Kỳ Môn Độn Giáp Là Gì? Tính Chất Của Kỳ Môn Độn Giáp
Có thể bạn quan tâm
Kỳ Môn Độn Giáp là gì?
Kỳ Môn Độn Giáp là một kỹ thuật cổ của Trung Quốc và là một di sản văn hóa truyền thống quý giá.
Ý nghĩa của " Kỳ Môn Độn Giáp " được ghép từ ba khái niệm "kỳ”, “môn” và “độn giáp”. Nó cũng đại diện cho thiên, địa và nhân. Nói một cách đơn giản, “kỳ” xác định thời gian, “môn” xác định không gian, và “độn giáp” có nghĩa là khi thời gian và không gian được tích hợp, một kết luận được rút ra theo thuật toán số học và các phép đo tương ứng được thực hiện.
Kỳ Môn Độn Giáp mang tính chất khoa học
Ngoài tính chất của huyền học, kỳ môn độn giáp còn mang tính chất của khoa học
Trước hết, mặt trời không chỉ đơn giản mọc theo hướng Đông và lặn về phía Tây. Trên thực tế, còn có sự chuyển động dọc theo hướng Bắc Nam. Dựa trên điều này, phía nam là đan huyệt và phía bắc là mộ cốc, thiên can được chia ra mười số, tương ứng với mười số lẻ và số chẵn. Nhất Thiên, Thái Cực, Hỗn Độn; Nhị Thổ, thượng hạ vị trí địa lý; Tam Thiên, nhật nguyệt và các sao tam quang; Tứ Địa, Đông, Tây, Nam, Bắc; Ngũ Thiên, ngũ hành; Địa Lục, Lục Hợp; Thất Thiên, thất diệu; Bát Địa, Tứ phương Tứ tá; Cửu Thiên, Cửu Đạo; Thập Địa, ngũ đế ngũ tá. Tất cả các số lẻ được gọi là thiên số, và tất cả các số chẵn được gọi là địa số. Đó cũng gọi là âm dương. "Bảo Kiên Đồ": "Dương khởi vu nhất, thiên đích vi bắc thần."
Đối ứng chính là: giáp mộc, ất mộc, bính hỏa, đinh hỏa, mậu thổ, kỷ thổ, canh kim, tân kim, nhâm thủy, quý thủy. Loại số thuật này còn biểu thị diễn biến sự phát triển di chuyển của các ngôi sao
Ý nghĩa “Kỳ” trong “Kỳ Môn Độn giáp”
“Kỳ” trong “Kỳ Môn Độn giáp” chính là “Tam Kỳ”: ất, bính, đinh tương thông âm dương. Nói một cách đơn giản, Tam kỳ định thời gian. Dương thuận Âm nghịch, đó là điều kiện tiên quyết. Tại kỳ môn độn giáp còn có nghĩa là thiên số. Vì rất khó hiểu cho nên đem “Tam Kỳ” đảo lại biến thành “Đinh Bính Ất” cùng lục nghi xác nhập thành trình tự thuận là: “mậu dĩ canh tân nhâm quý đinh bính ất”.
Ý nghĩa “Môn” trong “Kỳ Môn Độn giáp”
Các "Môn" là tám cửa: Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai. Khái niệm cửa bắt nguồn từ quan niệm cổ xưa về hướng hai chiều, đơn giản là nói bầu trời là một địa phương tròn trịa. Các cổ học giả ngày xưa cho rằng con người là tâm của trời đất, lấy nhân làm tâm, phương vị xoay quanh cứ cách 12 canh giờ làm căn cứ để chi ra bát cực.
Sách "Địa hình của Hoài Nam Tử" có viết: "Thiên Địa được chia thành cửu châu bát cực, cái gì gọi là cửu châu: Đông nam thần châu viết nông thổ, chính nam ích châu viết ốc thổ, tây nam nhung châu viết thao thổ, chính tây yểm châu viết tịnh thổ, chính trung dực châu viết trung thổ, tây bắc thai châu viết phì thổ, chính bắc tể châu viết thành thổ, đông bắc bạc châu viết ẩn thổ, chính đông dương châu viết thân thổ”. Đây là một khái niệm địa lý hẹp và khép kín.
Tám cực là dấu hiệu của tám phương trừ trung gian. Bát phương được gọi: phương đông Chấn, phía nam Ly, phía tây Đoái, phương bắc Khảm là bốn chính; đông nam Tốn, tây nam Khôn, tây bắc Kiền, đông bắc Cấn được gọi là tứ duy. Cũng cần chú ý bát môn đối ứng với số tự của cửu cung cũng là cửu khâu, có điều trung cung vì bất động nên có thể không xem xét kỹ.
Bát môn chính là lấy tứ chính tứ duy đồng thời trong khoảng thời gian định vị phương pháp. “phu âm dương, tứ thì, bát vị, thập nhị độ”. Đơn giản mà nói, lấy nhật nguyệt tinh di chuyển trên bầu trời để xác định vị trí địa lý phương vị.
Ở đây cần lưu ý rằng: Kỳ và Môn đối ứng, lấy năm con số thuộc địa, thiên điều hòa với nhau.
Thuật toán này là: Thiên số 1, 3, 5, 7, 9; Địa số2, 4, 6, 8, 10. Tương ứng với ngũ hành 1, 2, 3, 4 và 5 là còn được gọi là nguyên số 2, 4, 6, 8 cũng có thể gọi sinh số.
Với các số thứ tự: 1,6 phối bắc phương (khảm thủy); 2, 7 phối Nam phương (li hỏa); 3,8 phối đông phương (chấn mộc); 4,9 phối tây phương (đoái kim), 5 phối trung ương (thổ) khối ứng với bát môn.
Ý nghĩa “Độn Giáp” trong “Kỳ Môn Độn giáp”
"Độn giáp" có nghĩa là dương độn và âm độn có cửu độn: Thiên độn, Địa độn, Nhân độn, Phong độn, Vân độn, Long độn, Hổ độn, Thần độn, Quỷ độn. Nguyên tắc là giáp tử đồng lục mậu, giáp tuất đồng lục kỷ, giáp thân đồng lục canh, giáp ngọ đồng lục tân, giáp thần đồng lục nhâm, giáp dần đồng lục quý. Mậu kỷ canh tân nhâm quý xưng lục nghi.
Ở đông chí về sau dùng dương độn, ở hạ chí về sau dùng âm độn, âm dương cửu cực cộng nhị bát cực. âm độn khi căn cứ cục số, nghịch bố lục nghi, thuận bố tam kỳ; dương độn thì căn cứ cục số, thuận số lục nghi, nghịch số tam kỳ.
>>> Xem thêm:
Những Bậc Thầy Phong Thủy Hàng Đầu Trung Hoa
Thầy Phong Thủy Tam Nguyên – Bậc Thầy Số 1 Về Phong Thủy!