Kỹ Thuật Sản Xuất Nón Lá Của Làng Nghề Truyền Thống Thôn La Hà ...

Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Văn Hóa - Nghệ Thuật
  4. >>
  5. Thời trang - Làm đẹp
Kỹ thuật sản xuất nón lá của làng nghề truyền thống thôn La Hà (Quảng Bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 10 trang )

76Hồng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-834(47) (2021) 76-83Kỹ thuật sản xuất nón lá của làng nghề truyền thống thơn La Hà(Quảng Bình)Production techniques of Vietnamese traditional hat (Non La) in La Ha village,Quang Binh provinceHoàng Văn Tháia,b, Lê Thị Ngọc Cầma,b,*Hoang Van Thaia,b, Le Thi Ngoc Cama,b,*aInstitute of Languages, Duy Tan University, Da Nang, 550000, VietnamaViện Ngôn ngữ, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt NambFaculty of Korean Language, Duy Tan University, Da Nang, 550000, VietnambKhoa Tiếng Hàn, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam(Ngày nhận bài: 9/4/2021, ngày phản biện xong: 20/4/2021, ngày chấp nhận đăng: 25/5/2021)Tóm tắtNghề làm nón lá là nghề thủ cơng có từ lâu đời của Việt Nam nhưng kỹ thuật và quy trình làm nón chưa được nghiên cứusâu và hệ thống hóa trong các cơng trình nghiên cứu trước đây. Do đó, để bảo tồn và lưu trữ kỹ thuật làm nón, chúng tơidùng phương pháp tiếp cận từ thực tiễn đến lý thuyết, cộng với phương pháp điều tra dân tộc học để đi sâu nghiên cứu tìmhiểu, hệ thống hóa và mơ tả tất cả các công đoạn trong kỹ thuật sản xuất nón lá của làng nghề sản xuất nón truyền thống LaHà (xã Quảng Văn, tỉnh Quảng Bình) như kỹ thuật sơ chế nguyên liệu, kỹ thuật làm khung, vành, kỹ thuật chằm nón...Hiện nay, có nhiều làng làm nón lá truyền thống được nhiều người biết đến như làng Chuông (Thanh Oai, Hà Nội), làngPhù Cam (Huế), làng Phú Gia (Bình Định)... mỗi nơi đều có cách chọn ngun liệu và kỹ thuật làm nón khác nhau, tuynhiên kỹ thuật sơ chế lá ở đây khác với những địa phương cịn lại nên nón lá của La Hà có màu xanh sáng, mỏng nhẹ hơnso với một số nơi khác. Do đó, chúng tơi chọn làng nón lá La Hà làm đối tượng nghiên cứu.Từ khố: Nón lá; kỹ thuật sản xuất; La Hà; Quảng Bình.AbstractThe craft of making Vietnamese traditional hats is a long-standing handicraft in Vietnam, but the techniques andprocess of making these hats have not been studied in depth in previous studies. Therefore, in order to preserve andstore the Vietnamese traditional hat making techniques, we use research methods in folklore studies to systematize anddescribe all steps of these hat production techniques of La Ha village such as raw material preliminary processing,rim-framing making technique, and hat-making technique.Keywords: Vietnamese traditional hat; production techniques; La Ha; Quang Binh.1. Giới thiệuNón lá hiện nay được biết đến như một hìnhảnh biểu trưng của văn hóa Việt Nam. Cùng với*tà áo dài, hình ảnh của chiếc nón lá đã đượcmiêu tả rất nhiều trong thơ ca và hội họa.Khách du lịch người nước ngoài hầu như đềuCorresponding Author: Le Thi Ngoc Cam; Institute of Languages, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam;Faculty of Korean Language, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam.Email: Hồng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-8377mua nón lá làm vật lưu niệm khi du lịch ViệtNam. Trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùamưa to nắng gắt như Việt Nam, với chức năngche đậy vùng đầu, chiếc nón đã xuất hiện từ sớmvới nhiều hình dạng và được làm từ nhiều loạinguyên liệu khác nhau. Chỉ là một vật dụng dùngđể che mưa che nắng thường ngày, nhưng donhiều tính năng ưu việt như nhẹ, che phủ rộng,rẻ... mà chiếc nón lá hình chóp đã trở thành mộthình ảnh mang đậm nét văn hóa Việt Nam.Nam Bộ trong q trình xây dựng nơng thơnmới” [2]; “Phát triển làng nghề sản xuất mâytre đan và làng nghề sản xuất nón lá trên địabàn tỉnh Quảng Bình” [5]. Tuy nhiên, nhữngnghiên cứu này đa số nêu lên thực trạng hoạtđộng sản xuất kinh doanh của các làng nghề đểđề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt độngsản xuất kinh doanh cho làng nghề chứ chưa đisâu nghiên cứu về kỹ thuật chế tác nón lá haycác loại hình nghề đan lát này.Hình ảnh nón lá được nhắc đến trong ĐạiViệt Sử Ký Toàn Thư khi mơ tả về Nhân HuệVương Trần Khánh Dư đội nón lá đến gặp vua[1]. Sử liệu này còn đề cập đến nón Ma Lơi, tênnón được lấy từ tên một địa phương chuyên đancật tre làm nón [1]. Điều này giúp chúng ta suyđốn được rằng nón lá đã xuất hiện muộn nhấtlà từ thời nhà Trần, khoảng thế kỷ XV và thờikỳ này đã có làng chuyên làm nón lá. Hiện nay,có nhiều làng làm nón lá truyền thống đượcnhiều người biết đến như làng Chuông (ThanhOai, Hà Nội), làng Phù Cam (Huế), làng PhúGia (Bình Định), làng La Hà (Quảng Bình)...Mỗi làng đều có cách chọn ngun liệu và kỹthuật làm nón khác nhau. Nếu nón Phú Gia(Bình Định) làm bằng lá cọ và cây giang, nổitiếng với những đường thêu long lân quyphụng, có bịt bạc, chạm trổ thì nón lá Huế đượclàm bằng lá cây bồ quy diệp và tre, nổi tiếngvới những bài thơ được ép giữa hai lớp lá. Khácvới vẻ đẹp cầu kì của hai loại nón này, nón láLa Hà (Quảng Bình) đẹp mộc mạc, thanh mảnhvới nguyên liệu lá nón và tre.Trước tình hình cơng nghiệp hóa, hiện đạihóa ở nước ta như hiện nay thì các làng nghềlàm nón truyền thống đang dần dần mai một vàcó nguy cơ bị biến mất. Thu nhập từ nghề làmnón khơng đảm bảo được đời sống kinh tế củangười dân nên nhiều người làm nghề đã bỏnghề để mưu sinh bằng công việc khác. Đây làmột xu thế tất yếu của xã hội mà việc cố gắngduy trì những làng nghề này như những nghiêncứu trên đề xuất cũng chỉ là một giải pháp tạmthời, khó duy trì lâu dài vì liên quan đến đờisống kinh tế của người dân. Do đó, nghiên cứunày đi sâu tìm hiểu về kỹ thuật và kinh nghiệmsản xuất nón lá của làng nghề La Hà để kịp thờilưu trữ những phương thức sản xuất nón látruyền thống trước khi các kỹ thuật này bị biếnmất, đó là tính cấp thiết của đề tài.Có nhiều nghiên cứu trước đây liên quan đếncác làng nghề làm nón, đan lát, dệt chiếu, mâytre lá như: “Hiệu quả hoạt động sản xuất kinhdoanh của các làng nghề ở tỉnh Bạc Liêu” [3];“Giải pháp phát triển làng nghề truyền thốngkết hợp với du lịch tỉnh Hậu Giang” [4]; “Bảotồn và phát triển văn hóa - xã hội làng nghề ởTrong phạm vi bài viết này, với cách tiếpcận từ thực tiễn đến lý thuyết, cộng với phươngpháp điều tra dân tộc