàn toàn thanh tịnh, chúng sinh hoàn toàn là tịnh nghiệp, do đó, chỉ nói Pháp có 03 Hội lớn và một số Pháp hội nhỏ. Hội thứ nhất, có 96 ức (960.000.000 người) chứng quả A la Hán; Hội thứ hai có 94 ức (940.000.000 người) chứng quả A la Hán; Hội thứ ba có 92 ức (920.000.000 người) chứng quả A la Hán, gọi là Long Hoa Tam Hội.

Điều kiện để tham dự 03 Pháp hội như Đức Phật Thích Ca đã dạy: Những chúng sinh nào tu tập một trong 10 pháp thiện sau đây thì nhất định được dự vào Pháp hội Long Hoa của Đức Phật Di Lặc trong tương lai. 1.Hiếu thảo cha mẹ. 2.Quy kính Tam bảo Phật, Pháp, Tăng. 3.Giữ gìn 5 giới thanh tịnh. 4.Tu tập 08 giới ngăn ngừa tội ác (Bát Quan trai giới). 5.Tu tập 10 điều thiện. 6.Quán ba Pháp ấn: Vô thường, Khổ, Vô ngã. 7.Tu tập ba Môn giải thoát: Không, Vô tướng, Vô nguyện. 8.Tu tập bốn Tâm vô lượng: Từ Bi Hỷ Xả. 9.Tu tập bốn Chơn Đế Lý: Khổ Tập Diệt Đạo đế. 10.Tu tập sáu Pháp Ba la mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ.

Trên đây là những vấn đề cụ thể và chuẩn xác như Đức Phật dạy, để có đủ điều kiện trở thành đệ tử Phật Di Lặc trong tương lai và được tham dự 03 Pháp hội, quy y trở thành đệ tử của Phật Di Lặc là Từ Tử như ngày nay, tất cả chúng ta là Thích Tử, con dòng họ Thích Ca vậy.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 03/12/2012

Tỳ kheo Thích Thiện Nhơn

Kính ghi

KINH PHẬT NÓI VỀ THỆ NGUYỆN ĐỜI TRƯỚC CỦA BỒ TÁT DI LẶC

Dịch từ Phạn sang Hán Văn Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chí

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật trú tại rừng nai, nước Ba La Nại, cùng đại chúng Tỳ kheo năm trăm người hiện diện đầy đủ, tất cả các vị đều là bậc tri thức của đại chúng. Tên các Ngài là A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, A Nan, La Hầu La v.v... đều là bậc thượng thủ (đứng đầu) trong chúng. Lại có các vị Bồ tát, một vạn người đông đủ. Tên các Ngài là Bồ tát Thiên Ý, Bồ tát Tăng Thượng Ý, Bồ tát Kiên Cố Ý, Bồ tát Sư Tử Ý, Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, Bồ tát Biên Tích, Bồ tát Mỹ Âm, Bồ tát Thắng Tràng, Bồ tát Tín Tuế, Bồ tát Thủy Thiện, Bồ tát Đế Thắng, Bồ tát Đế Thiên, Bồ tát Vô Phan Duyên, Bồ tát Cụ Biện Tài, Bồ tát Thần Thông Diệu Hoa, Bồ tát Di Lặc, Bồ tát Văn Thù Pháp Vương Tử v..v.. là bậc đứng đầu trong đại chúng. Bấy giờ Đức Thế Tôn vì vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, cung kính, cúng dường mà nói pháp. Khi ấy, có Bồ tát Di Lặc ở trong đại chúng từ chổ ngồi đứng dậy, vén áo cánh tay phải quỳ gối, chấp tay đảnh lễ Đức Phật và thưa: Bạch Thế Tôn, con có một số ít điều nghi, xin muốn hỏi, cúi mong Đức Như Lai rủ lòng cho phép. Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Nay Ông có điều gì nghi ngờ thì cứ hỏi, Ta sẽ vì ông giải thích khiến ông vui lòng. Bấy giờ nghe Đức Phật hứa khả, Bồ tát Di Lặc vui mừng phơi phới, bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, Bồ tát thành tựu bao nhiêu pháp, xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Đức Phật đáp: “Nầy Di Lặc lành thay lành thay, nay ông vì thương chúng sanh, muốn an lạc Trời, người, thế gian, mà có thể hỏi Như Lai ý nghĩa sâu xa như thế, ông hãy lắng nghe, suy nghĩ nhớ kỹ Ta sẽ phân biệt, giải thích, nói rõ cho ông nghe”. Bồ tát Di Lặc bạch Phật: “Xin Đức Thế Tôn hãy nói, con nguyện muốn nghe”. Đức Phật bảo Bồ tát Di Lặc: “Bồ tát thành tựu một pháp, xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là một pháp? Là phát tâm ưa thích tâm Bồ đề thù thắng. Đó là một pháp”. Nầy Di Lặc lại có hai pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là hai? Một là, đối với Định siêng năng tu tập. Hai là, đối với Tuệ siêng năng tu tập. Đó là hai pháp. Nầy Di Lặc lại có ba pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là ba? Một là, thành tựu đại bi. Hai là, tu tập pháp không. Ba là, đối với tất cả pháp không sinh tâm phân biệt. Đó là ba pháp. Nầy Di Lặc có bốn pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là bốn? Một là, an trụ Tịnh giới. Hai là, xa lìa lưới nghi. Ba là, thích ở nơi thanh vắng. Bốn là, khởi tâm chánh kiến. Đó là bốn pháp.

Nầy Di Lặc lại có năm pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là năm? Một là, an trụ không pháp. Hai là, không tìm bới lỗi người khác. Ba là, thường quán sát lại mình. Bốn là, ưa thích chánh pháp. Năm là, bảo hộ người khác. Đó là năm pháp. Nầy Di Lặc lại có sáu pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là sáu? Một là, không có tham dục. Hai là, không sinh sân hận. Ba là, không có khởi ngu si. Bốn là, thường xa lìa lời nói thô lỗ. Năm là, an trụ tánh không. Sáu là, Tâm như hư không. Đó là sáu pháp.

Nầy Di Lặc lại có bảy pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là bảy? Một là, an trụ chánh niệm. Hai là, thành tựu sự lựa chọn pháp tu. Ba là, phát khởi tinh tấn. Bốn là, thường sinh hoan hỷ. Năm là, thân được nhẹ nhàng. Sáu là, trụ các thiền định. Bảy là, đầy đủ hành xả. Đó là bảy pháp. Nầy Di Lặc lại có tám pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là tám? Một là, chánh kiến. Hai là, chánh tư duy. Ba là, chánh ngữ. Bốn là, chánh nghiệp. Năm là, chánh mệnh. Sáu là, chánh cần. Bảy là, chánh niệm. Tám là, chánh định. Đó là tám pháp. Nầy Di Lặc lại có chín pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là chín? Một là, xa lìa các pháp ác, dục bất thiện, an trú sơ thiền, có tầm tứ, hỷ lạc, nhất tâm, tâm nhất cảnh tánh. Hai là, xa lìa tầm tứ, an trụ nhị thiền, nội tĩnh, hỷ lạc, nhất tâm, tâm nhất cảnh tánh. Ba là, xa lìa hỷ, an trú tam thiền, xả niệm huệ lạc, tâm nhất cảnh tánh. Bốn là, xa lìa ưu khổ, cho đến hỷ lạc, an trú tứ thiền, xả niệm thanh tịnh, không khổ, không lạc, tâm nhất cảnh tánh. Năm là, vượt qua sắc tưởng, không duyên cảnh khác, an trú không vô biên xứ định. Sáu là, vượt qua không vô biên xứ định rồi, có thể an trú thức vô biên xứ định. Bảy là, vượt qua thức vô biên xứ định rồi, an trú vô sở hữu xứ định. Tám là, vượt qua vô sỡ hữu xứ định rồi, an trú phi tưởng, phi phi tưởng xứ định. Chín là, vượt qua phi tưởng, phi phi tưởng xứ định rồi, có thể an trú diệt thọ tưởng định. Đó là chín pháp. Nầy Di Lặc lại có mười pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức, mau chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế nào là mười? Một là, có thể thành tựu Kim cang tam muội. Hai là, thành tựu Xứ phi Xứ tương ưng tam muội. Ba là, thành tựu Phương tiện hạnh tam muội. Bốn là, thành tựu Biến chiếu minh tam muội. Năm là, thành tựu Phổ quang minh tam muội. Sáu là, thành tựu Phổ biến chiếu minh tam muội. Bảy là, thành tựu Bảo nguyệt tam muội. Tám là, thành tựu Nguyệt đăng tam muội. Chín là, thành tựu Xuất ly tam muội. Mười là, Thắng tràng tý ấn tam muội. Đó là mười pháp. Nầy Di Lặc Bồ tát thành tựu các pháp như thế rồi, thì xa lìa ác đạo, ác tri thức, mau chứng quả được vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy Bồ tát Di Lặc nghe được pháp nầy rồi, lòng rất hoan hỷ, vén áo vai phải, gối chấm đất, chấp tay cung kính ở trước Đức Phật dùng bài kệ khen rằng:

Phật ở kiếp quá khứ

Bỏ vợ con yêu quí

Đầu mắt và tủy não

Đến được bờ Bố thí

Phật thường hộ cấm giới

Như trâu mến tiếc đuôi

Tối thắng không ai bằng

Đến được bờ trì giới

Phật dùng sức nhẫn nhục

Xa lìa sự tranh cãi

Không tìm lỗi ác người

Đến được bờ nhẫn nhục

Phật dùng sức tinh tấn

Được vắng lặng tuyệt đối

Cứu cánh thường an lạc

Đến được bờ siêng năng

Phật dùng sức Thiền định

Diệt trừ các tội nhỏ

Thầy dẫn đường Trời Người

Đến được bờ Thiền định

Phật dùng sức trí tuệ

Khéo biết rõ các pháp

Tự tánh không thật có

Đến được bờ trí tuệ

Phật dưới cội Bồ đề

Hàng phục các ma quân

Đầy đủ trí tối thắng

Thành tựu đạo vô thượng

Đạo sư sức vô úy

Ở xứ Ba la nại

Chuyển pháp luân thanh tịnh

Đánh đỗ các ngoại đạo

Đại trí tuệ vô thượng

Vượt qua cả thế gian

Phóng ánh sáng thanh tịnh

Khéo nói các pháp yếu

Sắc thân Như Lai tịnh

Trí tuệ và công đức

Vượt hẳn các thế gian

Đến được bờ giải thoát.

Khi ấy, Tôn giả A Nan bạch Phật: Thưa Thế Tôn, Bồ tát Di Lặc này thật là hiếm có, có thể thành tựu vô lượng biện tài, tùy theo tâm niệm của chúng sanh mà bình đẳng nói pháp, không có sự chấp trước về văn tự.

Đức Phật bảo A Nan! Đúng vậy, đúng vậy như lời Ông nói, nầy A Nan, Bồ tát Di Lặc, không phải nay đây ở trước ta dùng kệ tán thán Phật, mà trải qua mười vô số kiếp quá khứ, lúc ấy có Phật ra đời, hiệu là Diệm Quang Du Hý Diệu Âm Tự Tại Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.

Bấy giờ có con một vị Bà la môn tên là Hiền Thọ, đầy đủ các tướng tốt, trông thấy đều vui mừng, từ trong vườn đi ra, thấy Đức Như Lai Diệm Quang Du Hý Diệu Âm Tự Tại Vương nghiêm trang thù thắng, hơn hết, các căn vắng lặng, được đại Thiền định, như ao nước lặng trong, không có cấu bẩn, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tự trang nghiêm thân thể, như hoa Ta la thọ nở rộ, như núi Tu di, vượt hơn tất cả, gương mặt đẹp đẽ, đầy đặn như trăng rằm, ánh sáng rực rỡ uy nghiêm, như mặt trời chiếu sáng, hình dáng đầy đủ tròn trịa, như cây Ni câu đà.

Khi ấy Hiền Thọ thấy Đức Như Lai thân tướng thù thắng, tâm sanh tin tưởng thanh tịnh mà nghĩ như vầy: “Thế Tôn thật là ít có, có thể thành tựu vô lượng công đức trang nghiêm, như thế ta nay cũng nguyện trong đời sau cũng sẽ thành tựu thân vô lượng công đức như thế”. Khi phát nguyện xong, gieo mình xuống đất lại tự nghĩ: “Nếu trong tương lai Tôi được sắc thân như thế, cúi xin Như Lai chân hãy đạp lên thân Tôi ”. Lúc đó Đức Như Lai Diệm Quang Du Hý Diệu Âm Tự Tại Vương, biết tâm niệm của Hiền Thọ, liền dùng chân đạp lên mình Hiền Thọ, khi chân vừa đạp xuống, thì Hiền Thọ liền chứng được Vô sanh Pháp nhẫn, Đức Thế Tôn xoay lại bảo các Tỳ kheo: Các Ông Không nên dùng chân đạp lên Hiền Thọ, Tại sao? Vì Hiền Thọ đây là Đại Bồ tát, nay đã chứng được Vô sanh Pháp nhẫn. Lại có thể thành tựu Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Thần Cảnh Trí Thần Thông (Thần Túc thông). Bấy giờ Hiền Thọ ở trước Phật dùng bài kệ tán thán:

Phật khắp mười phương giới

Tối tôn không gì hơn

Siêu việt các thế gian

Tôi nay đầu kính lễ

Như Lai ánh sáng lớn

Che mặt trời, mặt trăng

Vượt hẳn các thế gian

Tôi nay đầu kính lễ

Ví như sư tử rống

Các loài thú đều sợ

Thế Tôn đại uy đức

Đánh đỗ các ngoại đạo

Tướng sáng giữa chặn mày

Như ngọc lưu ly sáng

Chiếu khắp cả thế gian

Vượt hơn hẳn tất cả

Thế Tôn không gì hơn

Chân đạp có ngàn căm xe

Thanh tịnh hóa thế gian

Vượt khỏi biển phiền não

Dùng các công đức tài

Tùy ý đều thí cho

Như lai thanh tịnh giới

Cũng như là đại địa

Nẩy sinh các công đức

Không có tướng thương ghét

Vì dùng sức trí tuệ

Biết rõ các pháp không

Chúng sanh và thọ mạng

Phân biệt không thể có

Khéo rõ tánh chúng sanh

Tâm hành và mục đích

Mà làm ngọn đèn sáng

Lợi ích cho tất cả

Thế gian khổ bức bách

Nổi trôi theo nước lũ

Thường vì các chúng sanh

Phát khởi sức tinh tấn (lớn)

Thế Tôn lìa phiền não

Sanh lão và bệnh tử

Ở đời như hư không

Tất cả không nhiễm ô

Trí tuệ sáng tỏ lớn

Phá tất cả tối tăm

Lìa hẳn tham, sân, si.

Tôi nay đầu đảnh lễ.

Phật bảo A Nan: Bồ tát Hiền Thọ được đại thần thông rồi, từ đây về sau không còn thối thất. Ý Ông nghĩ sao? Bồ tát Hiền Thọ thuở ấy, đâu phải người nào khác, chính là Bồ tát Di Lặc trong pháp hội nầy đây.

Ngài A Nan bạch Phật: Thưa Thế Tôn Bồ tát Di Lặc đã chứng được Vô sanh Pháp nhẫn, tại sao không chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Đức Phật bảo A Nan: Bồ tát có hai thứ trang nghiêm, hai thứ thu nhiếp. Đó là thu nhiếp chúng sanh, trang nghiêm chúng sanh. Thu nhiếp Phật quốc, trang nghiêm Phật quốc. Bồ tát Di Lặc trải qua nhiều kiếp quá khứ, tu hạnh Bồ tát, thường thích thu nhiếp Phật quốc, trang nghiêm Phật quốc. Ta ở trong vô lượng kiếp tu Bồ tát hạnh, thường thích thu nhiếp chúng sanh, trang nghiêm chúng sanh. Nhưng Bồ tát Di Lặc đã tu Bồ tát hạnh trải qua bốn mươi kiếp, Ta mới phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do Ta siêng năng dõng mãnh nên siêu việt chín kiếp, ở trong hiền kiếp nầy chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. A Nan! Ta do mười pháp mà chứng quả Bồ đề. Thế nào là mười ? Một là, có thể thí những vật ưa thích. Hai là, có thể thí vợ yêu quí. Ba là, có thể thí cho con yêu quí. Bốn là, có thể thí đầu yêu quí. Năm là, có thể thí mắt yêu quí. Sáu là, có thể thí vương vị ưa thích. Bảy là, có thể thí bảo vật ưa thích. Tám là, có thể thí máu thịt yêu quí. Chín là, có thể thí xương tủy quí mến. Mười là, có thể thí các bộ phận yêu quí của cơ thể. Đó là mười pháp. Ta do mười pháp này mà có thể mau chứng quả được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nầy A Nan, lại có mười pháp có thể mau chứng quả Bồ đề. Thế nào là mười? Một là, hộ giới công đức. Hai là, thành tựu sức nhẫn nhục. Ba là, phát tâm siêng năng. Bốn là, được các thiền định. Năm là, có đại trí tuệ. Sáu là, đối với các chúng sanh thường không xa lìa. Bảy là, đối với các chúng sanh khởi tâm bình đẳng. Tám là, đối với các pháp không, thường xuyên tu tập. Chín là, khéo thành tựu chân thật tánh không. Mười là, khéo thành tựu vô tướng vô nguyện. Đó là mười pháp. Ta tu hành mười pháp nầy, mà mau chóng thành quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nầy A Nan, Bồ tát Di Lặc khi còn trong thời quá khứ tu Bồ tát đạo, không thể xả bỏ tay, chân, đầu, mắt. Chỉ dùng thiện xảo phương tiện an lạc chúng sanh, tích lũy đạo Vô thượng Bồ đề.

Khi ấy Ngài A Nan bạch Phật: Thưa Thế Tôn, thế nào là Bồ tát Di Lặc trong những kiếp quá khứ khi tu hành Bồ tát đạo, chỉ dùng phương tiện thiện xảo an lạc, mà tích lũy đạo vô thượng Bồ đề.

