Kinh Tế Nhật Bản Giai đoạn Phát Triển Thần Kỳ ( Phần 2) - K-SEI
Có thể bạn quan tâm
Cho đến năm 1973, tổng số vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản đạt khoảng 19,3 tỷ USD. Mặt khác, cơ cấu đầu tư theo khu vực cũng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư vào Mỹ và châu Âu, giảm tỷ trọng đầu tư vào Trung và Nam Mỹ (Mỹ: 26,4%, châu Âu: 26,1%, châu Á: 23%, Trung Nam Mỹ: 13%).
Có thể nói đầu tư nước ngoài là một yếu tố góp phần vào sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế trong nước, tăng vị thế và sức cạnh tranh của các công ty của Nhật Bản trong nền kinh tế thế giới.
Nhật Bản đã nhanh chóng xây dựng nên các ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên kỹ thuật công nghệ hiện đại. Tới đầu thập kỷ 70, sức cạnh tranh và vị thế của các công ty của Nhật Bản đã tăng lên nhanh chóng. Nhật Bản đã đuổi kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước tư bản phát triển phương Tây.
– Thứ ba, tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học-kỹ thuật
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là một nước lạc hậu so với các nước tư bản khác. Nhưng cũng ngay trong những năm tháng khó khăn đó, Nhật Bản đã giành một số vốn lớn cho việc nghiên cứu, phát triển khoa học-kỹ thuật.
Chi phí nghiên cứu phát triển của Nhật Bản năm 1955 còn ở mức 40,1 tỷ yên (0,84% thu nhập quốc dân) đã tăng lên nhanh chóng đạt gần 1.200 tỷ yên (1,96% thu nhập quốc dân) vào năm 1970. Năm 1955, ở Nhật Bản chỉ có 1.445 phòng thí nghiệm tham gia nghiên cứu khoa học-kỹ thuật thì năm 1970 đã tăng lên đến 12.594, gấp 9 lần trong 15 năm. Ngoái ra, các công ty, các trường đại học cũng tham gia tích cực vào việc nghiên cứu và đào tạo cán bộ khoa học-kỹ thuật. Nhật Bản đã phát huy được sức mạnh của cả khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo khoa học-kỹ thuật. Năm 1970, ở Nhật Bản có tới 419.000 các nhà khoa học và các chuyên gia khoa học-kỹ thuật. Song thành công hơn cả của người Nhật Bản vẫn là lĩnh vực khoa học ứng dụng.
Nhật Bản đã chú trọng ứng dụng những thành tựu khoa học-kỹ thuật mới nhất của Âu-Mỹ bằng cách nhập khẩu công nghệ, kỷ thuật, mua các phát minh sáng chế. Từ năm 1950 đến năm 1971, tổng số vụ nhập khẩu kỹ thuật của Nhật là 15.289 vụ, gần 70% là của Mỹ, hơn 10% của Tây Đức. Nhờ đó đã cải tạo căn bản tài sản cố định và góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội. Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình hằng năm của Nhật Bản thời kỳ 1955-1965 là 9,4%. Việc mua các phát minh cho phép Nhật Bản tiếp cận với thành tựu mới nhất của khoa học-kỹ thuật. Tính đến năm 1968, tổng giá trị những phát minh mà Nhật Bản mua của nước ngoài vào khoảng 6 tỷ USD. Để có những phát minh đó, các nước khác phải tốn tới khoảng 120-130 tỷ USD, như vậy Nhật Bản đã tiết kiệm được khoảng 100 tỷ USD, bằng 1/3 tổng tài sản cố định tích lũy trong thời gian này.
Bằng cách đi khôn ngoan, chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, nền khoa học-kỹ thuật của Nhật Bản có bước phát triển nhảy vọt. Đến đầu những năm 1970, Nhật Bản đã đạt trình độ cao về tự động hóa, trình độ sử dụng máy vi tính trong một số ngành sản xuất… Đó là những nhân tố tác động rất mạnh đến tốc độ phát triển kinh tế của Nhật Bản sau chiến tranh.