học, chúng tôi tiếp xúctrực tiếp với người làm nghề để đi sâu nghiêncứu tìm hiểu, hệ thống hố và mô phỏng tất cảcác công đoạn trong kỹ thuật sản xuất nón lácủa làng nghề sản xuất nón truyền thống La Hànhư kỹ thuật sơ chế nguyên liệu, kỹ thuật làmkhung - vành, kỹ thuật chằm nón... Với cáchtiếp cận về kỹ thuật làm nón một cách cụ thể,nghiên cứu này là nền tảng để chúng tơi tiếp tụctìm hiểu về kỹ thuật của các nghề truyền thốngcủa dân tộc Việt Nam. 78Hồng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-832. Tổng quan về thôn La Hà và hiện trạngcủa nghề sản xuất nón lá2.1. Điều kiện sinh thái tự nhiên của thơnLa HàTỉnh Quảng Bình nằm ở Bắc Trung Bộ, ViệtNam, với diện tích tự nhiên 8.000 km². 85%tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Quảng Bìnhnằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và ln bị tácđộng bởi khí hậu của phía Bắc, phía Nam vàđược chia làm hai mùa rõ rệt là mùa mưa vàmùa khô. Quảng Bình nằm trong khu vực đadạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có khu hệthực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiềunguồn gen quý hiếm [9].Xã Quảng Văn là một xã cồn bãi ven sông,được bao bọc xung quanh bởi sông nước. XãQuảng Văn nằm ở phía nam của Thị xã BaĐồn, cách trung tâm của Thị xã khoảng 15km.Phía đơng tiếp giáp sơng Gianh và xã QuảngThuận. Phía Tây tiếp giáp xã Quảng Hịa và xãQuảng Minh. Phía Nam tiếp giáp sơng Son vàhuyện Bố Trạch. Phía Bắc tiếp giáp sơng Gianhvà phường Ba Đồn [11]. Xã Quảng Văn gồm cóthơn La Hà và thơn Văn Phú. Do đặc điểm tậptrung dân cư của hai thôn này mà tuy cùngtrong một xã nhưng sinh kế của người dân ở haithơn hồn tồn khác nhau.2.2. Hiện trạng của nghề sản xuất nón lá củathơn La HàCư dân thôn Văn Phú tập trung nhiều ở vùngsát mép sông, gần biển nên phát triển nghề đibiển đánh bắt cá, nuôi thủy hải sản. Khác vớiVăn Phú, La Hà với vùng đồng bằng rộng hơnnên chủ yếu phát triển nghề trồng lúa và hoamàu. Với đặc trưng của nghề nơng, sau thờiđiểm gieo trồng ban đầu thì người nơng dân cónhiều thời gian rỗi. Do đó, họ làm thêm nhữngnghề khác để tăng thu nhập cho gia đình.Thơn La Hà gồm La Hà Đông, La Hà Tây,La Hà Nam với gần 1.000 hộ dân, có hơn 800hộ làm nghề nón lá [10]. Tuy thống kê đượchơn 800 hộ làm nghề nón lá nhưng chủ yếu đềulàm như một nghề phụ trong thời gian nôngnhàn. Lao động chủ yếu làm nón là các bà, cáccơ lớn tuổi. Trung bình một ngày mỗi ngườilàm được 3 đến 5 chiếc nón. Mỗi chiếc nónđược bán cho đại lý với giá từ 15.000 - 20.000đồng, trừ chi phí ngun liệu thì người làmcơng thu về khoảng 10.000 - 15.000 đồng trênmột chiếc nón.Để hồn thành một cái nón, người thợ phảilàm rất nhiều công đoạn và tốn nhiều thời gian.Nhưng thu nhập của thợ làm nón lại thấp nênhiện nay tại La Hà người làm nón dần dầnchuyển qua làm mây đan hoặc may nón lá bằngmáy với vành nón làm bằng nhựa. Nón đượcmay bằng máy với vành nhựa thì thời gian hồnthành sản phẩm nhanh hơn nhưng khơng có nétsắc sảo bằng nón may tay và giá thành bán ra thịtrường thì đắc hơn gấp 3 lần so với nón lá maytay. Do ảnh hưởng đến thu nhập nên người dânở đây có xu hướng thích mua máy để may nónnếu họ có đủ điều kiện để mua. Việc này dẫnđến