Đức Phật bảo A Nan! Bồ tát Di Lặc, trong những kiếp quá khứ, thực hành Bồ tát đạo, ngày đêm sáu thời, vén áo vai phải, quì gối chấm đất, chấp tay đảnh lễ trước các Đức Phật, nói bài kệ như vầy:

Tôi nay quy mạng lễ

Thập phương tất cả Phật

Bồ tát chúng Thanh văn

Bậc Đại tiên thiên nhãn

Cúng lễ Tâm Bồ đề

Xa lìa các ác đạo

Hay được sinh cõi Trời

Cho đến chứng Niết bàn

Nếu Tôi tạo tội nhỏ

Tùy Tâm mà phát sinh

Nay đối trước chư Phật

Sám hối khiên diệt trừ

Nay Tôi thân, miệng, ý

Tạo được bao công đức

Nguyện làm nhân Bồ đề

Sẽ thành đạo vô thượng

Trong cõi nước độ mười phương

Cúng dường các Đức Như Lai

Và trí Phật vô thượng

Nay Tôi đều tùy hỷ

Có tội xin sám hối

Phước ấy đều tùy hỷ

Tôi nay lễ chư Phật

Nguyện thành trí vô thượng

Mười phương đại Bồ tát

Chứng đến bậc Thập địa

Tôi nay đều kính lễ.

Nguyện mau chứng Bồ đề

Chứng được Bồ đề rồi.

Đánh dẹp các ma quân

Chuyển pháp luân thanh tịnh

Lợi ích các loài chúng sanh

Nguyện thường trụ thế gian

Vô lượng, vô số kiếp

Đánh trống pháp vang rền

Độ thoát khổ chúng sanh

Tội chìm nơi bùn tham dục

Bị dây tham trói buộc

Các thứ nhiều trói buộc

Nguyện Phật thường quán sát

Chúng sanh tuy nhỏ nặng

Chư Phật không từ bỏ

Nguyện dùng đại từ bi

Độ thoát biển sanh tử

Hiện tại các Thế Tôn

Quá khứ, vị lai Phật

Tu hành Bồ tát đạo

Tôi nay nguyện tu học

Đầy đủ Ba la mật

Thành tựu sáu thần thông

Độ thoát các chúng sanh

Chứng được vô thượng đạo

Biết rỏ các pháp không

Không tướng, không tự tánh

Không trụ, không biểu thị

Không sinh, cũng không diệt

Lại như đấng Đại Tiên Tôn

Khéo rõ lý Vô ngã

Không có tướng Ngã Nhơn

Cho đến cả thọ mạng

Những việc Phật làm ra

Không chấp ngã, ngã sỡ

Vì an lạc chúng sanh

Thí không Tâm hối tiếc

Nguyện vật Tôi bố thí

Không nhờ dụng công sanh

Quán nó biết là không

Đủ thí Ba la mật

Trì giới không khuyết điểm

Được thanh tịnh giới Phật

Vì vô trụ chấp vậy

Đủ giới Ba la mật

Nhẫn nhục như tứ đại

Không sinh tâm phân biệt

Vì không sân hận vậy

Đủ nhẫn Ba la mật

Nguyện dùng sức thân tâm

Phát khởi đại tinh tấn

Vững chắc không lười biếng

Đủ cần (mẫn) Ba la mật

Do như huyễn, như hóa

Và siêng năng dõng mãnh

Kim Cang đẳng tam muội

Đủ Thiền Ba la mật

Nguyện Chủng Trí, tam minh

Vào ba môn giải thoát

Rõ ba đời bình đẳng

Đủ Trí tuệ Ba la mật

Sắc thân Phật vi diệu

Ánh sáng uy đức lớn

Bồ tát hành tinh tấn

Nguyện Tôi đều viên mãn

Với danh xưng Di Lặc

Siêng tu hành như thế

Đủ sáu Ba la mật

An trụ bậc Thập địa.

Phật bảo A Nan! Bồ tát Di Lặc an trú thiện xảo phương tiện như thế, tích lũy quả vị vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nầy A Nan! Ta xưa cầu đạo thọ vô lượng khổ mới có thể tích lũy Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tại vì sao? Vì xưa có vị Thái tử Kiến Nhất Thiết Nghĩa, thân tướng trang nghiêm, đẹp đẽ, khá khác thường, các tướng đầy đủ, trông thấy hoan hỷ, đi ra khỏi vườn, trông thấy một bệnh nhân, chịu các đau khổ, sinh lòng thương xót, liền hỏi: Nay Ngài bị bệnh này không có thuốc để trị sao?

Khi ấy bệnh nhân liền dùng bài kệ đáp lại lời hỏi của Thái tử:

Nay bịnh khó tìm thuốc

Không có ở trên đời

Quốc vương cũng không có

Huống là người bị bịnh

Thông suốt các bộ luân

Khéo nói các phương thuốc

Tuy muốn trị liệu đó

Nhưng thuốc không tìm được

Khi ấy Thái tử lại dùng bài kệ hỏi bệnh nhân :

Vàng bạc, châu ma ni

Cho đến cả voi ngựa

Mong cầu đều nói cho

Khiến Ngài trừ bịnh khổ

Bấy giờ bệnh nhân dùng bài kệ đáp lại lời hỏi của Thái tử:

Nếu như uống máu Thái tử

Tôi ắt sẽ được an vui

Nguyện sinh tâm hoan hỷ

Cho Tôi không còn buồn khổ

Khi đó Thái tử dùng bài kệ đáp:

Ta vì các chúng sanh

Đọa vào ngục Vô gián

Nhiều kiếp còn nhẫn được

Huống là máu thân nầy.

Khi ấy, Thái tử liền dùng dao khoét thân mình, làm cho máu chảy ra, khiến cho bệnh nhân tùy ý lấy sử dụng, không sinh, niệm hối hận. A Nan nên biết, Thái tử Kiến Nhất Nghĩa thuở đó, đâu ai khác, là thân Ta đây. Nước bốn biển còn có thể lường được, Ta trong những kiếp quá khứ, khi thực hành Bồ tát đạo, xả bỏ máu thân nầy, không thể tính lường hết được.

Bấy giờ, Phật, A Nan vào thuở xưa, khi ấy có Thái tử tên là Diệu Hoa, thân tướng nghiêm trang, đẹp đẽ, đặc biệt, đầy đủ các tướng, trông thấy đều hoan hỷ, từ khu vườn đi ra thấy một bịnh nhân, thân thể ốm yếu, sanh lòng thương xót, liền hỏi bịnh nhân. Nay chứng bịnh của Ngài có thể trị liệu được không. Hay không có thuốc trừ được?

Khi ấy bịnh nhân liền dùng bài kệ đáp lại lời hỏi của Thái tử:

Trên đời có thuốc hay

Không thuốc trừ bịnh tội

Cui xin tỏ lòng thương

Vì Tôi trừ tội nhỏ.

Bấy giờ Thái tử liền dùng bài kệ trả lời tiếp:

Tôi vì lợi thế gian

Tất cả đều thí cho

Thân thể và trân bảo

Cần đều đáp ứng cho. Lúc ấy, bịnh nhân dùng bài kệ đáp lại lời hỏi của Thái Tử:

Ví như thầy thuốc giỏi

Tùy ý trị bịnh chúng sinh

Cũng như ánh sáng Trời, trăng (mặt)

Chiếu khắp cả thế gian

Nếu xuất huyết nào được

Thoa khắp thân thể Tôi

Thì bịnh liền tiêu trừ

Mãi mãi được an vui

Khi ấy, Thái Tử dùng bài kệ bảo người bịnh rằng :

Nếu có các chúng sinh

Bổ thân Tôi chảy não

Vì lợi ích thế gian

Tâm không sinh lo buồn.

Lúc đó, Thái Tử tự bổ thân thể lấy tủy xương cho người bệnh tùy ý sử dụng, không sinh một niệm hối hận. A Nan nên biết Thái Tử Diệu Hoa thuở đó, đâu người nào lạ, chính là thân Ta đấy. Nước biển lớn, cũng có thể đo lường được, nhưng đối vói sự xả bỏ thân mạng Ta trong các kiếp quá khứ, thì không thể tính kể được.

Phật bảo A Nan, vào thời xa xưa có một vị quốc vương tên là Nguyệt Quang, thân thể nghiêm trang, đẹp đẽ, đặc biệt đầy đủ các tướng, thấy đều hoan hỷ, từ khu vườn đi ra, trông thấy một người mù, nghèo nàn xin ăn, sinh tâm thương xót, liền hỏi: Ngài cần cái gì, ta sẽ thí cho, thức ăn, thức uống, y phục, trang sức, vàng bạc, ma ni, trân châu, của báo, tùy ý Ngài muốn Ta sẽ thí ban cho?

Khi ấy người mù bèn dùng bài kệ đáp lại:

Đại vương như mặt Trời, mặt Trăng

Ánh sáng chiếu khắp thế gian

Đầy đủ công đức thù thắng

Không lâu sinh cõi Trời

Tất cả sắc tịnh diệu

Nay Tôi đều không thấy.

Xin Ngài rủ lòng thương

Cho Tôi xin cặp mắt.

Khi đó Đại vương liền dùng bài kệ đáp lại người mù:

Ngài mau đến lấy mắt

Khiến cho được an vui

Nguyện Tôi đời tương lai

Mau được mắt thanh tịnh (như Phật)

Tôi thực hành đạo Bồ tát

Tất cả đều thí xả cho

Nêu không thí mắt cho Ngài

Thì trái với nguyện xưa.

Khi đó Vua Nguyệt Quang dùng dao, tự khoét mắt, lấy mắt cho người mù, tùy ý sử dụng, tâm không sinh một niệm hối hận. A Nan nên biết, Vua Nguyệt Quang thuở ấy, đâu phải người nào lạ, chính là thân ta đấy. Núi Tu di có thể đo được, nhưng những kiếp quá khứ lúc Ta thực hành Bồ tát đạo, xả bỏ mắt yêu quí, thì không thể tính kể cho hết được. Nầy A Nan, Bồ Tát Di Lặc, khi còn trong kiếp quá khứ tu hành Bồ tát đạo, có nguyện như vầy: Nếu có chúng sanh nào, bớt dâm dục, sân hận, si mê, thành tựu mười điều thiện. Thì ta lúc ấy mới thành tựu đạo quả, Vô thượng Bồ đề (Chánh đẳng Chánh giác).

Này A Nan trong tương lai nếu có chúng sanh nào bớt dâm dục, sân hận, si mê, thành tựu mười điều thiện, thì lúc ấy Bồ tát Di Lặc sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tại sao? Vì do năng lực nguyện đời trước của Ngài.

Phật bảo A Nan, Ta trong những kiếp quá khứ, tu hành Bồ tát đạo, có nguyện như vầy: Nguyện Tôi trong đời năm điều xấu ác, nhơ bẩn, đầy dẫy tham lam, sân hận, nhỏ cầu nặng nề, các điều xấu ác, chúng sanh không hiếu thảo cha mẹ, không kính Sư trưởng, cho đến quyến thuộc, không hòa thuận kính trọng nhau. Lúc ấy Ta sẽ chứng quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này A Nan vì do ước nguyện như thế, nên ngày nay Ta vào thành, ấp, xóm, làng, có nhiều người phỉ báng Ta, dùng các lối chấp đoạn, thường, tập hợp nhiều người để phá Ta, nếu ta đi khất thực, dùng đất, bụi, thuốc độc bỏ vào thức ăn, cúng dường Ta, hoặc dùng mỹ nhân, nữ nhân kế, phỉ báng Ta. Nầy A Nan, nay Ta đây do các sức nguyện đời trước, mà bị các thứ ác như thế. Nhưng vẫn khởi tâm đại bi, vì họ nói pháp.

Bấy giờ Ngài A Nan bạch Phật: Thưa Đức Thế Tôn Như Lai Ứng Chánh đẳng giác, có thể hành động những đều khó nhẫn được, khiến cho những chúng sanh khó điều phục, đều khiến cho được điều phục, mang những tội nặng nề, nhơ bẩn của chúng sanh như thế, mà vì họ nói pháp.

Đức Phật bảo A Nan: Đúng vậy, đúng vậy như lời Ông nói. Tại sao? Đó là do năng lực Đại bi nhiếp hóa của Đức Như lai.

Khi ấy A Nan bạch Phật: Thưa Đức Thế Tôn, Tôi nghe thệ nguyện kiên cố của Đức Như Lai, mà lông, tóc dựng ngược. Thưa Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì? Và Tôi phải thọ trì như thế nào?

Đức Phật bảo A Nan: Kinh nầy tên là “Sự thưa hỏi của Bồ tát Di Lặc, cũng gọi là “Những thệ nguyện đời trước của Bồ tát Di Lặc”, với danh nghĩa như thế. Ông nên thọ trì.

Khi Phật nói Kinh này xong Bồ tát Di Lặc, Tôn giả A Nan, tất cả Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà v.v… nghe Phật nói pháp đều rất hoan hỷ, tin chắc, thọ trì và phụng hành.

Dịch xong mùa An Cư năm 2012

Tỳ Kheo Thích Thiện Nhơn

KINH PHẬT NÓI VỀ BỒ TÁT DI LẶC SINH LÊN CÕI TRỜI ĐÂU SUẤT

Dịch từ Phạn văn sang Hán văn Đời Tống – Cư sĩ Thử Cừ Kinh Thinh

Tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật trú tại rừng cây Thái tử Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vào lúc đầu hôm, trở mình phóng ra ánh sáng màu sắc vàng ròng, vây quanh vườn rừng cây Kỳ Đà bảy vòng rồi chiếu đến nhà Trưởng giả Tu Đạt, cũng màu sắc vàng ròng, ánh sáng vàng ròng ấy ví như mây sáng, chiếu cả nước Xá Vệ. Khắp nơi đều mưa hoa sen màu sắc vàng, trong ánh sáng ấy có vô lượng trăm ngàn các đại hóa Phật, đều nói lên rằng: “Nay trong hội nầy, có một ngàn Bồ tát, đầu tiên thành Phật tên là Câu Lưu Tôn, vị thành Phật sau cùng là Lâu Chí”. Khi Phật nói lời nầy rồi, Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như từ thiền định xuất định, cùng quyến thuộc 250 người đồng qui tụ. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cùng với quyến thuộc 250 người đồng qui tụ. Tôn giả Đại Mục Kiền Liên, cùng với quyến thuộc 250 người đồng qui tụ. Tôn giả Xá Lợi Phất, cùng với quyến thuộc 250 người đồng qui tụ. Tỳ kheo Ni Ma Ha Ba Xa Ba Đề, cùng với quyến thuộc, 1.000 vị Tỳ kheo Ni đồng qui tụ. Trưởng giả Tu Đạt, cùng 3.000 vị Ưu bà tắc đồng qui tụ. Bà Tỳ Xá Khư cùng 2.000 vị Ưu bà di đồng qui tụ.

Lại có các vị đại Bồ tát, tên là Bạt Đà Ba La, cùng quyến thuộc 16 vị Bồ tát đồng qui tụ. Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử cùng quyến thuộc 500 vị Bồ tát đồng qui tụ. Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà v.v… tất cả đại chúng thấy ánh sáng của Phật đều qui tụ đông đủ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn phát ra tướng lưỡi rộng dài, trên lưỡi phóng ra một ngàn ánh sáng, trong mỗi ánh sáng đều có một ngàn màu sắc, trong mỗi ngàn màu sắc có vô lượng hóa Phật. Các vị hóa Phật nầy, khác miệng cùng lời đều nói câu pháp Đà La Ni của đại Bồ tát thanh tịnh rất sâu xa không thể nghĩ bàn, đó là: A Nan đà mục khê Đà la ni, Không Huệ Đà la ni, Vô ngại tánh Đà la ni, Đại giải thoát vô tướng Đà la ni.

Bấy giờ trong hội chúng có một vị Bồ tát tên là Di Lặc, nghe Phật nói như thế, tức thì liền được trăm vạn ức môn Đà la ni, từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục, xoa tay, chắp tay đứng ở trước Đức Phật.

Khi ấy, Tôn giả Ưu Ba Ly cũng từ chỗ ngồi đứng dậy đầu mặt đảnh lễ, bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, vào thời quá khứ, ở trong Tỳ ni và các Kinh tạng có nói đến Ngài A Dật Đa, tương lai sẽ thành Phật. Nhưng ngài A Dật Đa đây, còn đầy đủ thân phàm phu, chưa đoạn trừ các lậu hoặc (phiền não). Ngài ấy khi mạng chung sanh về cõi nào? Ngài tuy đã xuất gia, không tu các thiền định, không đoạn trừ phiền não. Nhưng Phật thụ ký ngài sẽ thành Phật, không có gì phải nghi ngờ. Ngài sau khi qua đời sẽ sinh về quốc độ (cõi nước) nào?

Đức Phật bảo Ưu Ba Ly: “Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, nghĩ nhớ kỹ, Như Lai Chánh Biến Tri, nay trong chúng đây, thụ ký cho Di Lặc Bồ tát chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài từ nay đến 12 năm sau, khi qua đời, sẽ được sanh về cõi trời Đâu Suất Đà”.

Bấy giờ, trên cõi trời Đâu Suất Đà, có 500 vạn ức Thiên tử, mỗi mỗi Thiên tử, đều tu tập các pháp Bố thí Ba la mật sâu xa, vì để cúng dường Nhất sanh bổ xứ Bồ tát, dùng năng lực phước Trời, tạo các cung điện, mỗi người đều tự cởi mão bằng chiên đàn màu báu trên thân, quỳ dài phát nguyện thế nầy: “Nay tôi đem bảo châu vô giá, cho đến Mão trời, vì cúng dường đại tâm chúng sanh. Người nầy trong đời sau không bao lâu sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tôi sẽ đối với Đức Phật ấy, trang nghiêm cõi nước, được thụ ký, khiến Mão của tôi, biến thành đồ cúng dường”. Các vị thiên tử như thế v.v… đều quỳ dài phát các đại nguyện cũng như trên.