– Thứ tư, chú trọng vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện hàng loạt biện pháp để đẩy mạnh tự do hóa nền kinh tế, kích thích kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường kết hợp với sự điều tiết của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Nhà nước đã tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho tăng trưởng bằng hệ thống pháp luật và khả năng duy trì trật tự xã hội bằng pháp luật và sự đầu tư trực tiếp vào kinh tế.
Từ năm 1955 đến 1973, Nhà nước đã thông qua 7 kế hoạch, đa số là kế hoạch 5 năm, nhưng thời gian thực hiện trung bình là hai năm rưỡi vì các dự kiến kế hoạch đều thấp hơn mức tăng trưởng thực tế. Các kế hoạch kinh tế đều có ba nội dung cơ bản: phương hướng kinh tế-xã hội, phương hướng chính sách của Chính phủ nhằm thực hiện các mục tiêu trên, những chỉ dẫn hoạt động cho các cơ sở kinh doanh, các ngành công nghiệp. Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế (MITI) và Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) có vị trí quan trọng trong việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế. Thông qua các hệ thống này, các chính sách về tài chính, tiền tệ, đối ngoại… của Nhà nước được thực thi có hiệu quả.
Vai trò nổi bật của Nhà nước thời kỳ này là cải cách hệ thống thuế để thúc đẩy tích lũy vốn, thúc đẩy nhập khẩu kỹ thuật mới và khuyến khích xuất khẩu. Để khuyến khích tích lũy cá nhân, Chính phủ đã không đánh thuế thu nhập có tính thuế lũy tiến cao như ở một số nước. Thuế công ty ở mức thấp, các loại thuế trực thu tăng nhưng thuế gián thu lại giảm. Do vậy thuế trong thu nhập quốc dân ở Nhật Bản thời kỳ này nhìn chung thấp hơn các nước tư bản khác.
Nhà nước Nhật Bản còn đóng vai trò hướng dẫn và kiểm tra hoạt động đầu tư cũng như việc hỗ trợ về tài chính cho hoạt động đó. Nhà nước Nhật Bản nắm khoảng 1/3 tổng số đầu tư tư bản cố định trong nước. Đầu tư của Nhà nước thường tập trung vào cơ cấu hạ tầng, xây dựng các ngành công nghiệp mới và nghiên cứu khoa học. Những ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, chu chuyển chậm, lợi nhuận thấp nhưng hết sức quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội.
Sự can thiệp và tham gia trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế đã có tác dụng chống đỡ khủng hoảng, tạo ra những điều kiện cần thiết cho nền kinh tế tăng trưởng cao.
– Thứ năm, mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài
+ Mở rộng thị trường trong nước
Nhờ cải cách ruộng đất, hình thành chủ trang trại kinh doanh nhỏ đã mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, sử dụng máy móc công nghệ tiên tiến. Do đó, nông nghiệp nông thôn tạo ra thị trường rộng lớn cho sản xuất phát triển.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các công ty luôn cố gắng giữ uy tín bằng việc đưa ra thị trường những sản phẩm đảm bảo chất lượng. Trên thực tế, khoảng 80% sản phẩm quốc dân của Nhật Bản là phục vụ cho thị trường nội địa. Vì vậy, phương châm của các công ty Nhật Bản là hàng hóa dù bán ở thị trường nội địa hay nước ngoài đều phải có chất lượng cao. Mặt khác, để bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ và thị trường nội địa, Nhật Bản đã kết hợp khéo léo giữa chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu với chiến lược hướng về xuất khẩu. Lộ trình tự do hóa thương mại và hội nhập được thực hiện một cách thận trọng, được quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Mở rộng và đứng vững trên thị trường nội địa tạo tiền đề cho các công ty Nhật Bản vươn ra chiếm lĩnh các thị trường nước ngoài.