tình trạng nghề may nón lá thủ cơng truyềnthống của thơn La Hà có nguy cơ bị mất dần.3. Kỹ thuật sơ chế nguyên liệuNguyên liệu làm nón La Hà là lá nón, vànhtre và dây cước. Cơng cụ gồm có kim may, kéocắt lá, rựa vót vành tre, khung gỗ và nồi ủi lá.3.1. Nguyên liệuCây lá nón phân bố ở vùng rừng già, có tênkhoa học là Livistona saribus (Lour.) Merr. exA. Chev. thường được gọi là cây lá nón, cọ bầu,lá gồi, cây kè. Thân thường mang các gốccuống lá. Lá tập trung ở đỉnh, hình trịn, đườngkính 1 - 2,5m, xẻ nhiều thuỳ. Cây thường sốngở phần đỉnh đồi, hiếm có ở vùng đồi trọc. Câylá nón phân bố ở Lào, Campuchia, Malaysia,Indonesia, Philippin và có nhiều ở vùng trungdu Việt Nam. Cây lúc non ưa bóng, cây cànglớn càng ưa sáng. Mọc tốt trên đất tơi, thốtnước, có khả năng chịu hạn và gió. Thường Hồng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-83mọc hoang trên núi, trong các rừng thườngxanh ở dãy Trường Sơn [6]. Người dân chỉ khaithác phần cuống trên cùng, mỗi cây chỉ có mộtcuống. Khi cuống này bị cắt thì sau một thờigian sẽ mọc cuống khác. Trong một lần khaithác thu hoạch tầm 100 cuống. Giá 100 cuốngtừ 50.000 đến 60.000 đồng. Quảng Bình nằmtrong khu Bắc Trường Sơn nên có nhiều cây lánón. Đây cũng là một trong những nguyên nhânngười dân La Hà chọn lá nón để làm nón láthay vì lá cọ hay lá dừa như một số nơi khác.Nguyên liệu làm vành nón là tre. Người thợnhận vành tre được vót sẵn từ đại lý thu mua79nón. Sau đó, họ dùng rựa vót theo độ dày mỏngcủa vành nón rồi đo chiều dài vòng tròn củatừng vành, cắt rồi dùng dây cước nối hai đầu.3.2. Công cụKhung gỗ và nồi ủi lá là hai cơng cụ khơngthể thiếu trong nghề làm nón. Khung gỗ đượcbán ở chợ, được thiết kế chắc chắn để giữ cácvành tre. Mỗi khung gồm 12 thanh đứng chụmlại 1 đầu và 1 vòng tròn ở đáy nối các chân của12 thanh đứng tạo thành hình nón. Trên mỗithanh đứng gồm 16 khấc để giữ 16 vành nón,khoảng cách giữa hai khấc từ 1,5-2 cm.Hình 1. Khung nón làm bằng gỗ chắc chắn gồm 16 khấc để giữ vành nónNồi ủi là cơng cụ để ủi lá cho phẳng. Nồi ủiđược lấy từ phần ruột của nồi cơm điện, lật ngượcdùng phần mặt phẳng dưới đáy được làm nóngkhi đóng điện. Người ủi lá đóng điện và ngắt điệnsao cho nhiệt độ phù hợp với lá để lá không bịcháy. Khi nồi đạt được nhiệt độ phù hợp, người tadùng nùi vải quấn tròn chặt ép lá trên mặt nồi giữcố định rồi dùng tay kéo lá cho phẳng.Hà có màu trắng xanh khác với màu hơi vàngđục của những vùng làm nón khác. Hơn nữa,q trình luộc lá cũng giúp loại bớt một phầnchất kết dính trong gỗ (lignin) [8] để làm cho lámềm và dai hơn giúp q trình thao tác được dễdàng. Lá khơ xong lại thải mù, tức là phơisương cho lá nở ra rồi lấy chăn ủ lại cho lá cóđộ ẩm. Rồi sau đó người ta bắt lá và ủi lá.3.3. Kỹ thuật sơ chế láLá sau khi ủ sẽ mềm và dai hơn nhưng vẫncòn xoăn nên người ta mở lá ra gọi là bắt lá.Người thợ mở lá ra theo chiều ngang từ trênngọn xuống dưới cuống một cách nhẹ nhàng rồiủi lá.Lá mua về và sơ chế trước khi làm nón gồm7 bước như sau:Luộc  Sấy than  Phơi khô  Thải mù Ủ lá  Bắt lá  Ủi láKhác với những vùng làm nón khác, tại LaHà người ta luộc lá sơ qua sau đó sấy trên thancho khô rồi treo lên phơi khô tự nhiên trong