Khi ấy, các vị Thiên tử, phát nguyện như thế xong, thì các Mão báu, hóa thành 500 vạn ức cung điện báu, mỗi mỗi cung điện báu, có 7 lớp tường, mỗi lớp tường do 7 báu tạo thành, mỗi mỗi lớp lại phát ra 500 ức ánh sáng, trong mỗi ánh sáng có 500 ức hoa sen, mỗi mỗi hoa sen, hóa làm 500 ức 7 hàng cây báu, mỗi hàng cây báu có 500 ức sắc báu, mỗi mỗi sắc báu, có 500 ức ánh sáng vàng Diêm phù đàn, mỗi mỗi ánh sáng vàng Diêm phù đàn, phát ra 500 ức Thiên nữ báu, mỗi mỗi nữa báu đứng dưới gốc cây cầm 500 ức, vô số anh lạc báu, phát ra âm thanh tuyệt diệu.

Khi ấy, trong các lời âm nhạc, nói về hạnh bất thối chuyển pháp luân. Cây báu ấy sanh ra trái, màu sắc như lưu ly, tất cả màu sắc ấy hòa vào trong màu sắc pha lê. Các ánh sáng nầy, xoay vần phía tay mặt, phát ra các âm thanh nhạc trời, nói pháp Đại từ Đại bi. Mỗi mỗi vách tường, cao 62 do tuần, dày 14 do tuần, 500 ức Long vương vây quanh bức tường nầy. Mỗi mỗi Long vương mưa 500 ức hàng cây 7 báu trang nghiêm trên thành tường. Tự nhiên có gió thổi động những cây bằng 7 báu nầy, những cây chạm nhau, phát ra lời nói pháp Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, các Ba la mật.

Bấy giờ trong cung nầy có một đại thần, tên là Lao Độ Bạt Đề, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ khắp mười phương Phật, phát những nguyện lớn: “Nếu như phúc đức Tôi vì Bồ tát Di Lặc, tạo giảng đường thiện pháp, khiến cho trán tôi xuất sinh ra châu báu”. Phát nguyện xong, trên trán tự nhiên sinh ra 500 ức châu báu, lưu ly, pha lê, tất cả màu sắc đều đầy đủ như ma ni xanh biếc, chói lọi trong suốt.

Những châu báu ma ni nầy, xoay vần trong hư không, hóa làm 49 lớp cung điện tuyệt đẹp, mỗi mỗi lớp lan can, có trăm ức vạn ma ni báu, cùng hiệp thành khoảng giữa các lan can, tự nhiên hóa sanh 94 ức Thiên tử, 500 ức Thiên nữ, trong tay mỗi mỗi Thiên tử, hóa sanh vô lượng ức vạn hoa sen bằng bảy báu, trên mỗi hoa sen, có vô lượng ức ánh sáng, trong ánh sáng ấy, có đủ các nhạc khí, những nhạc khí (trời) nầy, không đánh tự kêu, khi âm thanh phát ra, các Thiên nữ tự nhiên cầm nhạc khí lên, đua nhau ca múa, trong các loại âm thanh ca vịnh ấy, nói ra mười điều thiện, bốn nguyện rộng lớn, chư Thiên nghe xong, đều phát đạo tâm vô thượng.

Khi đó, trong các bức tường, có 8 ao lưu ly màu sắc, mỗi mỗi ao báu, có 500 ức châu báu làm thành, trong mỗi ao báu có nước 8 vị, có đầy đủ 8 màu sắc. Trong các giọt nước phún lên, xoay quanh giữa các lớp lan can. Ở ngoài bốn cửa hóa sanh bốn thứ hoa, các dòng nước chảy từ hoa như dòng nước hoa báu, trên mỗi mỗi hoa báu, có 24 Thiên nữ, sắc thân tuyệt đẹp, như thân trang nghiêm của các vị Bồ tát, trong tay tự nhiên hóa ra 500 ức khí cụ báu, trong mỗi khí cụ, tự nhiên đầy trán cam lồ của chư Thiên, vai trái mang vô lượng anh lạc, vai mặt mang vô lượng nhạc khí, như mây tụ trên hư không, từ nước phát sinh ra, tán thán 6 pháp Ba la mật. Nếu có ai sinh về cõi trời Đâu Suất, tự nhiên được các Thiên nữ hầu hạ. Cũng có bảy tòa sư tử báu, cao 4 do tuần, làm bằng vàng Diêm phù đàn, vô lượng các báu vật, dùng để trang nghiêm. Đầu bốn góc tòa ấy, lại sinh ra 4 loại hoa sen báu, mỗi mỗi hoa sen, do trăm thứ báu tạo thành, trong mỗi mỗi hoa báu, phát sinh trăm ức ánh sáng, trong ánh sáng màu nhiệm ấy, hóa làm trăm ức các thứ hoa hỗn hợp, trang nghiêm màn báu.

Khi ấy, mười phương, trăm ngàn Phạm vương, đều mang trăm ngàn Phạm thiên v.v… dùng làm linh báu, treo trên các linh báu. Khi đó các Phạm vương, mang các thứ báu, làm lưới báu, che phủ khắp màn báu. Bấy giờ trăm ngàn vô số quyến thuộc Thiên tử, Thiên nữ, đều mang hoa báu để phủ trên các tòa báu. Các loại hoa nầy, tự nhiên đều phát sinh trăm ức bảo nữ chắp tay bạch Phật, đứng hầu bên trong màn để giữ bốn góc cung, có bốn trụ báu, mỗi mỗi trụ báu có trăm ngàn lầu, gác đẹp Châu phạm ma ni, dùng làm dây cột lại. Lúc đó, khoảng giữa các lầu gác, có trăm ngàn Thiên nữ, sắc đẹp không ai sánh bằng, tay cầm nhạc khí, trong các nhạc khí ấy, nói ra các pháp Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, các Ba la mật. Cung chư Thiên như thế, có vô lượng trăm vạn ức sắc báu, mỗi mỗi các Thiên nữ cùng đồng có màu sắc báu như nhau.

Bấy giờ, mười phương vô lượng chư Thiên mệnh chung, đều nguyện sanh về cõi trời Đâu Suất. Khi ấy, cõi trời Đâu Suất có 5 vị đại thần:

  1. 1.Đại thần tên là Bảo Tràng, mưa bảy thứ báu, rải trong cung điện, mỗi mỗi châu báu, hóa thành vô lượng nhạc khí, trong hư không, không trỗi tự kêu, có vô lượng âm thinh, làm vừa lòng đại chúng.
  2. 2.Đại thần tên là Hoa Đức, thân làm mưa các thứ hoa, phủ khắp cung điện, hóa thành cái lọng to, mỗi mỗi cái lọng, trăm ngàn tràng phan, dùng để dẫn đường.
  3. 3.Đại thần tên là Hương Âm, các lỗ chân lông trên thân, mưa các loại hoa biển, bên nầy là bờ Chiên đàn hương, hương ấy như mây, tạo thành trăm sắc báu, vây quanh cung điện bảy vòng.
  4. 4.Đại thần tên là Hỷ Lạc, mưa châu như ý, mỗi mỗi hạt châu, trụ ở trên tràng phan, nói vô lượng pháp môn, quy y Phật, quy Pháp, quy y Tỳ kheo Tăng, và nói 5 giới vô lượng thiện pháp, các Ba la mật, lợi ích, khuyến khích, hỗ trợ tâm ý Bồ đề người ấy.
  5. 5.Đại thần tên là Chính Âm Thinh, các sợi lông trên thân, phát ra tất cả âm thanh thù thắng, phát sinh các dòng nước, trên mỗi mỗi dòng nước có trăm ức thứ hoa, trên mỗi mỗi thứ hoa có 25 ngọc nữ, trên thân mỗi mỗi ngọc nữ, trên mỗi mỗi sợi lông ngọc nữ phát ra các âm thanh thù thắng tuyệt diệu hơn hẳn các loại âm nhạc của Thiên ma đã có được.

Phật bảo Ưu Ba Ly: Đây gọi là mười điều thiện báo ứng đặc biệt, phúc đức nhiệm mầu của cõi trời Đâu Suất Đà. Nếu ta ở đời trong một tiểu kiếp nói về nhất sanh bổ xứ Bồ tát báo ứng và quả báo mười điều thiện cũng thể hết được, nay Ta chỉ vì các ông giải nói tóm tắt thôi.

Phật bảo Ưu Ba Ly: “Nếu có Tỳ kheo và tất cả đại chúng không nhàm chán sanh tử, thích sinh cõi trời, yêu thích kính trọng Bồ đề tâm vô thượng, muốn làm đệ tử Bồ tát Di Lặc, thì nên quán như thế. Người đã quán như thế, thì nên giữ gìn 5 giới đầy đủ, 8 giới trai tịnh, thân tâm tinh tấn, không cầu đoạn trừ kiết sử, tu tập pháp 10 điều thiện, mỗi mỗi suy nghĩ về cái thú vui thù thắng ở cõi trời Đâu Suất, quán như vậy là chánh quán, ngược lại là tà quán.

Bấy giờ Ưu Ba Ly từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, đầu đảnh lễ bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, trên cõi trời Đâu Suất có những điều vui thú đặc biệt như thế, nay thế giới nầy, khi nào Ngài ở cõi Diêm phù đề mệnh chung mà sanh về Cõi Trời ấy?

Phật bảo Ưu Ba Ly: “Di Lặc trước tiên ở nước Ba La Nại, thôn Ba Ly Kiếp La, sinh trong gia đình đại Bà La Môn, sau đó 12 năm, vào ngày 15 tháng 2, trở lại nơi sinh quán, ngồi kiết già, như nhập định, thân màu sắc vàng tía, đỏ rực, như trăm ngàn mặt trời, đến cõi trời Đâu Suất Đà, xá lợi thân Ngài, như tượng đúc không dao động, trong ánh sáng viên quang, có Thủ Lăng Nghiêm tam muội, Bát nhã Ba la mật đa tự nghĩa sáng rực. Khi ấy, chư Thiên liền xây tháp đầy đủ hoa báu, cúng dường xá lợi. Lúc đó, tại cõi trời Đâu Suất, trong đài 7 báu, trên điện ma ni, trên giường tòa sư tử, bỗng nhiên hóa sanh, ngồi trên đài hoa sen, kiết già, thân như vàng Diêm phù đàn, dài 60 do tuần, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thảy đều đầy đủ, trên đầu có búi tóc u lên, màu sắc xanh lưu ly, Thích Ca Tỳ Lăng Già ma ni trăm ngàn muôn ức, chân thúc ca báu, dùng để làm mão trang nghiêm, trên mão báu chư Thiên, có vạn ức màu sắc, trong mỗi mỗi màu sắc có vô lượng trăm ngàn hóa Phật, hóa các Bồ tát, dùng làm người hầu. Lại có các đại Bồ tát ở phương khác làm 18 thần biến, tự ý tự tại trụ trong mão báu trời. Giữa mày Di Lặc có tướng ánh sáng trắng, phát ra các ánh sáng, làm màu sắc báu, 32 tướng tốt, trong mỗi mỗi tướng có trăm ức sắc báu, trong mỗi mỗi sắc đẹp cũng có trăm ức sắc báu, trong mỗi mỗi tướng tốt, phát ra trăm vạn ức mây ánh sáng, cùng các chư Thiên ngồi trên hoa sen, ngày đêm sáu thời, xướng nói pháp, chuyển địa pháp luân, trong một giờ, thành tựu trăm ức Thiên tử, khiến không thối chuyển, đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở cung Đâu Suất Đà như thế, ngày đêm thường nói pháp luân bất thối chuyển, độ các Thiên tử, năm mươi bảy vạn ức, sáu vạn năm cõi Diêm phù đề, mới hạ sanh xuống Diêm phù đề, như Kinh Di Lặc Hạ Sanh đã nói.

Phật bảo Ưu Ba Ly: “Đây là nhân duyên Di Lặc Bồ tát, sau khi mệnh chung, sinh lên cõi trời Đâu Suất Đà.

Sau khi Ta diệt độ, các chúng đệ tử, nếu có ai, siêng năng tu hành các công đức, đầy đủ oai nghi, quét dọn bảo tháp, lau chùi sạch sẽ, dùng các thứ hương, hoa cúng dường, thực hành các Tam muội, thâm nhập chánh thụ, đọc tụng kinh điển, những người như thế, hãy nên chí tâm tuy không đoạn trừ kiết sử, như được sáu phép thần thông, hãy nên duyên niệm vào hình tượng Phật, xưng danh hiệu Di Lặc. Những hạng người như thế, trong thời gian một niệm, thụ trì tám giới (Bát Quan trai giới) tu các tịnh nghiệp, phát hoằng thệ nguyện, sau khi mệnh chung, ví như người tráng sĩ dũi cánh tay, liền được vãng sanh lên cõi trời Đâu Suất Đà, ở trên hoa sen ngồi kiết già, trăm ngàn Thiên nữ, trỗi âm nhạc, mang hoa Mạn đà la, ma ha Mạn đà la, để rải trên người đó. Và nói: “Lành thay, Thiện nam tử, ông ở cõi Diêm phù đề tu các phúc nghiệp, nên sanh lên đây, gọi là trời Đâu Suất Đà. Nay có Thiên chủ tên là Di Lặc, ông nên quy y”. Ứng thinh lễ bái xong, quan sát kỹ ánh sánh giữa chặng mày liền vượt qua 90 ức kiếp tội sanh tử.

Khi ấy, Bồ tát tùy theo duyên đời trước, mà nói pháp mầu, khiến cho thân vững chắc không thối chuyển đạo tâm vô thượng. Các chúng sanh như thế, nếu tịnh các hạnh nghiệp, thực hành 6 pháp, nhất định không còn nghi ngờ gì nữa, chắc chắn sẽ sinh lên cõi trời Đâu Suất, gặp Bồ tát Di Lặc, cũng tùy theo Di Lặc hạ sanh xuống cõi Diêm phù đề, nghe pháp đệ nhất trong đời vị lai, gặp được tất cả chư Phật trong hiền kiếp, tính từ kiếp (vị lai) cũng được gặp các Đức Phật Thế Tôn hiện tiền thụ ký quả Bồ đề.

Phật bảo Ưu Ba Ly: “Sau khi Ta diệt độ, nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già v.v… Các đại chúng nầy, nếu có được nghe pháp, đại Bồ tát Di Lặc, khi nghe xong, hoan hỷ cung kính lễ bái, người nầy mệnh chung, như khảy móng tay (thời gian ngắn) liền được vãng sanh, như trước không khác, chỉ được nghe tên Di Lặc đó, nếu sau khi mệnh chung, không bị đọa vào những nơi (hắc ám) tối tăm, biên địa hẻo lánh, tà kiến, các ác luật nghi, hằng sanh chánh kiến, quyến thuộc thành tựu, không hủy báng Tam bảo”.

Phật bảo Ưu Ba Ly: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào phạm các giới cấm, tạo các nghiệp ác, nghe danh tự Đại bi Bồ tát nầy, năm vóc gieo xuống đất, thành tâm sám hối thì các ác nghiệp mau diệt trừ, được thanh tịnh trong đời vị lai; nghe danh tự Đại bi Bồ tát nầy, mà tạo hình tượng, hoa hương, y phục, tràng phan bảo cái, lễ bái chuyên niệm, khi người nầy sắp mệnh chung, thì Bồ tát Di Lặc phóng ánh sáng lớn giữa chặng mày, cùng các Thiên tử, rải hoa Mạn đà la, đến rước người nầy, trong khoảnh khắc được sanh về cõi trời Đâu Suất, gặp Phật Di Lặc, đầu mặt đảnh lễ, khi đầu chưa sát đất, liền được nghe pháp, liền được vô thượng đạo, bất thối chuyển, trong vị lai được gặp hằng hà sa số Đức Như lai.

Phật bảo Ưu Ba Ly: “Nay ông hãy lắng nghe, Bồ tát Di Lặc ở trong đời vị lai, vì chúng sẽ làm nơi quy y, nếu có người nào quy y Bồ tát Di Lặc, thì nên biết, người nầy đối với đạo Vô thượng, được bất thối chuyển. Khi Di Lặc thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, người nầy thấy ánh sáng của Phật liền được thụ ký”.

Phật bảo Ưu Ba Ly: “Sau khi Ta diệt độ (nhập Niết bàn), bốn bộ đệ tử trời, rồng, quỷ, thần nếu có muốn sinh lên cõi trời Đâu Suất Đà, thì nên quán niệm như vầy, chú tâm suy nghĩ, nhớ đến cảnh giới Đâu Suất Đà, giữ gìn giới cấm của Phật, từ một ngày đến bảy ngày, (giữ niệm) nhớ nghĩ thực hành mười điều thiện và mười nghiệp đạo, dùng công đức nầy hồi hướng nguyện được sanh ra trước mặt Bồ tát Di Lặc, nên quán như thế, người quán như thế, thì một vì Thiên nữ, thấy một hoa sen, nếu trong thời gian ngắn, xưng niệm danh hiệu Bồ tát Di Lặc, thì người nầy trừ được 1.200 kiếp tội sinh tử. Chỉ nghe danh hiệu Bồ tát Di Lặc, chắp tay cung kính, người nầy trừ được mười kiếp tội trong sinh tử. Nếu có ai lễ bái, cung kính Bồ tát Di Lặc, thì trừ được trăm ức kiếp tội trong sanh tử, giả như tương lai không sanh về cõi trời Đâu Suất, thì trong hội Long Hoa, dưới cội Bồ đề, cũng được gặp Phật Di Lặc, mà phát tâm vô thượng Bồ đề”.

Nói lời ấy rồi, vô lượng đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, đảnh lễ dưới chân Bồ tát Di Lặc, đi quanh Đức Phật và Bồ tát Di Lặc trăm ngàn vòng. Những người chưa chứng đạo quả, đều phát thệ nguyện: “Chúng tôi trời, người, tám bộ chúng v.v… nay ở trước Phật thành thật phát lời nguyện: “Ở đời tương lai mong được gặp Phật Di Lặc, xả bỏ thân nầy rồi, đều được sanh về cõi trời Đâu Suất Đà”.

Đức Thế Tôn thụ ký rằng: “Các ông trong đời tương lai, tu phúc trì giới, đều được sanh ra trước Bồ tát Di Lặc, được Bồ tát Di Lặc thu nhận”.