Thời kỳ này, thị trường trong nước còn được mở rộng do sự gia tăng dân số, sự tăng nhanh số người làm công ăn lương, tốc độ tăng thu nhập thực tế của người lao động… Do đó đã làm tăng khối lượng tiêu dùng cá nhân ở trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản.
+ Mở rộng thị trường nước ngoài
Là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, Nhật Bản phải phụ thuộc vào thị trường cung cấp vật tư, nguyên liệu, năng lượng và thị trường tiêu thụ hàng hóa, do đó thị trường nước ngoài được coi là điều kiện sống còn của nền kinh tế Nhật Bản.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã tìm mọi cách để xâm nhập vào thị trường thế giới như tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa nhờ giảm chi phí sản xuất và chú trọng chất lượng sản phẩm, xây dựng đội ngũ thương nhân có năng lực, nhiều kinh nghiệm, thực hiện chính sách đối ngoại linh hoạt…
Đối với các nước đang phát triển, Nhật Bản dùng cách lôi kéo về chính trị kết hợp với thâm nhập kinh tế, viện trợ, tăng cường quan hệ mậu dịch thương mại… được sử dụng một cách rộng rãi. Đối với các nước châu Á, Nhật Bản còn sử dụng các chính sách như bồi thường chiến tranh, xây dựng khu vực thịnh vượng chung… nhằm thâm nhập sâu vào thị trường các nước này. Từ những năm 70, Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về đầu tư và quan hệ mậu dịch với nhiều nước và lãnh thổ Đông và Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Hồng Kong, Philippines, Đài Loan… Ngoài ra hàng Nhật Bản còn thâm nhập và cạnh tranh gay gắt với các nước tư bản phát triển ngay trên thị trường Tây Âu, Bắc Mỹ và các khu vực khác. Từ năm 1965 trở đi, Nhật Bản thường xuyên là nước xuất siêu trong quan hệ thương mại với thế giới bên ngoài. Điều đó đã giúp cải thiện căn bản cán cân thanh toán của Nhật Bản. Có thể thấy rằng ngoại thương nói riêng và kinh tế đối ngoại nói chung là một nhân tố quan trọng đem lại sự thành công của người Nhật thời kỳ sau chiến tranh. Vì vậy, có nhà nghiên cứu đã cho rằng ngoại thương chính là “nhịp thở” của nền kinh tế Nhật Bản.
– Thứ sáu, kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế hai tầng
Cấu trúc kinh tế hai tầng là đặc điểm nổi bật của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa khu vực kinh tế hiện đại và khu vực truyền thống. Khu vực kinh tế hiện đại bao gồm các công ty lớn với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, lượng vốn đầu tư lớn, sử dụng lao động suốt đời, tiền lương cao theo thâm niên, điều kiện làm việc tốt. Khu vực truyền thống chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, sử dụng kỹ thuật công nghệ lạc hậu, lao động hợp đồng hoặc theo thời vụ, tiền lương và điều kiện làm việc thấp kém. Ở Nhật Bản thời kỳ này số doanh nghiệp sử dụng dưới 100 công nhân chiếm 99% tổng số xí nghiệp và 76% tổng số công nhân. Các doanh nghiệp nhỏ thường là các cơ sở gia công phụ tùng máy móc hoặc nhận thầu khoán cho các công ty lớn, đồng thời nhận sự giúp đỡ về vốn, kỹ thuật công nghệ từ các công ty lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ trở thành vệ tinh của một công ty lớn. Khi nền kinh tế lâm vào khó khăn, khu vực truyền thống sẽ trở thành những “đệm giảm xóc” cho khu vực hiện đại. Với cấu trúc kinh tế hai tầng, nguồn lao động dư thừa và công nghệ lạc hậu thời kỳ sau chiến tranh được sự dụng hợp lý và có hiệu quả.
– Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác với Mỹ và các nước khác
Sau 3 năm chiếm đóng và kiểm soát Nhật Bản, tháng 10/1948 Mỹ chuyển giao quyền quản lý kinh tế-xã hội cho Chính phủ Nhật Bản. Bắt đầu từ đây mối quan hệ kinh tế Mỹ-Nhật đã phục hồi và phát triển nhanh chóng. Việc thực hiện đường lối kinh tế của Joseph Dodge đã giúp Nhật Bản ổn định nền tài chính tiền tệ. Mức tỷ giá 360 yên/1 USD được duy trì suốt 22 năm đã tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp xuất khẩu cạnh tranh được trên các thị trường quốc tế. Sau khi hiệp ước hòa bình San Francisco được ký kết vào năm 1951, Nhật Bản và Mỹ trở thành bạn hàng của nhau. Trong các cuộc chiến tranh ở CHDCND Triều Tiên và Việt Nam, Chính phủ Mỹ đã có hàng loạt đơn đặt hàng với các công ty của Nhật Bản về vũ khí, khí tài và các đồ quân dụng khác. Trong khoảng thời gian từ năm 1950 đến 1969, Nhật Bản đã thu được 10,2 tỷ USD do đơn đặt hàng của Mỹ. Trong cơ cấu ngoại thương của Nhật Bản thời kỳ này có tới 34% tổng giá trị hàng xuất khẩu sang Mỹ và 30% giá trị hàng nhập của Nhật là từ thị trường Mỹ. Có thể nói nhu cầu về hàng hóa của Mỹ cho các cuộc chiến tranh ở CHDCND Triều Tiên và Việt Nam là hai “ngọn gió thần” đối với nền kinh tế Nhật Bản.
Ngoài ra, một số nhân tố khác cũng có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế Nhật Bản thời kỳ này như xu thế hội nhập quốc tế, hợp tác và nhất thể hóa kinh tế tư bản chủ nghĩa, xu thế hòa hoãn và hợp tác của các công ty độc quyền quốc tế… Năm 1955, Nhật Bản xin gia nhập GATT, tháng 4/1964 trở thành thành viên của IMF và OECD. Đó là những cơ hội để các công ty Nhật Bản mở rộng thị trường, tăng cường tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế.
c.) Hạn chế.
Tuy nhiên, ngay trong giai. đoạn phát triển nhanh chóng này, nền kinh tế Nhật Bản đã phải đối mặt với những mâu thuẫn kinh tế-xã hội gay gắt.
+ Đó là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng kinh tế, giữa khả năng sản xuất hiện đại với cơ sở hạ tầng lạc hậu, giữa tài chính và tín dụng, giữa tiềm lực của công nghiệp và nông nghiệp. Phần lớn công nghiệp tập trung ở vùng phía Đông nước Nhật. Riêng ba trung tâm công nghiệp là Tokyo- Osaka- Nayoga chỉ chiếm 1,25% diện tích cả nước nhưng tập trung tới 60 triệu dân và hơn 50% sản lượng công nghiệp. Trong khi đó các vùng phía Tây còn trong tình trạng lạc hậu.
Nhiều nhà kinh tế phương Tây nhận xét rằng có hai nước Nhật: nước Nhật rất hiện đại và nước Nhật cũ “khuất sau bóng núi”. Nông nghiệp lạc hậu so với công nghiệp, trong nông nghiệp, sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế. Năm 1968, số hộ nông dân có dưới 2 ha chiếm 68% tổng số hộ.. Nông nghiệp vẫn chưa đảm bảo được nhu cầu trong nước. Mặc dù nền sản xuất công nghiệp đã đạt đến trình độ cao nhưng cơ sở hạ tầng ở Nhật Bản vẫn bị coi là loại lạc hậu trong các nước tư bản phát triển.