haingày. Lá được luộc trong nước sôi để loại bớtmột phần sắc tố diệp lục chlorophyll để tránhquá trình phân hủy của lá [7]. Do đó, nón lá LaTrước đây người ta dùng lưỡi cày nung trênthan để ủi lá, nhưng hiện nay dùng ruột nồicơm điện phần dưới đáy để ủi lá. Người dândùng vải thấm nước để ủi lá, dùng vải ép lá vàophần đáy nồi cơm điện rồi kéo lá cho phẳng rồixếp lá theo từng bó. Mỗi bó 24 đến 30 lá tuỳtheo độ rộng hẹp của lá. 80Hồng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-833.4. Kỹ thuật làm vànhKhung gỗ được mua ở chợ, từ khung đó tạo16 vành nón nhỏ dần từ thấp lên cao. Sau khichằm nón xong sẽ có thêm hai vành kẹp vàovành cuối cùng để hoàn thành chiếc nón. Vànhđược làm từ vỏ tre và được các đại lý vót bằngmáy. Các đại lý này giao tre đã vót để ngườilàm nón làm thành sản phẩm và bán cho đại lý.Người vót vành dùng rựa để vót theo mức độdày mỏng của từng vành nón rồi đo theo từngvòng của khung để cắt và nối với nhau sao chophù hợp với từng vành. Sau đó họ dùng dâycước nối hai đầu để tạo ra 16 vành khác nhau.Mối thắt dây cước dài 2 - 4cm. Khoảng cáchgiữa hai vành là 2 - 3cm.4. Kỹ thuật làm nón4.1. Kỹ thuật xếp láSau khi sơ chế lá và xếp tất cả các vành vàokhung nón, người thợ phủ một lớp lá đầu tiên.Lớp lá này có từ 24 đến 30 lá đã được xếpthành bó rồi dùng kim khâu cho các đỉnh lá nốilại với nhau rồi dùng kéo cắt 45°.Hình 2. Cơng đoạn xếp lá, khâu đỉnh lá và cắt lá một góc 45Đầu tiên, người thợ dùng kim cố định lá ở đỉnh nón, phân bố lá xung quanh vịng nón sao chonhìn thấy góc 135° ở phía ngồi để khi nhìn phía trong nón thấy lớp lá phẳng, đẹp.Hình 3. Cơng đoạn xếp lớp lá thứ nhất lên vành nónSau đó người thợ dặm lá lớp thứ 2 để cho nón được cứng cáp và phủ kín. Lớp lá này không quantrọng phải đẹp, mà chủ yếu là lá đơn dặm vào vòng phụ. Hồng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-8381Hình 4. Cơng đoạn dặm lá lớp thứ 2Sau khi hoàn thành lớp thứ hai, người thợ rút kim ra khỏi đỉnh nón rồi phủ lớp lá thứ bangồi cùng sao cho phần góc 135° khuất ở phía trong và phần thẳng ở ngồi.Hình 5. Cơng đoạn phủ lớp lá ngồi cùng lên vành nónSau đó, dùng vịng phụ thứ hai nhỏ hơn vòng thứ nhất dằn lên giữ cố định lá để bắt đầu chằmnón từ vịng nhỏ nhất.Hình 6. Cơng đoạn cố định vịng phụ cho lá phẳng để chuẩn bị chằm nón 82Hồng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-834.2. Kỹ thuật chằm nón5. Cách thức hồn thành sản phẩmSau khi xếp xong ba lớp lá, người thợ rútkim ở phần đỉnh nón rồi dùng kim và dây cướccố định nút thắt thứ nhất tại vành nhỏ nhất.Đại lý mua nón về rồi thuê thợ chuyên kẹpvành nón để làm khâu kẹp vành. Người thợdùng kéo cắt lá dư sát vào vành cuối cùng rồidùng hai vành tre lớn kẹp vào vành cuối cùngđể chiếc nón chắc chắn hơn. Lúc này cáchchằm cũng tương tự như các vòng trên nhưngkhoảng cách giữa các nút thắt dày hơn.Hình 7. Cách chằm nút thắt lần thứ nhất. Nút thắt nàynằm trên vịng nhỏ nhấtSau đó, người thợ đâm kim xuống bên nàyvành rồi đưa lên bên kia vành, luồn kim vàogiữa mối dây cước, thắt chặt rồi tiếp tục chằmtừ trái qua phải.Hình 8. Cách chằm các nút tiếp theoKhoảng cách giữa hai nút chằm là 1-1,2cmcho đến khi hết vòng rồi tiếp tục vành