Phật bảo Ưu Ba Ly: “Quán như vậy là chánh quán, bằng quán nghĩ khác là tà quán”.

Bấy giờ, tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, xoa tay quỳ dài, bạch Phật: “Thưa Thế Tôn. Lành thay Thế Tôn! Khéo nói về Bồ tát Di Lặc có được, cũng thụ ký trong đời vị lai (đời sau) chúng sinh tu phúc, được quả báo như thế nào. Tôi nay tùy hỷ. Tuy nhiên, pháp yếu nầy, thưa Thế Tôn! Phải thụ trì như thế nào? Đời sau gọi là Tâm Kinh gì?”.

Phật bảo A Nan, ông hãy ghi nhớ lời Phật nói, cẩn thận chớ quên, vì đời vị lai, khai mở con đường sinh về cõi trời, chỉ bày tướng Bồ đề, chớ làm gián đoạn hạt giống Phật. Kinh nầy tên là: “Bồ tát Di Lặc nhập Niết bàn”, cũng tên là “Quán Bồ tát Di Lặc sanh lên cõi trời Đâu Suất Đà”, khuyên phát tâm Bồ đề hãy thụ trì như thế.

Khi Phật nói kinh nầy xong, 10 vạn Bồ tát từ phương khác đến dự pháp hội nầy, đều chứng được Thủ Lăng Nghiêm Tam muội, 8 vạn ức chư Thiên phát tâm Bồ đề, đồng nguyện trùng phùng Bồ tát Di Lặc hạ sanh trong tương lai.

Đức Phật nói lời ấy rồi, 4 bộ chúng đệ tử trời, rồng, 8 bộ quỷ thần, nghe Phật nói pháp, đều rất hoan hỷ lễ Phật rồi lui ra.

Dịch xong Mùa An Cư năm 2012

Tỳ kheo Thích Thiện Nhơn

KINH PHẬT NÓI VỀ BỒ TÁT DI LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT

Dịch từ Phạn sang Hán văn Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh

Tôi nghe như vầy, một thời Đức Bạc già Phạm trú trên núi Linh Thứu, trong Thành Vương Xá (nước Ma Kiệt Đà) cùng đại chúng Bí sô (Tỳ kheo) hiện diện đông đủ.

Bấy giờ, Đại Trí Xá Lợi Tử, bậc nhất trong Pháp hội, vì thương xót thế gian, từ chổ ngồi đứng dậy, vén áo vai hữu, quì gối chấm đất, chắp tay cung kính, mà bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, Tôi nay muốn hỏi một chút. Xin Thế Tôn cho phép”.

Phật bảo Ngài Xá Lợi Tử: “Tùy ý ông hỏi, Ta sẽ nói cho nghe”.

Khi ấy Ngài Xá Lợi Tử dùng bài kệ, thưa hỏi Đức Thế Tôn:

“ Như Đại sư thụ ký

Phật đương lai hạ Sanh

Tên Ngài là Di lặc

Như Kinh nói trước sau

Cúi xin đấng Trời Người

Dùng kệ phân biệt lại

Thần thông uy đức Ngài

Nay Tôi thích muốn nghe”.

“Phật bảo Xá Lợi Tử !

Nên chí tâm lắng nghe

Đấng Từ Thị tương lai

Ta vì ông rộng nói”.

Bấy giờ nước biển lớn

Giảm dần còn ba ngàn

Hai trăm du thiện na (do tuần)

Làm hiển hiện Luân vương

Châu Thiệm bộ rộng lớn

Đến mười ngàn do tuần

Chúng sanh ở trong đó

Tất cả đều đông vầy.

Cõi nước đều giàu có

Không hình phạt, tai ách

Các nam nữ v.v…

Đều do thiện nghiệp sanh

Đất không có gai góc

Chỉ sinh cỏ mịn xanh

Tùy chân người dẫm lên

Cảm như trên vãi mềm

Tự nhiên sinh gạo thơm (nếp)

Mùi hương vị đầy đủ

Các cây sinh y phục

Gấm vóc đồng trang nghiêm

Cây cao ba Câu Xá

Bông trái rất say quằng

Người sống trong nước ấy

Tuổi thọ tám mươi ngàn

Không có các bệnh khổ

Xa phiền não, an vui

Đủ tướng rất đoan trang

Sắc, lực đều đầy đủ

Người lo có ba thứ

Ăn uống, già (suy), tiểu giải

Người nữ năm trăm tuổi

Mới đến tuổi gả chồng

Các thứ dục, tiểu giải

Đất hở rồi khép lại

Mạng người khi sắp chết

Tự đến rừng mai táng

Thành tên Diệu Tràng tướng

Kinh đô Luân vương ngự

Cao mười hai do tuần

Rộng đến bảy do tuần

Dân chúng ở trong đó

Đã gieo trồng nhân tốt

Thành có nhiều ưu điểm

Người ở đều hoan hỷ

Lầu, gác và tường thành

Đều làm bằng bảy báu

Cửa nẽo và ổ khóa

Được các báu trang sức

Các vòng thành xung quanh

Đều có các trân báu

Danh hoa đầy đủ cả

Chim đẹp liệng nhỡn nhơ

Bảy hàng cây đa la

Thứ lớp bao vòng quanh

Các thứ báu trang nghiêm

Đều treo linh lưới báu

Gió thổi nhẹ hàng cây

Phát âm thanh tuyệt diệu

Cũng như trỗi bát âm

Người nghe sanh hoan hỷ

Các nơi cỏ ao báu

Phủ đầy các hoa đẹp

Vườn, rừng cỏ cây thơm

Trang nghiêm thành quách nầy

Trong nước có Thánh vương

Tên Ngài là Nhương Khư

Luân vương trị bốn châu

Đầy đủ các uy lực

Và các nghiệp phúc đức

Mạnh có bốn thứ binh

Do bảy báu tạo thành

Đủ bảy ngàn người con

Bốn biển đều bình yên

Không có nạn binh đao

Dùng chính pháp trị dân

Đối xử rất bình đẳng

Vua có bốn đại tạng (kho tàng)

Đều ở nơi mỗi nước

Mỗi mỗi tạng đều có

Trăm vạn ức trân bảo

Trong nước Yết lăng già

Tạng tên Kiệt La Thủy

Trong nước Mật Hy La

Có tạng Bát Trục Ca

Tạng Y La Bát La

Ở tại nước Kiền Đà

Nước Bà La Ni Tư (Cảnh)

Tạng tên là Nhương Khư

Với bốn phục tầng nầy (với bốn của chìm nầy)

Đều của vua Nhương Khư

Và trăm thứ của báu

Quả báu đều thành tựu

Có đại thần Phụ quốc

Bà La Môn Thiện Tịnh

Thông hiểu bốn Phệ đà

Đa văn làm Quốc sư

Thông suốt các Tạp luận

Khéo giảng dạy ghi nhớ

Dạy dỗ các ngôn ngữ

Đều đạt đến rốt ráo

Con gái tên Diệu Tịnh

Là Phu nhân của Đại thần

Danh tiếng rất đoan trang

Người trong thấy hoan hỷ

Đại trượng phu Từ Thị

Từ cung trời Tri Túc (Đâu Suất)

Hạ sanh vào (bụng) phu nhân

Nơi trụ thân sau này

Đã có thai Đại Thánh

Khi đã đủ mười tháng

Mẹ của đấng Từ Thị

Đi dạo đến vườn hoa

Khi vào vườn hoa đẹp

Không ngồi cũng không nằm

Đứng vịn lấy cành hoa

Liền hạ sanh Từ Tôn

Bấy giờ Tối thắng Tôn

Ra từ hông phải mẹ

Như mặt trời khỏi mây (mù)

Phóng ánh sáng lớn, cùng khắp

Không bị nhiễm bào thai

Như hoa sen khỏi nước

Ánh sang khắp ba cõi

Đều kính ngưỡng Đại Từ

Khi hạ sanh Từ Thị

Ngài Đế Thích ngàn mắt

Tay ẩm bồng Bồ tát

Mừng gặp đấng Lưỡng Túc

Bồ tát ngay lúc ấy

Tự nhiên đi bảy bước

Nơi bàn chân chấm đất

Đều hiện hoa sen báu

Nhìn khắp cả mười phương

Bảo chư thiên, loài người

“Đây là thân sau cùng

Sẽ chứng Niết bàn Vô sanh”

Rồng hiện phun nước sạch

Tắm rửa thân Thế Tôn.

Chư Thiên rãi các hoa

Hư không nổi gió nhẹ

Chư Thiên cầm lộng trắng

Để che mát Từ Tôn

Đều sinh tâm hy hữu

Giữ gìn Đức Bồ tát

Mẹ nuôi bồng Bồ tát

Thân ba mươi hai tướng tốt

Đầy đủ cả ánh sáng

Bồng ẩm thế cho mẹ

Đưa đến ngự trong xe

Đều dùng báu trang nghiêm

Mẹ, Con lên xe rồi

Chư Thiên cùng đẩy xe

Ngàn thứ âm nhạc hay

Dẫn đường về cung thành

Từ Thị vào trong thành

Hoa trời rải như mưa

Ngày Từ Thị đản sanh

Các người nữ mang thai

Thân đều được an ổn

Đều sanh nam trí tuệ (con trai có trí tuệ)

Thiện Tịnh Cha Từ Tôn

Thấy con dung mạo lạ

Đủ ba mươi hai tướng tốt

Tâm sanh đại hoan hỷ

Cha theo phép bói xem

Biết con có hai tướng

Ở đời làm Luân vương

Xuất gia thành Chánh giác

Bồ tát đã trưởng thành

Thương xót các chúng sanh

Trong các đường khổ nạn

Luân hồi không hề dứt

Thân sắc vàng sáng rực

Tiếng như đại Phạm âm

Mắt như hoa sen xanh

Các bộ phận đầy đủ

Thân cao tám mươi khủy tay (4m6)

Vai rộng hai mươi khủy tay (8tấc6)

Mặt rộng, mắt vừa phải

Như trăng Rằm trang nghiêm

Bồ tát thông nghệ thuật

Khéo lĩnh hội dạy dỗ

Thỉnh dạy học cho Ngài

Có tám mươi bốn vạn người

Khi ấy Vua Nhương Khư

Kiến lập bảy bảo tràng

Chiều cao bảy mươi tầm

Rộng đến mười sáu tầm

Tạo xong các bảo tràng

Vua phát Tâm đại xả

Cho các Bà La Môn

Bình đẳng thí vô giá (hội)

Lúc đó các Phạm Chí

Số đến một ngàn người

Được các bảo tràng nầy

Trong chốc lát hủy bỏ

Bồ tát trông thấy rồi

Nghĩ cuộc đời cũng thế

Sinh tử khổ như (bị nhốt trong …)

Nghĩ cầu được Giải thoát

Mong được đạo Niết bàn

Bỏ thế tục xuất gia

Trong khổ sanh lão tử

Cứu họ được thoát khỏi

Từ Tôn phát nguyện xong

Tám mươi bốn ngàn người

Đồng sanh tâm nhàm chán

Cùng theo tu phạm hạnh

Trong đêm sơ phát tâm

Xả tục mà xuất gia

Rồi cũng trong đêm ấy

Chứng quả thành Chánh giác

Khi ấy có cây Bồ đề

Tên là cây Long Hoa

Cao đến bốn do tuần (4km)

Cành lá đều sum sê

Tàng cây che bốn phía

Mát đến bốn câu lô (xá)

Đấng Từ Thị đại bi

Thành đạo dưới cây ấy

Hơn hết trong loài người

Đủ cả tám Phạm âm

Thuyết pháp độ chúng sanh

Khiến xa lìa phiền não

Khổ và nguồn gốc khổ

Tất cả đều diệt trừ

Hay tu Bát chánh đạo

Lên được bờ Niết bàn

Vì thanh tịnh mọi người (đại chúng)

Nói về Tứ Chơn đế

Được nghe pháp như trên

Chí thành mà phụng trì

Ở trong vườn hoa đẹp

Đại chúng đến đông đúc

Chu vi một trăm do tuần

Quyến thuộc đều đông đủ

Chuyển Luân vương Nhương Khư

Nghe pháp sâu xa rồi

Xả bỏ các của báu

Chí tâm cầu xuất gia

Không ham tiếc cung điện

Chí mong cầu ra khỏi

Tám mươi bốn ngàn người

Đều theo Ngài xuất gia

Lại có tám mươi bốn ngàn

Con trai Bà La Môn…

Nghe pháp bỏ trần tục

Cũng mong cầu xuất gia

Trưởng giả chủ Tạng Thần

Chính tên là Thiện Tài

Cùng một ngàn quyến thuộc

Cũng cầu xin xuất gia

Con gái Tỳ Xá Khư

Và những người tùy tùng

Tám mươi bốn ngàn người

Cũng mong cầu xuất gia

Con số hơn một trăm ngàn

Thiện nam và thiện nữ

Nghe Phật nói pháp mầu

Cũng mong cầu xuất gia

ĐấngThầy của Trời Người

Thánh vương đại từ bi

Biết hết tâm Đại chúng

Rộng nói các pháp yếu

Bảo Đại chúng nên biết :

Đức Thích Ca từ bi

Dạy ngươi tu Chánh đạo

Đến sanh trong pháp ta

Dùng hoa hương v.v…

Tràng phang và bảo cái …

Cúng dường đấng Mâu Ni

Nay sanh trong pháp ta

Hoặc dùng Uất kim hương

Và nước hương xoa bóp

Cúng dường Tháp Mâu Ni

Nay sanh trong pháp ta

Hoặc quy y Tam bảo

Cung kính thường thân cận (gần gũi)

Rồi tu các pháp lành

Nay sanh trong pháp ta

Hoặc đối với Phật pháp

Thọ trì các học xứ (giới)

Khéo giữ không sai phạm

Nay sanh trong pháp ta

Hoặc vì sáu phương Tăng

Thí y phục, uống ăn

Và cúng dường thuốc men

Nay sanh trong pháp ta

Hoặc trong bốn ngày trai

Ngày sóc vọng của tháng

GIữ gìn tám trai giới

Nay sanh trong pháp ta

Hoặc dùng ba thứ thông

Mà thọ ký dạy dỗ

Hóa đạo Thinh Văn chúng

Đều xa lìa phiền não

Trong pháp hội đầu tiên

Rộng độ các Thinh Văn

Chín mươi sáu ức người

Khiến lìa phiền não chướng.

Qua thời pháp thứ hai

Rộng độ các Thinh Văn

Có chín mươi bốn ức người

Khiến qua biển vô minh.

Thời pháp thoại thứ ba

Rộng độ các Thinh Văn

Có chín mươi hai ức người

Tâm khéo được điều phục.

Ba lần chuyển Pháp luân (xong)

Trời người đều thuần tịnh

Dẫn các hàng đệ tử

Đi vào thành khất thực

Đã vào thành Diệu Tràng

Ở tại ngã tư đường

Vì cúng dường Đức Phật

Trời mưa hoa Mạn đà

Tứ Thiên Vương, Phạm Thiên

Và các chư Thiên khác

Hoa hương, tràng phang cúng dường

Đấng đại bi lưỡng túc

Chư thiên đại uy đức

Dâng y phục đặc biệt

Tung rãi khắp thành, ấp

Chiêm lễ Đại y vương

Dùng hoa hương, diệu bảo

Rãi khắp các ngã tư

Chân đạp lên trên đất

Như đạp lên vải mềm

Âm nhạc và tràng phang

Phân bố thành từng hàng

Chúng Trời, Người, Đế Thích

Xưng tán Đại Từ Tôn

Nam mô Thiên Thượng Tôn

Nam Mô Sĩ Trung Thắng

Lành thay đấng Thế Tôn

Hay thương xót thế gian

Chư thiên đại uy đức

Sẽ lãnh đạo Ma vương

Chấp tay kính đảnh lễ

Tán, ngưỡng đấng Đạo sư

Phạm vương và Thiên Chúng

Quyến thuộc cùng vây quanh

Đều dùng tiếng Phạm âm

Xiển dương pháp vi diệu

Ở trong thế giới ấy

Đều là A la hán

Trừ hết cả hữu lậu

Lìa hẳn khổ phiền não

Các Trời, Người, Rồng, Thần…

Càn thát, A tu la

La sát và Dược xoa

Đều hoan hỷ cúng dường

Khi ấy các Đại chúng

Đoạn chướng, trừ nghi hoặc

Siêu việt dòng sanh tử

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Khi đó các Đại chúng

Không chấp, thí của báu

Vô ngã, không Ngã sở

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Khi ấy các Đại chúng

Phá hủy lưới tham ái

Viên mãn Tâm Thiền định

Khéo tu hạnh thanh tịnh

Từ Thị, Thiên Nhân Tôn

Thương xót loài chúng sanh

Ở trong sáu vạn năm (60.000 năm)

Nói pháp độ chúng sanh

Hóa độ trăm ngàn ức

Khiến thoát biển phiền não

Hữu duyên đều được độ

Mới nhập đại Niết bàn

Chính pháp trụ ở đời

Cũng tròn sáu vạn năm (60.000 năm)

Nếu ở trong pháp ta

Thân tâm tín, thọ trì

Đương lai ngày giáng sinh

Ắt phụng thờ Đại Bi tôn

Nếu người trí thông minh

Nghe nói việc nầy rồi

Ai không sinh vui mừng!

Nguyện được gặp Từ Tôn

Nếu người cầu giải thoát

Mong (hy vọng) vào hội Long Hoa

Thường cúng dường Tam bảo

Siêng năng, chớ buông lung.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì Xá Lợi Tử và các Đại chúng, nói việc thụ ký tương lai về Từ Thị Di Lặc xong, lại bảo Xá Lợi Tử: “Nếu có người Thiện nam, Tín nữ nào nghe pháp này rồi, thọ trì, đọc tụng, vì người khác giảng nói, như lời nói mà tu hành, hương hoa cúng dường, biên, chép quyển kinh, những người nầy, trong đời tương lai nhất định sẽ gặp Đức Di Lặc khi Ngài giáng sinh, ở trong ba hội đều được cứu độ”.

Khi Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng rồi, Ngài Xá Lợi Tử và các Thiên chúng, Đại chúng đều hoan hỷ, tin tưởng, thọ trì, đảnh lễ vâng làm theo.