+ Là một nền kinh tế bấp bênh, không ổn định về thị trường và nguồn nguyên liệu. Sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào bên ngoài cả về thị trường tiêu thụ hàng hóa và nguồn cung cấp nguyên liệu. Sự biến động của thị trường quốc tế, cũng như cạnh tranh gay gắt của Mỹ và Tây Âu có ảnh hưởng nghiêm trọng, hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản.
+ Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt do các công ty mãi chạy theo lợi nhuận nên đã hạn chế những chi phí cho phúc lợi xã hội, duy trì mức sống thấp hơn so với các nước tư bản phát triển, vấn đề nhà ở, tai nạn giao thông trầm trọng…
Do chạy theo tốc độ tăng trưởng cao, vấn đề môi trường không được chú ý đúng mức. Kết quả là cuối thập kỉ 60 đầu thập kỉ 70 , môi trường bị xuống cấp nhanh chóng, một số vùng công nghiệp bị ô nhiễm nặng nề. Đó là mặt trái, là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng “thần kì” của Nhật Bản thời kì 1951-1973.
KẾT LUẬN
Sau những năm khủng hoảng đầu thế kỉ XXI, hiện nay nền kinh tế Nhật Bản có xu hướng phục hồi, dần thoát khỏi trì trệ và sẽ phát triển bền vững hơn. Nền kinh tế Nhật Bản sớm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế thế giới là do có những chính sách kinh tế hợp lí bên cạnh đó nền tảng nền kinh tế cũng đóng vai trò quan trọng và nền tảng đó được hình thành vào giai đoạn phát triển kinh tế “thần kì” năm 1951-1973. Giai đoạn phát triển kinh tế “thần kì” năm 1951-1973 của Nhật Bản đã để lại cho các quốc gia đi sau một bài học kinh nghiệm quý giá về phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, hiện nay Nhật bản là một trong những đối tác quan trọng của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Dựa vào mối quan hệ đối tác đó chúng ta cần phải học tập kinh nghiệm phát triển kinh tế để phát triển nền kinh tế thị trường của nước ta
– ST –
Click ➡ Học tiếng Nhật online
Từ khóa » Phát Triển Thần Kỳ Của Kinh Tế Nhật Bản
-
Kinh Tế Nhật Bản Giai đoạn Phát Triển Thần Kỳ - Tadashi
-
"Kinh Tế Nhật Bản Giai đoạn Phát Triển Thần Kỳ 1955-1973" Một Tham ...
-
Đọc "Kinh Tế Nhật Bản Giai đoạn Phát Triển Thần Kỳ 1955-1973"
-
Trình Bày Sự Phát Triển Thần Kì Của Kinh Tế Nhật Bản Trong Những ...
-
Kinh Tế Nhật Bản - Giai đoạn Phát Triển Thần Kỳ 1955-1973
-
Kinh Tế Nhật Bản - Giai đoạn Phát Triển Thần Kỳ 1955-1973 (*)
-
Kinh Tế Nhật Bản Giai đoạn Phát Triển Thần Kỳ - Tài Liệu Text - 123doc
-
Giai đoạn Kinh Tế Nhật Bản Phát Triển Thần Kỳ Vào - HOC247
-
Những Nguyên Nhân Nào Dẫn đến Sự Phát Triển Thần Kì Của Nền Kinh ...
-
Kinh Tế Nhật Bản Và Sự Phát Triển “THẦN KỲ” Sau Thế Chiến Thứ 2
-
Bài Học Nào Từ Giai đoạn "phát Triển Thần Kỳ" Của Nhật Bản?
-
Kinh Tế Nhật Bản Phát Triển Thần Kì Vào Giai đoạn Nào? - Tự Học 365
-
Kinh Tế Nhật Bản: Giai đoạn Phát Triển Thần Kỳ 1955-1973
-
Câu 5: Giai đoạn Kinh Tế Nhật Bản Phát Triển Thần Kì Vào Thời Gian Nào?