thứ hai.Sau khi chằm hết vịng lớn cuối cùng, ngườithợ đã hồn thành phần việc của mình. Các đạilý sẽ tới mua nón rồi chằm vịng cuối cùng vàtrang trí nón.Hình 1. Người thợ thực hiện khâu trang trí nónSau khi nón hồn thành, người của đại lýtrang trí thêm chóp trong và hai bên cột quainón. Chóp trong được trang trí bằng cách dánmột miếng giấy trịn nhỏ có in hình hoa văn vớimàu sắc nổi bật. Chỗ cột quai nón được đanbằng dây len nhiều màu sắc, hai bên đối xứngnhau, trên các vành. Đầu tiên, dây len được cốđịnh một đầu rồi đan chéo qua phía đối diện.Chỗ cột quai nón gồm 6 đường trên một vành,mỗi bên 12 đường trên 2 vành rồi dùng dây lenthắt điểm trung tâm tạo thành hình nơ. Khingười sử dụng mua nón về sẽ mua thêm mộttấm vải làm quai nón, thắt vào hai chỗ cột quainón. Hồng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-8383Hình 10. Hình thức trang trí chóp nón và chỗ cột quai nónThợ làm nón ở La Hà khơng trực tiếp bánnón cho người tiêu dùng mà bán thành phẩmcho đại lý, đại lý thu gom rồi bán cho các cơngty lớn.6. Kết luậnTrong bối cảnh cơng nghiệp hóa, hiện đạihóa của đất nước ta hiện nay thì việc tìm hiểuđể bảo tồn kỹ thuật làm nón lá trước khi kỹthuật này bị mất đi là một việc cấp thiết và có ýnghĩa. Nghiên cứu đã tìm hiểu và mơ tả kỹthuật làm nón từ khâu sơ chế ngun liệu chođến khâu hoàn thành sản phẩm. Bằng sự khéoléo của mình, người La Hà đã tạo nên nhữngchiếc nón lá mỏng manh, thanh thoát, bền, nhẹvới màu sắc sáng đẹp.Do thu nhập từ nghề làm nón khơng đảmbảo đời sống nên giới trẻ không tiếp nối làmnghề khiến nghề làm nón tại đây đang có nguycơ bị mất đi. Người làm nón tại La Hà hiện nayhầu hết là những người phụ nữ lớn tuổi khơngcó nghề nghiệp ổn định, ngồi thời gian làmnơng họ tranh thủ làm nón để có thêm thu nhập.Để bảo tồn làng nghề La Hà nói riêng và nhữnglàng nghề truyền thống nói chung cần có sựquan tâm và hỗ trợ từ chính quyền địa phương.Tài liệu tham khảo[1] Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ViệnKhoa học Xã hội Việt Nam (dịch), Nxb Khoa họcXã hội, Hà Nội.[2] Nguyễn Thị Hịa (2016), “Bảo tồn và phát triển vănhóa - xã hội làng nghề ở Nam Bộ trong quá trìnhxây dựng nông thôn mới”, Nghiên cứu Địa lý Nhânvăn, Số 4, tr. 10-17.[3] Mai Văn Nam & Đinh Công Thành (2011), “Hiệuquả hoạt động sản xuất kinh doanh của các làngnghề ở tỉnh Bạc Liêu”, Tạp chí Khoa học TrườngĐại học Cần Thơ, Số 18a, tr. 298-306.[4] Nguyễn Tri Nam Khang & các cộng sự (2013), “Giảipháp phát triển làng nghề truyền thống kết hợp vớidu lịch tỉnh Hậu Giang”, Tạp chí Khoa học TrườngĐại học Cần Thơ, Số 28, tr. 17-25.[5] Đào Anh Tuấn (2012), “Phát triển làng nghề sảnxuất mây tre đan và làng nghề sản xuất nón lá trênđịa bàn tỉnh Quảng Bình” (Luận văn đại học Đạihọc), Đại học Kinh tế Huế - Đại học Huế.[6] Trung tâm DữliệuThựcvật Việt Nam: />[7] Violeta Mitic & các cộng sự (2013), “Effect of FoodPreparation Technique on Antioxidant Activity andPlant Pigment Content in Some VegetablesSpecies”, Journal of Food and Nutrition Research,Vol. 1, tr.121-127.[8] Azuan Abudul Latif & các cộng sự (2018),“Ammonia-based pretreatment for Lingo-cellulosicBiomass Conversion-An Overview”, Journal ofEngineering Science and Technology, Vol. 13, Số 6,tr. 1595-1620.[9] Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình: />[10] Trang thơng tin điện tử Ủy ban Mặt trận Tổ quốcViệtNamtỉnhQuảngBình />[11] Trang thơng tin điện tử UBND xã Quảng Văn /> Hồng Văn Thái, Lê Thị Ngọc Cầm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 4(47) (2021) 76-831