Dịch xong mùa An cư năm 2012

Tỳ kheo Thích Thiện Nhơn

PHẨM THẬP BẤT THIỆN SỐ 48 (Kinh số 3)

Tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật an trú tại vườn Trưởng giả Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà, nước Xá Vệ, cùng với 500 vị Tỳ kheo hiện diện.

Bấy giờ Tôn giả A Nan bạch Phật: Trong tương lai, thời gian bao lâu, Đức Di Lặc Như Lai chí chơn đẳng chánh giác mới xuất hiện ở thế gian. Cảnh giới, đệ tử, giáo pháp của Ngài tồn tại như thế nào?

Đức Thế Tôn đáp: Này A Nan hãy lắng nghe, Ta sẽ trình bày. Trong tương lai, cõi Diêm Phù Đề này, có một thành quách tên là Kê Đầu, đất đai phì nhiêu, nhân dân đông đúc, an cư lạc nghiệp, thanh bình thịnh trị.

Quốc độ ấy được cai trị bở nhà vua tên Nhương Khư, dùng chánh pháp trị dân, đầy đủ bảy báu. Khi con người tuổi thọ đúng 84 ngàn tuổi, thì bồ tát Di Lặc, từ cung trời Đâu Suất giáng sinh vào gia đình một vị đại thần của nhà vua. Thân phụ Ngài tên Tu Phạm Ma, thân mẫu tên là Phạm Ma Việt.

Đến khi tuổi thọ loài người giảm xuống còn 80 ngàn tuổi, thì Di Lặc Bồ tát xuất gia, đến dưới cội cây Long Hoa tu hành trong ngày đêm thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề.

Sau khi thành đạo, Ngài bắt đầu thuyết pháp, nói về công đức bố thí, trì giới, sinh thiên và tham dục là bất tịnh. Sau cùng nói pháp Tứ đế khổ tập diệt đạo. Trong chúng hội có một Trưởng giả tên là Thiện Tài tâm thanh tịnh, phat tâm xuất gia tu hành chứng quả A la Hán.

Cuối cùng vua Nhương Khư, cha là Tu Phạm Ma, mẹ là Phạm Ma Việt, phát tâm xuất gia tu hành. Nhà vua chứng quả A La Hán, thân phụ và mẫu hậu chứng sơ quả Tu đà hoàn.

Đức Phật Di Lặc cũng dùng pháp tam thừa giáo hóa chúng sanh như Ta ngày nay.

Khi ấy, Đức Phật bảo Ngài Ca Diếp, trong đệ tử của Ta có bốn vị đại Thanh văn. Đó là Ca Diếp, Quân Bồ tát, Tân Đầu Lô, La Vân không nên nhập Niết bàn sớm, hãy đợi đến khi giáo pháp Ta hoại diệt sẽ nhập Niết bàn.

Còn Ca Diếp phải đợi đến khi Đức Di Lặc ra đời mới nhập Niết bàn. Tại sao? Vì Di Lặc Bồ tát là đệ tử do Ta giáo hóa tu hành thành Phật.

Trong tương lai ông nhập Diệt tận định trong một hang núi tại thôn Tỳ Đề nước Ma Kiệt Đà. Khi ấy, Đức Phật Di Lặc đến nhận y Tăng Già Lê do ông trao lại, và sau đó ông mới nhập Niết bàn.

Đức Phật Di Lặc nói pháp chia làm ba hội. Hội thứ nhất có 96 ức người chứng quả A La Hán. Hội thứ hai có 94 ức. Hội thứ ba có 92 ức người chứng quả A La Hán đều là đệ tử của Ta giáo hóa hiện nay.

Khi ấy các Tỳ kheo, đệ tử Phật Di Lặc đều có tên là Tù Tử, cũng như đệ tử Ta ngày nay đều có tên là Thích Tử.

Này A Nan, trong thời gian 1.000 năm sau khi thành đạo, đại chúng đều thanh tịnh, Đức Phật Di Lặc chỉ dùng một bài kệ làm cấm giới:

Miệng, ý không hành ác,

Thân cũng không tạo ác,

Nên trừ ba ác hạnh,

Mau thoát dòng sanh tử.

Nhưng thời gian sau ngàn năm, đại chúng bắt đầu phạm giới, và Đức Phật mới bắt đầu chế giới.

Đức Phật Di Lặc thọ 84 ngàn tuổi, sau khi nhập diệt, giáo pháp tồn tại 84 ngàn năm. Tại sao? Vì chúng sanh thời ấy đều là hạng lợi căn.

Khi A Nan và đại hội nghe Phật nói pháp xong, hoan hỷ phụng hành.

PHẨM ĐẲNG THÚ TỨ ĐẾ SỐ 27 (Kinh văn số 05)

Tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật trú tại vườn Trưởng giả Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà nước Xá Vệ.

Bấy giờ Bồ tát Di Lặc đi đến chỗ Đức Như Lai ngự và thưa: “Bạch Thế Tôn, những vị đại Bồ tát thành tựu bốn pháp khi thực hành Bố thí Ba la mật, và đầy đủ sáu pháp Ba la mật, mau thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Đức Phật bảo Ngài Di Lặc: Nếu vị đại Bồ tát thành tựu bốn pháp, thì đầy đủ sáu pháp Ba la mật, và mau chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những gì là bốn? Nghĩa là khi Bồ tát bố thí trên từ chư Phật, Bích Chi Phật, dưới cho đến phàm phu chúng sanh, tất cả đều bình đẳng bố thí không lựa chọn và thường nghĩ như sau: Tất cả chúng sanh đều do ăn uống mà sống, nếu không ăn thì chết. Ấy là Bồ tát thành tựu pháp thứ nhất đầy đủ sáu pháp Ba la mật.

Nếu khi Bồ tát bố thí đầu mắt tủy não, đất nước, vợ con một cách vui vẻ, không có tâm luyến tiếc, vui mừng ví như người sắp chết được sống lại. Ấy là Bồ tát thành tựu pháp thứ hai đầy đủ sáu pháp Ba la mật.

Nếu khi Bồ tát bố thí là vì tất cả chúng sanh, chớ không phải vì riêng mình, thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ấy là Bồ tát thành tựu pháp thứ ba đầy đủ sáu pháp Ba la mật.

Hơn nữa Di Lặc, nếu khi thực hành bố thí, thường nghĩ như sau: Trong các loài chúng sanh, Bồ tát là thượng thủ, đầy đủ sáu độ, hiểu rõ bản chất các pháp. Tại sao? Vì Bồ tát các căn vắng lặng, suy nghĩ về cấm giới (trì giới), không có tức giận, tu hành từ tâm (nhẫn nhục), dõng mãnh tinh tấn, tăng trưởng pháp lành, đoạn trừ pháp ác (tinh tấn). Hằng giữ nhất tâm không rối loạn (thiền định) đầy đủ biện tài, đối với các pháp môn không vượt thứ lớp (trí tuệ). Ấy là Bồ tát thành tựu pháp thứ tư, khiến cho đầy đủ sáu pháp Ba la mật.

Này Di Lặc, nếu đại Bồ tát thực hành bốn pháp này thì mau thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy Di Lặc hãy tu học như thế. Khi Di Lặc Bồ tát nghe Phật nói pháp xong hoan hỷ phụng hành.

TOÁT YẾU KINH CHUYỂN LUÂN VƯƠNG TU HÀNH (Kinh số 6)

Kinh Chuyển Luân Vương tu hành, tương đương Kinh Cakkavatti Sìhanàda số 26 (Trường Bộ Kinh). Nội dung Kinh gồm 09 đoạn chính.

1. Đức Phật khuyên các Tỳ kheo tu hành 01 Pháp:

Để mở đầu bài Kinh, Đức Phật khuyên các Tỳ kheo nên tu hành 01 pháp. Đó là, “Hãy tự một mình thắp đuốc lên mà đi, hãy thắp lên với Chánh pháp, đừng thắp lên với một pháp nào khác. Hãy nương tựa với chính mình, nương tựa với chánh pháp, đừng nương tựa với một pháp nào khác”.

Nghĩa là các Tỳ kheo phải tu hành Tứ Niệm Xứ. Tức là quán thân mình, thân người là bất tịnh. Quán tâm vô thường, quán thọ là khổ và quán pháp vô ngã. Nếu tu hành được như thế, thì chúng Ma không thể phá hoại, và công đức một ngày một tăng.

2. Đức Phật giới thiệu nhân cách một vị Chuyển Luân Vương:

Tiếp theo, Đức Phật giới thiệu, cách nay đã lâu, có một vị Chuyển Luân Vương ra đời, tên là Kiên Cố Niệm (Daldamemi) thống lãnh bốn châu thiên hạ, đầy đủ 7 báu, có 1.000 người con hùng dũng, không cần sử dụng khí giới, mà thiên hạ tự nhiên thái bình. Sau một thời gian dùng chánh pháp trị dân, đem lại thanh bình thịnh trị cho đất nước. Bỗng một hôm, xe vàng rời khỏi vị trí chỗ cũ, đó là báo hiệu thọ mạng nhà vua sắp kết thúc. Lập tức Ngài truyền ngôi cho Thái tử, rồi xuất gia tu đạo.

Tuy nhiên, trong thời gian xuất gia, nhà vua vẫn thường xuyên khuyến trị Thái tử hãy lấy chánh pháp trị dân, hãy gần gũi những bậc Sa môn, giới đức thanh tịnh, tu hành chơn chánh, để tham khảo ý kiến, trước khi muốn thực hiện bất cứ một điều gì.

3. Thái tử chính thức trở thành Chuyển Luân Vương:

Cứ theo thông lệ, đúng ngày Rằm trăng tròn, xe vàng xuất hiện. Nhà vua bảo xe chạy đi bốn hướng, Ngài theo xe kinh lý khắp bốn vùng đất nước, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, nhà vua đều được dân chúng địa phương nghinh đón nồng hậu, và bất cứ nơi nào nhà vua tới Ngài đều khuyên dân chúng hãy sống đúng với chánh pháp, để được an vui, hạnh phúc lâu dài. Sau khi kinh lý, an ủi dân chúng khắp bốn miền đất nước, Ngài trở về kinh. Và xe vàng dừng lại cố định trước cung điện nhà Vua.

4. Sự truyền ngôi của 07 vị Chuyển Luân Vương:

Trong một thời gian dài, với 06 vị Chuyển Luân Vương, cứ lần lượt truyền ngôi cho nhau. Và bất cứ vị nào lên ngôi, đều theo đúng thông lệ, hợp với qui tắc của các tiên vương, và thực hành đúng với chánh pháp. Tuy nhiên, chỉ có vị vua thứ 7 sau này, khi lên ngôi, Ngài không theo đúng thông lệ, không phù hợp với qui tắc của các bậc tiên vương, nhất là không thực hành theo chánh pháp. Do đó, đất nước, xã hội không được bình thường, nạn trộm cướp xuất hiện, dân tình đói khổ, tai nạn xảy ra, đưa đến tình trạng tranh chấp, sát hại lẫn nhau.

5. Tình trạng tuổi thọ loài người giảm xuống:

Do vì con người tạo ba nghiệp ác về thân, nên tuổi thọ giảm từ 4 vạn xuống còn 2 vạn, 1 vạn tồi 100. Tiếp theo do tạo 4 nghiệp ác về miệng, nên tuổi thọ giảm 500. Và vì họ tiếp tục là ba hạnh phi pháp khác (dâm, tham, tà kiến) nên tuổi thọ giảm xuống còn 300, 200, 100 và đến 10 thì dừng lại.

Đến giai đoạn này, con người cực ác, thấy nhau là muốn giết nhau. Tất cả nền đạo đức, luân lý gia đình, xã hội không còn được tôn trọng. Thậm chí tên Thập thiện không còn được nghe, huống chi là thực hành. Trái lại, chỉ nghe tên Thập ác, do đó, người nào làm ác, thì được tán thưởng như người làm thiện. Thế rồi tình trạng tương tàn tương sát xảy ra trong vòng 7 ngày. Đối với những người có trí, họ lánh nạn vào trong rừng núi, sau 7 ngày, khi tình hình lắng dịu, họ trở về nhà. Trên đường đi, họ gặp ai còn sống sót, đều mừng rỡ và nói: “Chúng ta hãy còn sống, vậy hãy thương yêu đùm bọc lẫn nhau, không nên giết hại nhau nữa”. Do đó, thiện tâm bắt đầu tăng trưởng.

6. Tình trạng tuổi thọ loài người tăng lên:

Sau khi chúng sinh thoát qua cơn sát hại khủng khiếp, con người bắt đầu hồi tâm hướng thiện, lánh dữ làm lành, tu ba nghiệp thiện về thân, do đó tuổi thọ bắt đầu tăng lên từ 10 đến 20, rồi 40 và 80; và do tiếp tục tu bốn nghiệp thiện về miệng, nên tuổi thọ lại tăng lên 160 rồi 230, đến 640 và sau đó là 2000. Rồi họ tiếp tục tu ba nghiệp thiện về ý, nên tuổi thọ tăng lên 5000, rồi 1 vạn, 2 vạn và do không làm 3 hạnh phi pháp khác (dâm, tham, tà kiến), nên tuổi thọ tăng lên 4 vạn. Cuối cùng, do hiếu thuận cha mẹ, cung kính sư trưởng, nên tuổi thọ tăng lên 8 vạn. Trong thời gian này, xã hội thật thanh bình, hạnh phúc, vật chất dồi dào, dân cư đông đúc, nhà cửa khang trang.

7. Đức Bồ tát Di Lặc ra đời:

Vào thời gian tuổi thọ con người đúng 8 vạn, thì Đức Bồ tát Di Lặc ra đời, Ngài xuất gia, tu hành, chứng quả giữa thế gian, đầy đủ 10 đức hiệu, Pháp Ngài nói ra đầu, giữa và sau cùng đều thanh tịnh, đệ tử đông vô số, như đệ tử Phật Thích Ca ngày nay. Dân chúng lúc ấy gọi đệ tử Ngài là Tử Tử, như ngày nay dân chúng gọi để tử Phật Thích Ca là Thích Tử.

8. Chuyển Luân Vương ra tu hành chứng quả:

Trong khi Đức Phật Di Lặc ra đời, dùng giáo pháp độ sanh, thì cùng một lúc, có vị Chuyển Luân Vương ra đời, tên là Nhương Khư (Sankha), đầy đủ bảy báu, thống lãnh bốn châu thiên hạ. Sau một thời gian dùng chánh pháp trị dân, nhà vua cạo bỏ râu tóc, mặc ba Pháp y, xuất gia tu đạo, thực hành hạnh vô thượng, cuối cùng chứng quả A La Hán trong đời hiện tại.

9. Đức Phật khuyên các Tỳ kheo tu hành 5 pháp:

Để kết thúc bài kinh, một lần nữa Đức Phật khuyên các Tỳ kheo hãy tu hành 5 pháp, đó là: a.Tu Tứ như ý túc (Dục, Tinh tấn, Niệm, Định) để được thọ mạng lâu dài. b.Hãy giữ gìn giới luật, để thân thể được trang nghiêm. c.Hãy tu Tứ thiền, để thân được an ổn khoái lạc. d.Hãy tu Bốn Tâm vô lượng, để được của báu dồi dào. e.Nên tu Tứ diệu, để đầy đủ oai lực, chúng Ma không thể phá hoại.

Thông qua bài kinh này, chúng ta nhận thấy, về kiếp tăng, kiếp giảm, tuổi thọ con người tăng hay giảm, là tùy thuộc vào hành động loài người tu 10 điều lành về Thân, Khẩu, Ý hay ngược lại. Và Chuyển Luân Vương là vị vua lý tưởng. Ngài ra đời trong một hoàn cảnh xã hội rất đặc biệt. Thông thường, Chuyển Luân Vương là tiền thân Phật khi còn làm Bồ tát. Tại sao? Vì, Ngài đòi nhứt định dùng chánh pháp trị dân, đem lại sự thanh bình, an thạnh trị, an vui hạnh phúc cho chúng sanh. Và, một sự kiện đặc biệt chú ý là trong tương lai sẽ có Đức Phật Di Lặc ra đời, với sự kiện trên, giữa hai Kinh Chuyển Luân Vương chữ Hán và Pàli đều đồng nhất.

TOÁT YẾU KINH THUYẾT BỔN

Kinh Thuyết Bổn là Kinh trình bày những nhân duyên quá khứ và dẫn đến quả tương lai. Đó là nhân duyên về Tôn giả A Na Luật, Tỳ kheo A Di Đà và Tôn giả Di Lặc.

Nội dung gồm có:

A. Các Tỳ kheo luận bàn về lợi lộc và phúc đức.

Quan điểm chung của các Tỳ kheo là, chỉ có phúc đức là thù thắng, còn lợi lộc không thành vấn đề, chỉ là phúc báo hữu lậu. Trái lại, phúc đức là nhân vô lậu và sẽ đưa đến quả vô lậu, giải thoát, chứng Niết bàn.

B. Tôn giả A Na Luật trình bày vấn đề phúc đức thù thắng để chứng minh.

Trên cơ sở phúc đức thù thắng hơn lợi lộc, Tôn giả A Na Luật đã chứng minh là trong kiếp quá khứ Ngài đã cúng dường cho một vị Bích Chi Phật tên là Vô Hoạn, do đó, nhiều đời sinh ra được làm Nhân chủ, nhiều đời làm Thiên chủ, và đời này sinh làm người, gặp ngôi Tam bảo, xuất gia tu hành, chứng quả A La Hán.

C. Đức Phật thọ ký cho Tỳ kheo A Di Đà sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương.

Trong tương lai, khi tuổi thọ loài người sống 84.000 tuổi, cảnh vật sum tươi, nhân dân hạnh phúc, thiện nghiệp sâu dày, có một vị Chuyển Luân Thánh Vương ra đời, tên là Loa (Nhương Khư) dùng chính pháp trị dân. Về sau phát tâm xuất gia tu hành chứng quả A La Hán, vị Chuyển Luân Thánh Vương Loa (Nhương Khư) đó chính là hậu thân của Tỳ kheo A Di Đa.

D. Đức Phật thọ ký cho Tôn giả Di Lặc thành Phật trong tương lai.

Với bối cảnh như trên, Tôn giả Di Lặc ra đời, dưới dạng Bồ tát, xuất gia tu hành và thành Phật, hiệu là Di Lặc. Sự hoằng dương chính pháp của Ngài, cũng như Đức Phật Thích Ca ngày nay. Đệ tử Ngài được tôn xưng là Từ Tử, cũng như ngày nay gọi đệ tử Đức Phật Thích Ca là Thích Tử.

E. Ma Ba tuần đến khuấy phá Phật.

1. Giữa bối cảnh Đức Phật thọ ký cho Tỳ kheo A Di Đa sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, tôn giả Di Lặc sẽ thành Phật, thì Ma Ba Tuần đến quấy phá bằng những bài kệ, nói lên ý nghĩa Bồ tát Di Lặc sẽ không thành Phật, mà vẫn sống trong cảnh giới bình thường của Loa Vương, tức Quốc độ của Chuyển Luân Thánh Vương Loa (Nhương Khư). Nhưng Đức Phật đã biết là Ma và Ngài xác lập vấn đề chắc chắn sẽ xảy ra, như Ngài đã thọ ký qua bài kệ quan trọng sau cùng là: “Người ấy tất qua bờ. Như chim phá lưới ra. Chứng trụ thiền tự tại. Đủ lạc, thường hoan hỷ. Nên biết người là Ma. Mà Ta đã hàng phục”.

2. Khi Đức Phật đã biết là Ma thì Ma Ba Tuần liền biến mất. Như Khế kinh nói: “Biết Ma, thì Ma diệt. Biết huyễn tức là xa lìa, ly huyễn tức là giác ngộ”.

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

PHẦN II

6. KINH CHUYỂN LUẤN THÁNH VƯƠNG TU HÀNH

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại Ma-la-hê-sưu, du hành nhân gian, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, dần dần đi đến nước Ma-lâu.

Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy tự thắp sáng. Thắp sáng trong Chánh pháp, chớ đừng thắp sáng ở nơi khác. Hãy tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Chánh pháp, chớ đừng nương tựa vào một nơi nào khác...

“Này các Tỳ-kheo, thế nào là hãy tự thắp sáng; thắp sáng trong Chánh pháp, chớ đừng thắp sáng ở nơi khác; hãy tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Chánh pháp, chớ đừng nương tựa vào một nơi nào khác?

“Ở đây, Tỳ-kheo quán thân trên nội thân, tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thân trên ngoại thân, quán thân trên nội ngoại thân, tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ bỏ tham ưu ở đời. Quán thọ, quán ý, quán pháp cũng vậy. Đó là Tỳ-kheo hãy tự thắp sáng; thắp sáng trong Chánh pháp, chớ đừng thắp sáng ở nơi khác; hãy tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa nơi Chánh pháp, chớ đừng nương tựa vào một nơi nào khác. Thực hành như thế sẽ không bị ma nhiễu hại, công đức ngày một thêm. Tại vì sao?

“Vào thời quá khứ xa xưa, có vị vua tên là Kiên Cố Niệm, là vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ, làm Chuyển luân Thánh vương, Chuyển luân Thánh vương thống lãnh cả bốn châu thiên hạ. Bấy giờ nhà vua là vị Tự tại, cai trị bằng chánh pháp, là người tối thắng trong loài người. Vua có đủ bảy thứ báu: bánh xe vàng báu, voi trắng báu, ngựa xanh báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu, chủ binh báu. Và có một ngàn người con hùng dũng, đủ sức dẹp địch. Vua không cần dùng binh mà thiên hạ tự thái bình.

“Vua Kiên Cố Niệm trị vì đã lâu ngày, một hôm bánh xe vàng báu ở không trung bỗng tự nhiên rời khỏi chỗ cũ. Người coi bánh xe gấp đến tâu vua: Tâu Đại vương, nên biết, bánh xe báu nay rời khỏi chỗ cũ. Sau khi nghe thế, vua Kiên Cố Niệm nghĩ: Ta từng nghe các bậc tiền túc kỳ cựu nói: Nếu bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng của Chuyển luân vương không còn được lâu. Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở cõi người, nên tìm phương tiện để thọ hưởng phước lạc thiên thượng. Ta hãy lập thái tử lên thống lãnh bốn châu thiên hạ và phong riêng một ấp cho người hớt tóc, để khiến cắt bỏ râu tóc, rồi ta mặc pháp y, xuất gia tu đạo.

“Rồi vua Kiên Cố Niệm sai gọi thái tử và bảo: Khanh biết không? Ta từng nghe các bậc tiền túc kỳ cựu nói, nếu bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng của Chuyển luân vương không còn được lâu. Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở cõi người, nên tìm phương tiện để thụ hưởng phước lạc trên Trời thiên thượng. Nay ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Ta đem bốn châu thiên hạ ủy thác cho ngươi. Ngươi hãy gắng sức, thương yêu dân chúng. Sau khi thái tử lãnh mạng. Vua Kiên Cố Niệm liền cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.

“Vua xuất gia được bảy ngày thì bánh xe vàng báu bỗng nhiên không hiện ra nữa. Người coi bánh xe đến tâu vua: Đại vương nên biết, nay bánh xe vàng báu bỗng nhiên biến mất. Vua không vui. Bèn tìm đến chỗ vua Kiên Cố Niệm. Sau khi đến, bạch rằng: Phụ vương nên biết, nay bánh xe vàng báu bỗng nhiên không hiện ra nữa. Vua Kiên Cố Niệm trả lời con: Ngươi chớ lo lắng cho là điều không vui. Bánh xe vàng báu đó không phải là của cha ngươi sản xuất ra. Ngươi chỉ cần gắng thi hành chánh pháp Thánh vương, rồi đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội nước hương, lên ngồi tại chánh pháp điện, có thể nữ bao quanh, tức thì có thần bảo bánh xe vàng báu tự nhiên hiện đến. Bánh xe có ngàn căm, màu sắc đầy đủ, là tác phẩm của thợ nhà trời chứ không phải của loài người.

“Thái tử tâu phụ vương: Phụ vương, chánh pháp của Chuyển luân thánh vương, Chuyển luân thánh vương là thế nào? Phải làm như thế nào?. Vua bảo con: Hãy nương trên pháp, an lập trên pháp, thành tựu nơi pháp; cung kính, tôn trọng, quán sát pháp; lấy pháp làm đầu, thủ hộ chánh pháp. Lại nữa, hãy răn dạy các thể nữ bằng pháp. Lại nữa, hãy chăm sóc dạy dỗ các vương tử, đại thần, các quan lại, trăm quan và thứ dân bằng pháp. Hãy hộ trì, chăm sóc các Sa-môn, Bà-la-môn, cho đến cầm thú. Rồi vua lại bảo con: Lại nữa, trong cõi nước ngươi, nếu có các Sa-môn, Bà-la-môn, tu hành thanh chơn, công đức đầy đủ, chuyên cần tinh tấn, xa lìa kiêu mạn, nhẫn nhục nhân ái, một mình ở chỗ nhàn tịnh tu tập, một mình yên nghỉ, một mình đạt đến Niết-bàn; tự mình diệt trừ tham dục, dạy người khác diệt trừ tham dục; tự diệt trừ sân nhuế, dạy người khác diệt trừ sân nhuế; tự diệt trừ ngu si, dạy người khác diệt trừ ngu si; ở trong chỗ ô nhiễm họ không ô nhiễm, trong chỗ tội ác họ không tội ác, trong chỗ ngu si họ không ngu si, chỗ có thể đắm trước họ không đắm trước, chỗ đáng trụ họ không trụ, chỗ đáng ở họ không ở, thân hành chất trực, miệng nói lời chất trực, ý nghĩ chất trực; thân hành thanh tịnh, miệng nói thanh tịnh, ý nghĩ thanh tịnh, chánh niệm thanh tịnh, nhân huệ, không hề chán; biết đủ trong sự ăn mặc và cầm bát đi khất thực để gây phước lành cho chúng sanh. Nếu có những người như thế, ngươi hãy thường nên tìm đến, tùy lúc hỏi han: phàm những điều tu hành, sao là thiện, sao là ác, sao gọi là phạm, sao gọi không phạm, cái nào đáng thân, cái nào không đáng thân, việc gì đáng làm, việc gì không đáng làm và thi hành pháp gì để được an lạc lâu dài? Ngươi hỏi xong rồi lấy ý mình quán xét thấy việc nên làm thì gắng làm, việc nên bỏ thì gắng bỏ. Trong nước nếu có kẻ mồ côi, già cả hãy nên chẩn cấp. Người nghèo cùng yếu kém đến xin, cẩn thận chớ trái nghịch. Trong nước có luật pháp cũ, ngươi chớ thay đổi. Đó là những pháp mà Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh vương tu hành, ngươi hãy phụng hành”.

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Này các Tỳ-kheo, khi Chuyển luân thánh vương nghe lời phụ vương dạy xong, thì như lời dạy mà tu hành. Đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội nước hương, lên ngồi tại bảo điện, có thể nữ bao quanh, tự nhiên có bánh xe báu hiện ra trước mặt, vành xe có ngàn căm sáng chói, do thợ trời làm chớ không phải đời có được. Bánh xe toàn bằng chân kim, đường kính bánh xe một trượng tư. Khi ấy, Chuyển luân Thánh vương Chuyển luân thánh vương thầm nghĩ: Ta từng nghe các bậc tiên túc kỳ cựu nói: Nếu vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ, đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội nước hương, lên ngồi tại bảo điện, có thể nữ bao quanh, thời tự nhiên có bánh xe vàng hiện đến trước mặt, bánh xe có ngàn căm, ánh sáng rực rỡ, là tác phẩm của thợ nhà trời chứ không phải do con người làm, được làm thành bằng vàng thật, đường kính trượng tư, khi đó được gọi là Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh vương. Nay có bánh xe báu ấy hiện đến há không là đây chăng? Ta hãy thử coi bánh xe đó thế nào?

“Khi ấy, vua Chuyển luân liền triệu bốn thứ binh, hướng về phía bánh xe vàng, trịch áo bày vai phải, đầu gối phải quỳ sát đất, rồi lấy tay mặt vỗ lên bánh xe và nói: Ngươi hãy theo đúng phép mà vận chuyển về phương Đông, chớ trái lệ thường. Bánh xe liền chuyển về phương Đông. Vua bèn dẫn bốn thứ quân binh đi theo bánh xe vàng, trước bánh xe vàng có bốn vị thần dẫn đường. Đến chỗ bánh xe vàng ngừng thì vua cũng dừng xe. Bấy giờ, các tiểu quốc phương Đông thấy đại vương đến, họ đem bát vàng đựng lúa bạc, bát bạc đựng lúa vàng đến trước vua, cúi đầu tâu rằng: “Đại vương đến, thật lành thay! Nay phương Đđông này đất ruộng phì nhiêu, nhân dân sung túc, tánh khí nhân hòa, từ hiếu trung thuận. Cúi mong Thánh vương lấy chánh pháp trị hóa chốn này, chúng tôi xin cung cấp hầu hạ, phục vụ mọi việc cần dùng. Vua Chuyển luân nói với các tiểu vương: “Thôi thôi chư Hiền! Thế là các ngươi đã cúng dường ta rồi đó. Các ngươi hãy nên lấy chánh pháp mà trị dân, chớ làm cho thiên lệch, không để cho quốc nội có hành vi phi pháp. Như vậy tức là ta trị hóa đó. Các tiểu vương vâng lệnh. Họ liền theo vua đi tuần khắp nước, đến tận mé biển Đông mới trở về.

“Vua lần lượt đi về phương Nam, rồi phương Tây, phương Bắc. Hễ bánh xe vàng đến ở đâu thì các quốc vương đều đến cống hiến như các tiểu quốc phương Đông vậy.

“Bấy giờ, vua Chuyển luân, sau khi đã theo bánh xe vàng đi khắp bốn biển, đem chánh đạo khai hóa, an ủi dân chúng xong, trở về nước, thì bánh xe vàng dừng lại trên không trung ngay cửa cung điện. Vua Chuyển luân vui mừng phấn khởi nói: Bánh xe vàng báu này thật là điềm tốt của ta. Nay ta chính thật là Chuyển luân thánh vương. Đó là sự thành tựu bánh xe vàng báu.

“Vua ấy trị đời một thời gian lâu, rồi bánh xe vàng báu giữa hư không lại bỗng nhiên rời chỗ cũ. Người coi bánh xe gấp đến tâu vua: Đại vương nên biết, nay bánh xe báu đã rời chỗ. Vua nghe xong liền tự mình suy nghĩ: Ta từng nghe nơi các bậc tiên túc kỳ cựu rằng, nếu bánh xe báu dời chỗ, Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh vương sống chẳng còn bao lâu nữa. Ta nay đã hưởng thọ phước lạc của loài người, cũng nên tìm phương tiện thọ phước lạc trên trời. Ta hãy lập thái tử thống lãnh bốn thiên hạ, phong riêng một ấp cho người hớt tóc và ra lệnh cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.

“Rồi vua sai gọi thái tử và bảo: Khanh biết không? Ta từng nghe các bậc tiền túc kỳ cựu nói, nếu bánh xe báu rời khỏi chỗ cũ thì thọ mạng của Chuyển luân vương không còn được lâu. Ta nay đã thụ hưởng phước lạc ở cõi người, nên tìm phương tiện để thụ hưởng phước lạc thiên thượng. Nay ta muốn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Ta đem bốn châu thiên hạ ủy thác cho ngươi. Ngươi hãy gắng sức, thương yêu dân chúng. Sau khi thái tử lãnh mạng, vua liền cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.

“Vua xuất gia được bảy ngày thì bánh xe vàng bỗng nhiên không hiện. Người coi bánh xe đến báo tin vua: Tâu Đại vương, bánh xe báu nay bỗng nhiên biến mất. Vua nghe xong chẳng cho đó là điều đáng lo, cũng chẳng chịu đến hỏi ý phụ vương. Rồi vua cha bỗng nhiên thăng hà.

“Kể từ đây về trước có sáu vua Chuyển luân, cứ đắp đổi trao ngôi và lấy chánh pháp trị dân, duy một ông vua sau này tự chuyên trị nước, không theo pháp cũ, chánh trị bất công khiến thiên hạ oán thán, quốc độ kém sút, nhân dân điêu linh. Thấy vậy có một đại thần dòng Bà-la-môn đến tâu vua: Nay quốc độ sút kém, nhân dân điêu linh, không được như trước. Hiện nay trong nước vua có nhiều vị trí thức, thông minh bác đạt, rõ thấu cổ kim, biết đủ pháp chánh trị của tiên vương, sao ngài không vời lại để hỏi những điều họ biết, hỏi chắc họ đáp. Vua liền vời quần thần đến hỏi cái đạo trị chánh của Tiên vương, các vị trí thần đáp đủ mọi việc. Vua nghe xong bèn thi hành theo pháp cũ, lấy chánh pháp cứu hộ nhân dân, nhưng vẫn không thể chẩn tế những kẻ cô lão, cấp thí cho người hạ cùng, nhân dân trong nước vẫn bị đưa dần tới chỗ nghèo khổ, xâm đoạt lẫn nhau mà thành có nạn đạo tặc hoành hành. Mỗi khi có ai bị rình bắt được đem đến vua, tâu rằng: Người này làm giặc, xin vua trị nó. Vua hỏi: Có thật ngươi là giặc không? Người ấy đáp: Thật. Vì tôi nghèo cùng đói khát, không tự sống nổi nên phải làm giặc. Vua liền xuất kho, lấy của cấp cho và dặn: Ngươi đem của này về cung cấp cha mẹ, giúp đỡ bà con, từ nay chớ làm giặc nữa nghe.

“Các người khác thấy vậy đồn: Có kẻ làm giặc được vua cấp cho tài bảo, nên họ cũng bắt chước làm theo. Họ lại bị rình bắt được đem đến vua, tâu rằng: Người này làm giặc, xin vua trị nó. Vua lại hỏi: Có thật ngươi là giặc không? Người kia đáp: Dạ thật. Vì tôi nghèo cùng đói khát không tự sống nổi, nên phải làm giặc. Vua lại xuất kho lấy của cấp cho và bảo: Ngươi đem của này về cung cấp cha mẹ, giúp đỡ bà con, từ nay chớ làm giặc nữa nghe.

“Lại những người khác nghe nói có kẻ làm giặc được vua cấp cho tài bảo, nên họ bắt chước rủ nhau làm theo và lại bị rình bắt đem đến vua, tâu: Người này làm giặc, xin vua trị nó. Vua lại hỏi: Có thật ngươi làm giặc không? Người kia đáp: Dạ thật. Vì tôi nghèo cùng đói khát, không tự sống nổi nên phải làm giặc. Lần này vua nghĩ: Trước có người làm giặc, ta thấy nghèo đói cấp cho tài vật, dặn thôi đừng làm. Người khác nghe thế lại bắt chước làm. Nạn đạo tặc nhân đó tràn lan mãi. Thôi bây giờ tốt hơn ta phải hạ lệnh bắt trói người này dắt đi các ngõ đường, sau đưa ra ngoài thành đến chỗ trống trải mà hành hình, để răn người sau. Vua liền sắc tả hữu bắt trói lại rồi đánh trống xướng lệnh đưa đi khắp ngõ đường. Xong rồi đem tới một nơi trống trải ở ngoài thành mà hành hình. Mọi người khác thấy vậy truyền nhau: Nếu chúng ta làm giặc, cũng phải bị xử như thế chẳng khác gì. Từ đây quốc dân, để tự phòng hộ, mới tạo ra những binh trượng, gươm đao, cung tên, tàn hại nhau, tấn công, cướp giật lẫn nhau.