Tài liệu liên quan

  • Tài liệu HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA LÀNG NGHỀ DỆT CHIẾU ĐỊNH YÊN – ĐỒNG THÁP doc Tài liệu HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA LÀNG NGHỀ DỆT CHIẾU ĐỊNH YÊN – ĐỒNG THÁP doc
    • 10
    • 447
    • 4
  • Nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển sản phẩm thuỷ sản của làng nghề truyền thống miền Bắc và Bắc Trung Bộ Nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển sản phẩm thuỷ sản của làng nghề truyền thống miền Bắc và Bắc Trung Bộ
    • 150
    • 369
    • 1
  • Thực trạng sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng tầm nhìn đến năm 2020 Thực trạng sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng tầm nhìn đến năm 2020
    • 118
    • 1
    • 8
  • Giải pháp tiết kiệm nhiên liệu sử dụng trong sản xuất gốm sứ của làng nghề gốm sứ bát tràng Giải pháp tiết kiệm nhiên liệu sử dụng trong sản xuất gốm sứ của làng nghề gốm sứ bát tràng
    • 157
    • 514
    • 0
  • xúc tiến hỗn hợp cho sản phẩm của làng nghề truyền thống và cụ thể là “ Làng nghề thêu kỹ Thắng lợi – Thường tín xúc tiến hỗn hợp cho sản phẩm của làng nghề truyền thống và cụ thể là “ Làng nghề thêu kỹ Thắng lợi – Thường tín
    • 17
    • 308
    • 0
  • NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG SẢN XUẤT SẠCH HƠN CHO LÀNG NGHỀ DỆT NHUỘM VẠN PHÚC- HÀ ĐÔNG- HÀ NỘI NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG SẢN XUẤT SẠCH HƠN CHO LÀNG NGHỀ DỆT NHUỘM VẠN PHÚC- HÀ ĐÔNG- HÀ NỘI
    • 11
    • 484
    • 6
  • NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG SẢN XUẤT SẠCH HƠN CHO LÀNG NGHỀ DỆT NHUỘM VẠN PHÚC- HÀ ĐÔNG- HÀ NỘI NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG SẢN XUẤT SẠCH HƠN CHO LÀNG NGHỀ DỆT NHUỘM VẠN PHÚC- HÀ ĐÔNG- HÀ NỘI
    • 71
    • 397
    • 0
  • Thực trạng sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng tầm nhìn đến năm 2020 Thực trạng sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống gốm sứ Bát Tràng tầm nhìn đến năm 2020
    • 60
    • 443
    • 0
  • Phân tích dự án đầu tư xây dựng hệ thống dây chuyền II sản xuất gạch tuynel của công ty cổ phần COSEVCO i 5   quảng bình Phân tích dự án đầu tư xây dựng hệ thống dây chuyền II sản xuất gạch tuynel của công ty cổ phần COSEVCO i 5 quảng bình
    • 96
    • 410
    • 0
  • Ứng dụng phương pháp mô phỏng trong dạy học môn kỹ thuật xung số tại trường trung cấp nghề giao thông công chính hà nộ Ứng dụng phương pháp mô phỏng trong dạy học môn kỹ thuật xung số tại trường trung cấp nghề giao thông công chính hà nộ
    • 106
    • 902
    • 3

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

(1.01 MB - 10 trang) - Kỹ thuật sản xuất nón lá của làng nghề truyền thống thôn La Hà (Quảng Bình) Tải bản đầy đủ ngay ×

Từ khóa » Tóm Tất Quy Trình Làm Nón Lá