“Kể từ vua này mới bắt đầu có sự nghèo cùng. Nhân có nghèo cùng mới có đạo tặc. Nhân có đạo tặc mới có đao trượng. Nhân có đao trượng mới có sát hại. Nhân có sát hại nên nhan sắc con người mới tiều tụy, thọ mạng ngắn ngủi. Họ sống từ bốn vạn tuổi, sau lần xuống còn hai vạn tuổi. Trong số đó có người sống lâu; có người chết yểu; có người khổ; có người sướng. Những người khổ thì sinh tâm tà dâm, tham thủ, bày đủ phương tiện để mưu đoạt của nhau, nên tai nạn nghèo cùng, trộm cướp, đao trượng, sát hại càng ngày càng nhiều, làm cho mạng người lại giảm dần xuống chỉ sống một vạn tuổi.

“Trong thời gian người sống một vạn tuổi, vẫn lại trộm cướp lẫn nhau. Mỗi khi bị rình bắt đem đến vua, tâu rằng: Người này làm giặc, xin vua trị nó. Vua hỏi: Có thật ngươi làm giặc không? Người kia đáp: Tôi không làm. Và ở giữa đám đông nó cố ý nói dối. Như vậy chúng sanh lúc đó vì nghèo cùng nên trộm cướp. Vì trộm cướp nên có đao binh. Vì đao binh nên có giết hại. Vì giết hại nên có tham thủ tà dâm. Vì tham thủ tà dâm nên có nói dối. Vì có nói dối, do đó tuổi thọ lại giảm lần, chỉ còn sống được một ngàn tuổi.

“Trong thời gian sống một ngàn tuổi, bắt đầu người ta tạo bốn ác hạnh về miệng trên đời là nói dối, nói hai lưỡi, nói độc ác và nói thêu dệt. Ba ác nghiệp đó tăng dần lên thì tuổi thọ con người giảm bớt xuống, chỉ còn sống được năm trăm tuổi.

“Trong thời gian sống năm trăm tuổi, người ta lại tạo thêm ba nết ác khác là dâm dục phi pháp, tham lam phi pháp và tà kiến. Ba ác nghiệp này tăng dần lên thì tuổi thọ con người giảm bớt xuống, chỉ còn sống đến ba trăm rồi hai trăm tuổi và nay, nhân loại trong thời ta, chỉ còn sống được một trăm tuổi. Số tuổi thọ được tăng thì ít mà giảm thì nhiều. Hễ cứ làm ác mãi thì tuổi thọ cứ như thế giảm xuống mãi cho đến khi nhân loại chỉ còn sống mười tuổi.

“Trong thời gian nhân loại sống mười tuổi này, con gái vừa sinh ra năm tháng đã gả chồng. Ở vào thời ấy, những vị ngon ngọt như dầu mỡ, đường mật không còn nghe tên. Đậu, mè, lúa, nếp biến thành cỏ rác. Những thứ danh phục, lụa là, gấm vóc, vải trắng, kiếp- ba, lụa tơ, lãnh nhiễu như bây giờ không thấy mặc, mà phải bện lông gai xô xảm lấy làm áo mặc thượng hạng. Bấy giờ, toàn cõi đất này mọc đầy gai góc, sanh đầy mòng muỗi, ruồi lằng, chấy rận, rắn rết, ong, bò cạp, trùng độc. Vàng bạc, lưu ly, trân châu, danh bảo đều lặn hết xuống đất, chỉ còn ngói đá, sạn sỏi thì nổi cả lên trên. Nhân loại lúc đó tuyệt nhiên không còn nghe đến tên thập thiện mà chỉ có thập ác dẫy đầy thế gian. Nhằm lúc cái tên thiện pháp còn không nghe thấy, nhân loại không biết đâu để tu tập hạnh lành, do đó hễ người nào làm điều cực ác, bất hiếu với cha mẹ, bất kính với sư trưởng, bất trung bất nghĩa, phản nghịch vô đạo, thì được dân chúng tôn sùng như hiện nay người ta tôn sùng kẻ làm điều lành, hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng, trung tín tiết nghĩa, thuận đạo tu nhân vậy.

“Nhân loại thời ấy, phần nhiều tạo mười điều ác nên sa vào nẻo ác nhiều, hễ vừa trông thấy nhau là họ muốn bắn giết nhau như kẻ thợ săn trông thấy bầy nai.

“Cõi đất lúc ấy đầy dẫy hố hầm, khe suối, hang hóc; đất rộng người thưa, đi lại ghê sợ. Nhằm lúc ấy thì có nạn đao binh nổi lên. Cọng cỏ nhánh cây cầm trong tay cũng đều biến thành qua mâu, giết hại nhau trong vòng bảy ngày. Khi ấy, những kẻ có trí, tìm lánh vào rừng sâu, nương ở hang hố, trong bảy ngày lòng quá sợ hãi mà phát lời từ thiện rằng: Ngươi không hại ta, ta không hại ngươi. Họ nhờ ăn cỏ cây mà sống còn. Qua khỏi bảy ngày họ từ núi đi ra, hễ gặp người sống sót, vừa thấy nhau đã mừng rỡ nói: Ngươi không chết ư? Ngươi không chết ư? Giống như cha mẹ chỉ có con một, xa cách lâu ngày, nay gặp lại mừng không xiết kể. Họ đem lòng mừng rỡ chúc hỏi nhau như thế xong, sau mới thăm hỏi đến nhà, thì hay rằng thân thuộc nhà họ đã chết đi nhiều, nên họ lại buồn khóc, than van, kêu ca với nhau trong suốt bảy ngày tiếp.

“Hết bảy ngày buồn khóc, tiếp đến bảy ngày họ cùng nhau chúc mừng, hoan lạc và tự nghĩ: Vì chúng ta chứa ác quá nhiều nên gặp phải tai nạn, khiến thân tộc chết chóc, gia quyến mất tiêu. Vậy nay ta nên chung nhau tu tập điều lành, nhưng hãy tu điều lành gì? Ta nên đừng sát sinh.

“Bấy giờ nhân loại lại phát từ tâm, không tàn hại nhau, nhờ đó nhân loại được tăng dần sắc lực và thọ mạng từ mười tuổi nay sống lên hai mươi tuổi. Trong lúc sống hai mươi tuổi lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít hạnh lành không tàn hại nhau mà thọ mạng tăng lên hai mươi tuổi. Có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Trước đã không sát sinh rồi, giờ ta nên đừng trộm cắp. Và do tu điều không trộm cắp mà thọ mạng tăng lên bốn mươi tuổi. Trong lúc sống bốn mươi tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít lành mà thọ mạng tăng lên, nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên tu điều không tà dâm. Từ đó mọi người đều không tà dâm và thọ mạng tăng lên tám mươi tuổi. Trong lúc sống tám mươi tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít lành mà thọ mạng tăng lên, nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không nói dối. Từ đó mọi người thảy đều không nói dối và thọ mạng tăng lên đến một trăm sáu mươi tuổi. Trong lúc sống một trăm sáu mươi tuổi lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không nói hai lưỡi. Từ đó mọi người đều không nói hai lưỡi và thọ mạng tăng lên ba trăm hai mươi tuổi. Trong lúc sống ba trăm hai mươi tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không ác khẩu. Từ đó mọi người không ác khẩu và thọ mạng tăng lên sáu trăm bốn mươi tuổi. Trong lúc sống sáu trăm bốn mươi tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không nói thêu dệt. Từ đó mọi người không nói thêu dệt và thọ mạng tăng lên đến hai ngàn tuổi. Trong lúc sống hai ngàn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không xan tham. Từ đó mọi người không xan tham và thọ mạng tăng lên đến năm ngàn tuổi. Trong lúc sống năm ngàn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên không tật đố, Từ tâm tu thiện. Từ đó mọi người không tật đố, Từ tâm tu thiện và thọ mạng tăng lên đến một vạn tuổi. Trong lúc sống một vạn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên tu chánh kiến, không sanh điên đảo. Từ đó mọi người tu chánh kiến, không sanh điên đảo và thọ mạng tăng lên đến hai vạn tuổi. Trong lúc sống bốn vạn tuổi, lại suy nghĩ: Chúng ta nhờ tu chút ít điều lành mà thọ mạng tăng lên. Nay có lẽ ta nên tu thêm ít điều lành nữa. Nhưng nên tu điều lành gì? Ta nên hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng. Từ đó mọi người đều hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng và thọ mạng tăng lên đến tám vạn tuổi.

“Trong lúc nhân loại sống tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi mới gả chồng và có chín thứ bệnh là lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện, tham dục, ham ăn và già nua. Cõi đất lúc ấy bằng phẳng không có rạch hầm, gò nổng gai góc, cũng không mòng muỗi, rắn rết, trùng độc. Ngói, đá, cát, gạch thì biến thành lưu ly. Nhân dân sung túc, ngũ cốc rẻ thường, giàu vui không xiết tả. Có tám vạn thành lớn được dựng lên, thôn thành san sát gần nhau, gà gáy cùng nghe được.

“Vào thời kỳ ấy thì có Đức Phật ra đời hiệu là Di-lặc Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ như Đức Thích-ca Như Lai ngày nay không khác. Đức Di-lặc kia tự mình tu chứng ngay ở giữa hàng chư Thiên, Đế Thích, Ma, Thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn và Nhân gian, mà tự thân tác chứng, cũng như ta ngày nay ở ngay giữa hàng chư Thiên, Đế Thích, Ma hoặc Thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn và Nhân gian mà tự mình tác chứng vậy.

“Đức Di-lặc sẽ thuyết pháp, khoảng đầu, giữa và cuối đều trọn lành, đầy đủ nghĩa vị, tịnh tu phạm hạnh như ngày nay Ta thuyết pháp, khoảng đầu, giữa, cuối đều chân chánh, nghĩa vị đầy đủ, phạm hạnh thanh tịnh vậy.

“Đức Di-lặc có chúng đệ tử vô số ngàn vạn, như Ta ngày nay có đệ tử vài trăm. Nhân dân lúc ấy gọi đệ tử Ngài là Từ tử như gọi đệ tử Ta nay là Thích tử.

“Lúc ấy, có vua tên là Tương-già, là vua Sát-lỵ Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh vương quán đảnh, cai trị bốn châu thiên hạ. Vua lấy chánh pháp trị dân, ai nấy đều mến phục. Vua có đủ bảy thứ báu là bánh xe vàng, voi trắng, ngựa xanh, thần châu, ngọc nữ, cư sĩ, chủ binh và ngàn người con dõng mãnh hùng nghị, đủ sức dẹp ngoại địch, được bốn phương kính thuận, không cần binh đao mà thiên hạ thái bình.

“Vua thiết lập một Đại bảo tràng vòng vây mười tầm, cao một ngàn tầm, được trang nghiêm với ngàn sắc lẫn lộn. Bảo tràng có một trăm góc; mỗi góc có trăm nhánh, dệt bằng chỉ báu, có các châu bảo xen lẫn. Sau khi lập bảo tràng để cúng thí hàng Sa-môn, Bà-la-môn và người nghèo trong nước xong, vua cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, tập hạnh vô thượng, ngay trong pháp hiện tại mà tự thân tác chứng, sanh tử dứt hết, phạm hạnh thành tựu, việc làm hoàn mãn, không còn phải chịu thân sau nữa”.

Phật dạy:

“Này các Tỳ-kheo! Các ngươi hãy siêng tu các thiện hạnh. Nhờ tu thiện hạnh mà thọ mạng lâu dài, nhan sắc thêm tươi, an ổn khoái lạc, tài bảo phong nhiêu, oai lực đầy đủ, giống như các vua thuận làm theo cựu pháp của Chuyển luân thánh vương Chuyển luân thánh vương thời thọ mạng lâu dài, nhan sắc thêm tươi, an ổn khoái lạc, tài bảo phong nhiêu, oai lực đầy đủ. Tỳ-kheo cũng vậy, nên tu thiện pháp, thọ mạng lâu dài, nhan sắc thêm tươi, an ổn khoái lạc, tài bảo phong phú, oai lực đầy đủ.

“Thế nào gọi là Tỳ-kheo được thọ mạng lâu dài? Tỳ-kheo tu tập dục định, tinh cần không giải đãi, do thành tựu diệt hành mà tu thần thông... Tu tập tinh tấn định, ý định, tư duy định, tinh cần không giải đãi, do thành tựu diệt hành mà tu thần thông. Như thế là Tỳ-kheo thọ mạng lâu dài.

“Thế nào gọi là Tỳ-kheo được nhan sắc thêm tươi? Ở đây, Tỳ-kheo có giới Cụ túc, thành tựu oai nghi, thấy có tội nhỏ đã sanh lòng sợ lớn, học tập đầy đủ trong các học giới, hoàn toàn không thiếu sót. Như thế là Tỳ-kheo nhan sắc thêm tươi.

“Thế nào gọi là Tỳ-kheo được an ổn khoái lạc? Ở đây, Tỳ-kheo đoạn trừ dâm dục, xả bỏ pháp bất thiện, có giác có quán, có hỷ lạc phát sanh do viễn ly, chứng đệ Nhất thiền. Trừ diệt giác và quán, nội đẳng tịnh, tâm chuyên nhất, không giác không quán, có hỷ lạc phát sanh do định, chứng đệ Nhị thiền. Lìa hỷ, an trú xả, chuyên tâm không tán loạn, tự mình biết rõ cảm giác lạc nơi thân, an trú nơi điều mà Hiền thánh nói là xả-niệm-lạc, chứng đệ Tam thiền. Dứt khổ dứt lạc, ưu và hỷ đã loại trừ từ trước, không khổ không lạc, xả và niệm thanh tịnh, chứng đệ Tứ thiền. Như thế là Tỳ-kheo an ổn, khoái lạc.

“Thế nào gọi là Tỳ-kheo được tài bảo phong nhiêu? Ở đây, Tỳ-kheo lo tu tập Từ tâm, khắp một phương, rồi đến các phương khác cũng vậy, bao trùm, rộng lớn, bình đẳng vô lượng, trừ mọi oán kết, tâm không tật đố, tịch mặc từ nhu. Bi tâm, Hỷ tâm, Xả tâm cũng như thế. Như thế là Tỳ-kheo được tài bảo phong nhiêu.

“Thế nào gọi là Tỳ-kheo được oai lực đầy đủ? Ở đây, Tỳ-kheo hiểu biết một cách như thật về Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Như thế là Tỳ-kheo được oai lực đầy đủ. Này các Tỳ-kheo! Nay Tta xem khắp những người có sức lực không ai hơn ma lực, nhưng Tỳ-kheo đã đoạn trừ hết hoặc lậu, thì lại thắng được chúng ma đó.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH TRUNG A-HÀM

66. KINH THUYẾT BỔN

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú tại Ba-la-nại, trú ở Tiên nhân đọa xứ, trong vườn Lộc dã.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau bữa ăn trưa, vì một nhân duyên nhỏ nên tụ tập ngồi tại giảng đường cùng bàn luận vấn đề này:

“Thế nào Chư Hiền, trong hàng cư sĩ tại gia, ai là người thù Thắng Lâm? Phải chăng là người có các Tỳ-kheo trì giới, diệu pháp, thành tựu oai nghi đến nhà thọ thực? Hay là người mà lợi lộc cứ tăng lên mỗi ngày, gấp trăm ngàn vạn lần?”

Hoặc có Tỳ-kheo nói rằng:

“Này Chư Hiền, lợi lộc gấp trăm ngàn vạn lần thì có nghĩa lý gì! Chỉ có điều này là chí yếu: nếu có một Tỳ-kheo trì giới diệu pháp, thành tựu oai nghi mà đến nhà thọ thực, chứ không phải là ngày ngày được lợi lộc gấp trăm ngàn vạn lần.”

Lúc đó, Tôn giả A-na-luật cùng ngồi trong chúng. Bấy giờ Tôn giả A-na-luật nói với các Tỳ-kheo rằng:

“Này Chư Hiền, lợi lộc gấp trăm ngàn vạn lần thì có nghĩa gì? Giả sử có nhiều hơn nữa thì chỉ có điều này là chí yếu: nếu có một Tỳ-kheo trì giới diệu pháp, thành tựu oai nghi đến nhà thọ thực, chứ không phải ngày ngày lợi lộc càng tăng gấp trăm ngàn vạn lần. Vì sao? Tôi nhớ, thuở xưa, tôi là một người nghèo khổ ở nước Ba-la-nại này, chỉ nhờ lượm mót gánh của khách mà sống [13]. Lúc ấy nước Ba-la-nại bị hạn hán, sương móc và trùng hoàng làm cho ngũ cốc không thể chín được. Nhân dân túng thiếu, kiếm xin khó được. Bấy giờ có một vị Bích-Chi-Phật hiệu là Vô Hoạn [14], trú tại Ba-la-nại này. Lúc ấy, vào buổi sáng sớm, Bích-Chi-Phật Vô Hoạn mang y cầm bát vào Ba-la-nại khất thực. Bấy giờ tôi đi ra khỏi Ba-la-nại vào lúc sớm để đi lượm mót. Này Chư Hiền, khi đang đi ra, [509a] tôi thấy từ xa Bích-Chi-Phật Vô Hoạn đi vào thành. Lúc Bích-Chi-Phật Vô Hoạn cầm tịnh bát đi vào thế nào thì lúc đi ra tịnh bát vẫn y như cũ.

“Này Chư Hiền, khi tôi lượm mót rồi trở về Ba-la-nại, tôi lại thấy Bích-Chi-Phật Vô Hoạn đi ra. Ngài thấy tôi liền nghĩ: ‘Sáng sớm, lúc Ta đi vào thì thấy người này đi ra. Bấy giờ ta trở ra lại thấy người này trở vào. Người này có thể chưa ăn. Nay ta hãy đi theo người này’. Rồi Bích-Chi-Phật đi theo tôi như bóng theo hình.

“Này Chư Hiền, khi tôi mang đồ lượm mót về đến nhà, bỏ gánh xuống và quay lại nhìn thì thấy Bích-Chi-Phật Vô Hoạn đi đến, theo sau tôi bén gót, như bóng theo hình. Tôi thấy Ngài, liền nghĩ: “Sáng sớm, lúc đi ra, mình thấy vị Tiên nhân này đi vào thành khất thực. Bây giờ vị Tiên nhân này có lẽ chưa có gì ăn. Ta hãy sớt bớt phần ăn của mình cho Tiên nhân này”. Nghĩ như vậy xong, tôi liền mang phần cơm bố thí cho Đức Bích-Chi-Phật và bạch rằng: “Mong Tiên nhân biết cho, cơm này là phần ăn của con. Vì lòng từ mẫn, mong ngài thương xót nhận cho”. Bấy giờ, vị Bích-Chi-Phật tức thì trả lời tôi rằng: “Cư sĩ nên biết, năm nay hạn hán, sương móc và trùng hoàng làm cho ngũ cốc không thể chín được. Nhân dân túng thiếu, kiếm xin khó được. Thí chủ có thể bớt phân nửa bỏ vào trong bát của ta và dùng phân nửa kia, cả hai cùng được sống còn. Như vậy đã là tốt rồi”. Tôi lại thưa rằng: “Tiên nhơn, xin biết cho, trong nhà con sẵn có chảo, có bếp, có củi, có thóc gạo, ăn uống sớm muộn cũng chẳng cần đúng giờ giấc. Tiên nhơn, xin hãy thương xót con mà nhận hết thức ăn này”. Bấy giờ Tiên nhân vì lòng từ mẫn mà nhận hết.

“Này Chư Hiền, tôi nhân phước bố thí cho Tiên nhân kia một bát cơm mà bảy lần tái sanh vào cõi trời, được làm Thiên vương; bảy lần tái sanh vào loài người lại làm bậc Nhân chủ.

“Này Chư Hiền, tôi nhân phước bố thí cho Tiên nhân kia một bát cơm mà được sanh vào dòng họ Thích như thế này [15], giàu có cùng tột, súc vật chăn nuôi vô số, phòng hộ, thực ấp, của cải vô lượng, châu báu đầy đủ.

“Này Chư Hiền, tôi nhân phước bố thí cho Tiên nhân kia một bát cơm nên xả bỏ được địa vị chủ nhân của trăm ngàn thể nữ [16], vàng bạc và vô số những tài vật khác nữa, xuất gia học đạo.

“Này Chư Hiền, tôi nhân bố thí cho Tiên nhân kia một bát cơm mà được vua chúa, vương thần, Bà-la-môn, cư sĩ và tất cả nhân dân thấy là tiếp đãi; bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di thấy thì kính trọng.

“Này Chư Hiền, tôi nhân bố thí một bát cơm kia mà thường được người thỉnh cầu thọ nhận đồ ăn thức uống, áo chăn, [509b] đệm lông, thảm dệt, giường nệm, thuốc thang trị bệnh và các dụng cụ cần cho sự sống; không gì là không được thỉnh cầu. Lúc bấy giờ nếu tôi biết vị Sa-môn ấy là Bậc Vô Sở Trước Chân Nhân thì phước báo được thu hoạch chắc chắn gấp bội, thọ nhận đại quả báo công đức cực diệu, ánh sáng soi chiếu, thấu suốt rất rộng, rất lớn, cùng khắp.”

Bấy giờ Tôn giả A-na-luật, bậc Vô Sở Trước Chân Nhân [17], được chánh giải thoát, nói bài tụng rằng:

Tôi nhớ, xưa nghèo nàn,

Chỉ nhặt cỏ mà sống.

Bớt phần, cúng Sa-môn

Vô Hoạn tối thượng đức.

Nhân đó sanh dòng Thích,

Tên là A-na-luật.

Hiểu rành về ca vũ;

Làm nhạc, thường hoan hỷ.

Tôi được gặp Thế Tôn

Chánh giác, như cam lồ.

Đã gặp, sanh tín tâm,

Bỏ nhà đi học đạo.

Tôi biết được đời trước,

Biết chỗ sanh trước kia;

Sanh Tam Thập Tam Thiên,

Bảy lần trú ở đó.

Đó bảy, đây cũng bảy;

Thọ sanh mười bốn lần,

Nhân gian và thiên thượng,

Chưa từng đọa ác đạo.

Nay biết rõ sanh tử,

Nơi chúng sanh qua lại;

Biết tâm người thị phi;

Hiền thánh, năm lạc thú;

Chứng năm chi thiền định [18],

Thường định, tâm tĩnh mặc [19].

Đã chứng đắc tịch tịnh

Liền đắc tịnh thiên nhãn.

Mục đích là học đạo;

Viễn ly, bỏ gia đình;

Nay ta đạt nghĩa ấy

Được vào cảnh giới Phật.

Ta không vui sự chết,

Cũng chẳng mong sự sanh;

Thời nào cũng tự tại,

Kiến lập chánh niệm trí.

Tỳ-da-ly, Trúc lâm [20],

Ở đây, mạng ta dứt;

Ngay dưới rừng trúc này,

Nhập Vô dư Niết-bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở chỗ tĩnh tọa, bằng thiên nhĩ thanh tịnh vượt xa hơn người thường, nghe các Tỳ-kheo sau bữa ăn trưa tụ tập tại giảng đường cùng bàn luận về vấn đề ấy. Nghe xong, vào buổi xế chiều, Đức Thế Tôn rời chỗ tĩnh tọa đứng dậy, đi đến giảng đường, trải chỗ ngồi trước chúng Tỳ-kheo mà ngồi, rồi hỏi rằng:

“Này các Tỳ-kheo, hôm nay các ngươi [509c] vì chuyện gì mà tụ tập tại giảng đường?”

Các Tỳ-kheo đáp:

“Bạch Thế Tôn, hôm nay vì Tôn giả A-na-luật nhân chuyện quá khứ mà thuyết pháp nên chúng con tụ tập tại giảng đường”.

Rồi thì, Đức Thế Tôn nói:

“Bây giờ các ngươi có muốn nghe nhân chuyện vị lai mà Phật thuyết pháp chăng?”

Các Tỳ-kheo thưa rằng:

“Bạch Thế Tôn, nay thật đúng thời. Bạch Thiện Thệ, nay thật đúng thời. Nếu Thế Tôn nhân chuyện vị lai mà thuyết pháp cho các Tỳ-kheo, thì các Tỳ-kheo sau khi nghe sẽ khéo thọ trì”.

Đức Thế Tôn nói:

“Này các Tỳ-kheo, hãy lắng nghe và khéo mà thọ trì, suy nghĩ, ghi nhớ! Ta phân biệt diễn thuyết rộng rãi cho các ngươi”.

Bấy giờ các Tỳ-kheo vâng lời ngồi nghe. Đức Thế Tôn nói:

“Này các Tỳ-kheo, một thời gian lâu xa ở vị lai, sẽ có lúc mà nhân dân thọ đến tám vạn tuổi. Lúc con người thọ đến tám vạn tuổi thì châu Diêm-phù này giàu có cùng tột, an lạc cùng tột, dân chúng đông đúc, thôn ấp gần nhau bằng khoảng cách của con gà bay.

“Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi thì con gái đến năm trăm tuổi mới lấy chồng.

“Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ tám vạn tuổi [21] thì chỉ những bệnh như thế này: nóng, lạnh, đại tiểu tiện, tham dục, ăn uống, già [22] và ngoài ra không có tai họa nào khác.

Này các Tỳ-kheo, lúc con người thọ tám vạn tuổi có vua tên là Loa [23], là Chuyển luân vương, thông minh trí tuệ, có bốn loại quân chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là Pháp vương theo đúng như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu là: xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu. Đó là bảy báu. vua có đầy đủ một ngàn người con trai, dung mạo khôi ngô, dũng mãnh, không khiếp sợ, hàng phục được địch quân. Vua thống lĩnh quả đất này cho đến bờ biển, không dùng đao gậy mà chỉ đem pháp để trị hóa, khiến dân chúng được an lạc. Có cây phướn bằng vàng lớn, [24] được trang hoàng bằng các thứ châu báu, treo cao một ngàn khuỷu tay, chu vi mười tám khuỷu tay, sẽ do vua dựng lên. Sau khi dựng xong, ngay phía dưới tổ chức bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo khổ cô độc từ các phương xa lại xin, đem đồ ăn thức uống, áo chăn, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, đệm lông, khăn quấn và cung cấp dầu đèn... Sau khi bố thí như vậy, vua cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Mục đích mà thiện gia nam tử kia cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, duy chỉ cầu đắc vô thượng phạm hạnh, ngay trong đời này mà tự tri tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”

Bấy giờ có Tôn giả [510a] A-di-đa [25] đang ngồi trong chúng. Tôn giả A-di-đa từ chỗ ngồi đứng dậy, kéo lệch tay áo đang mặc, chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, con sẽ có thể được làm vua, hiệu là Loa, là Chuyển luân vương, thông minh trí tuệ, có bốn loại quân chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị Pháp vương theo đúng như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu là xe báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu, đó là bảy báu. Con sẽ có đủ một ngàn người con dung mạo khôi ngô, dũng mãnh không khiếp sợ, hàng phục được địch quân. Con sẽ thống lĩnh trọn quả đất này cho đến biển cả, không dùng dao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa, khiến cho nhân dân an lạc. Con sẽ có cây phướn lớn bằng vàng, được trang hoàng bằng các loại châu báu, treo cao một ngàn khuỷu tay, do con dựng lên. Sau khi dựng xong, ngay bên dưới, tổ chức bố thí cho hàng Sa-môn, Bà-la-môn, kẻ khốn khổ cô độc từ phương xa lại xin, đem đồ ăn thức uống, áo chăn, xe cộ, tràng hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, nệm lông, khăn quấn và cung cấp đèn dầu. Sau khi bố thí xong, con liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, xuất gia học đạo. Con sẽ vì mục đích mà thiện gia nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, duy chỉ cầu đắc vô thượng phạm hạnh, ngay trong đời này mà tự tri tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”

Bấy giờ Đức Thế Tôn quở Tôn giả A-di-đa rằng:

“Ngươi là kẻ ngu si, chỉ nên chết thêm một lần, sao lại mong một lần tái sanh nữa? Vì sao như thế? Vì ngươi nghĩ rằng: Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, con có thể được làm vua, hiệu là Loa, là Chuyển luân vương, thông minh trí tuệ, có bốn loại quân chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị Pháp vương theo đúng như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu là xe báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, tướng quân báu, đó là bảy báu. Con có đủ một ngàn người con dung mạo khôi ngô, dũng mãnh không khiếp sợ, hàng phục được địch quân. Con thống lĩnh trọn quả đất này cho đến biển cả, không dùng dao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa, khiến cho nhân dân an lạc. Con có cây phướn lớn bằng vàng, được trang hoàng bằng các loại châu báu, treo cao một ngàn khuỷu tay, do con dựng lên. Sau khi dựng xong, ngay bên dưới, tổ chức bố thí cho hàng Sa-môn, Bà-la-môn, kẻ khốn khổ cô độc từ [510b] phương xa lại xin, đem đồ ăn thức uống, áo chăn, xe cộ, tràng hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, nệm lông, khăn quấn và cung cấp đèn dầu. Sau khi bố thí xong, con liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, xuất gia học đạo. Con vì mục đích mà thiện gia nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, duy chỉ cầu đắc vô thượng phạm hạnh, ngay trong đời này mà tự tri tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.”

Đức Thế Tôn bảo rằng:

“Này A-di-đa! Một thời gian lâu dài ở vị lai, ngươi sẽ làm vua hiệu là Loa, một vị Chuyển luân vương, thông minh trí tuệ, có bốn loại quân chỉnh trị thiên hạ, tự do tự tại, là vị Pháp vương theo đúng như pháp, thành tựu bảy báu. Bảy báu đó là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và tướng quân báu, đó là bảy báu. Ngươi sẽ có đủ một ngàn người con dung mạo khôi ngô, dũng mãnh không khiếp sợ, hàng phục được địch quân. Ngươi sẽ thống lĩnh toàn quả đất này cho đến biển cả, không dùng dao gậy, chỉ đem pháp giáo hóa khiến cho nhân dân an lạc. Ngươi sẽ có một cây phướn lớn bằng vàng, được trang hoàng bằng các loại châu báu, dựng cao một ngàn khuỷu tay, do ngươi dựng lên. Sau khi dựng lên, ngay bên dưới, tổ chức bố thí cho hàng Sa-môn, Bà-la-môn, kẻ cùng khổ, cô độc từ các phương xa lại xin; đem đồ ăn, thức uống, áo chăn, xe cộ, tràng hoa, bột hoa, bột hương, nhà cửa, giường nệm, nệm lông, khăn quấn, cung cấp đèn dầu... Sau khi bố thí xong, ngươi liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo. Ngươi vì mục đích mà thiện gia nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia học đạo, chỉ vì cầu vô thượng phạm hạnh, ngay trong đời hiện tại mà tự tri, tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trú, biết như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa”.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ tám vạn tuổi sẽ có Đức Phật hiệu là Di-lặc [26], Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn; cũng như hôm nay Ta đã thành vị Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

“Đức Phật ấy ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như hôm nay Ta ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ.

“Đức Phật ấy sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Ta hôm nay, thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.

“Đức Phật ấy sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi, hiển hiện. Cũng như Ta hôm nay quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi, hiển hiện.

“Đức Phật ấy sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo, cũng như Ta hôm nay có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo [27].”

Bấy giờ Tôn giả Di-lặc đang ở trong chúng ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, kéo lệch áo đang mặc, vòng tay hướng về Đức Phật, thưa rằng:

“Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ mạng đến tám vạn tuổi, con sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cũng như bây giờ Đức Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

“Con sẽ ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như hôm nay Thế Tôn ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ.

“Con sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Thế Tôn hôm nay, thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.

“Con sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi, hiển hiện. Cũng như Thế Tôn hôm nay quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi hiển hiện.

“Con sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo, cũng như hiện giờ Thế Tôn có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo”.

Bấy giờ Đức Thế Tôn tán thán Tôn giả Di-lặc rằng:

“Lành thay! Lành thay! Di-lặc, ngươi phát tâm cực diệu là dẫn lãnh đại chúng. Lý do vì sao? Vì ngươi đã nghĩ:

“– Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ mạng đến tám vạn tuổi, con sẽ [511a] thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Cũng như bây giờ Đức Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Con sẽ ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như hôm nay Thế Tôn ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Con sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Thế Tôn hôm nay, thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Con sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi, hiển hiện. Cũng như Thế Tôn hôm nay quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi hiển hiện”.

Đức Phật lại nói:

“Này Di-lặc, vào một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, ngươi sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Giống như Ta hiện nay là Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

“Ngươi sẽ ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như hôm nay Ta ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ.

“Ngươi sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Ta hôm nay, thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.

“Ngươi sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi, hiển hiện. Cũng như Ta hôm nay quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi hiển hiện.

“Ngươi sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo, cũng như hiện giờ Ta có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo”.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan cầm quạt đứng hầu Phật. Lúc đó, [511b] Đức Thế Tôn quay lại bảo:

“Này A-nan, ngươi hãy lấy tấm y được dệt bằng sợi tơ vàng dệt mang lại đây. Nay Ta muốn cho Tỳ-kheo Di-lặc”.

Bấy giờ Tôn giả A-nan vâng lời Đức Thế Tôn, liền lấy tấm y được dệt bằng sợi tơ vàng dệt mang lại trao cho Đức Thế Tôn. Sau khi Đức Thế Tôn nhận tấm y được dệt bằng chỉ vàng từ Tôn giả A-nan, Ngài bảo:

“Này Di-lặc, ngươi hãy nhận tấm y được dệt bằng chỉ vàng này từ Như Lai mà bố thí cho Phật, Pháp và Đại chúng. Lý do vì sao? Này Di-lặc, các Đức Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác vì muốn cứu hộ thế gian và mong cầu thiện lợi và hữu ích, mong an ổn khoái lạc”.

Bấy giờ Tôn giả Di-lặc nhận lấy tấm y dệt bằng chỉ vàng từ Đức Như Lai xong, liền dâng cúng cho Phật, Pháp và Đại chúng.

Lúc ấy Ma Ba-tuần liền nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm này đang trú tại Ba-la-nại, ở trong vườn Lộc dã, Tiên nhân trú xứ. Vị ấy nhân chuyện vị lai mà thuyết pháp cho các đệ tử. Ta hãy đến đấy để gây nhiễu loạn.”

Rồi Ma Ba-tuần đi đến chỗ Đức Phật, hướng về Ngài và nói bài tụng rằng:

Người ấy tất sẽ được

Dung mạo diệu đệ nhất;

Thân tràng hoa anh lạc,

Ngọc sáng đeo cánh tay.

Nếu ở thành Kê-đầu [28],

Trong bờ cõi vua Loa.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Ma Ba-tuần này đến chỗ Ta muốn gây nhiễu loạn”. Đức Thế Tôn sau khi đã biết là Ma Ba-tuần liền nói bài tụng:

Người ấy tất sẽ được

Tối Thắng Lâm [29] không nghi ngại

Dứt sanh, lão, bệnh, tử;

Vô lậu, việc làm xong.

Ai tu hành phạm hạnh,

Sẽ ở cõi Di-lặc.

Ma Ba-tuần lại nói bài kệ:

Người ấy tất sẽ được

Y phục tối thượng diệu;

Thân ướp trầm chiên-đàn,

Tay chân đầy châu ngọc;

Nếu ở thành Kê-đầu

Sẽ ở cõi Loa vương.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói bài tụng:

Người ấy tất sẽ được

Vô chủ và vô gia;

Tay không cầm vàng ngọc,

Vô vi, không sầu não;

Nếu tu hành phạm hạnh,

Sẽ ở cõi Di-lặc.

[511c] Ma Ba-tuần lại nói bài tụng:

Người kia tất sẽ được

Danh, tài, ẩm thực diệu;

Khéo hiểu rành ca vũ,

Tạo nhạc, thường hoan hỷ;

Sẽ ở cõi Loa vương.

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói bài tụng:

Người ấy tất qua bờ;

Như chim phá lưới ra;

Chứng trụ thiền tự tại;

Đủ lạc, thường hoan hỷ.

Này Ma, ngươi nên biết,

Ta đã hàng phục ngươi.

Lúc đó Ma vương lại nghĩ: “Thế Tôn biết ta. Thiện Thệ biết ta.” Nghĩ vậy, nó buồn bã, sầu não, không thể ở lại, liền biến mất, không thấy ở chỗ ấy nữa.

Phật thuyết như vậy. Tôn giả Di-lặc, A-di-đa, A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

Từ khóa » Hạnh Nguyện Của Bồ Tát Di Lặc