LÀM THẾ NÀO KHẾ NHẬP CẢNH GIỚI PHẬT - Tịnh Không Pháp Ngữ

LÀM THẾ NÀO KHẾ NHẬP CẢNH GIỚI PHẬT

(Trích lục từ Thái Thượng Cảm ứng Thiên giảng giải)

Xin chào các vị đồng tu! Chỉ còn hai mươi ngày nữa thì là năm 2000, thiên hỷ niên đã đến rồi. Mỗi một nơi trên thế giới đều tổ chức chúc mừng rất náo nhiệt. Chúng ta ở ngay thời điểm này, cũng tổ chức một buổi dạ tiệc ấm áp, hơn nữa còn mời thỉnh chín tôn giáo lớn của Singapore cùng đến tham gia. Không chỉ mời họ tham gia, chúng ta mời họ làm chủ nhân đại hội, chúng ta đứng bên cạnh hiệp trợ. Thế nhưng mọi người đều biết, mấy năm gần đây, toàn thể thế giới tai nạn triền miên. Chẳng những vậy, mà lần sau nghiêm trọng hơn lần trước, trong lòng mọi người đều lo lắng khôn lường. Có một số người cho rằng, cái tai nạn này là không thể tránh khỏi, thế nhưng cũng có người nói rằng, tai nạn này có thể hóa giải được. Cho nên có người đến hỏi tôi, chúng ta làm thế nào hóa giải?

Bắt đầu của thế kỷ 21, chúng ta tổng hợp Phật giáo. Bao gồm tất cả các tôn giáo, những bực thánh nhân xưa nay trong và ngoài nước, họ đã nói ra nguồn cội của vũ trụ nhân sanh, trong Phật pháp gọi là tâm tánh, mười pháp giới y chánh trang nghiêm, đây là nói đến hư không pháp giới tất cả chúng sanh là duy tâm sở hiện, duy thức sở biến. Ấn Độ giáo thuở xưa (lịch sử của họ dài hơn với Phật giáo, Bà La Môn giáo cũa Ấn Độ chí ít có đến 8000 năm lịch sử trở lên), họ nói nguồn gốc của vũ trụ là Phạm, là Ngã. Cái ngã này của họ không phải là tiểu ngã, mà là cái ngã của “thường lạc ngã tịnh” mà Phật giáo đã nói, là chân ngã. Thông thường các tôn giáo nói thế giới này là Thượng Đế tạo, sinh mạng cũng là Thượng Đế tạo, thần tạo ra, cũng có tôn giáo đem Thượng Đế xem thành trí tuệ. Phật pháp đại thừa gọi là pháp thân, đều là từ trên bản thể mà nói. Cái nhận thức này chính là đại thánh đại hiền, bạn làm sao có thể nhận biết, bạn làm sao có thể hiểu được vậy? Trong Phật pháp thông qua tu học giới-định-huệ, từ trong thiền định sâu mà khai mở trí tuệ, là tam huệ của Bồ Tát, do tam huệ mà nhận biết, mà khẳng định. Cái này chính là triệt để thấu suốt chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Phạm vi của nó lớn bao nhiêu vậy? Nhà Phật gọi mười pháp giới, gọi là Bách Giới Thiên Như, chân thật là “gồm thâu hết thảy lớn nhỏ”. Bực đại thánh của thế gian xuất thế gian đều ở ngay đây mà hạ công phu, sau đó thân chứng cái cảnh giới này mà khẳng định. Người thời nay cho rằng tinh thần vượt ngoài kinh nghiệm, thực thực tại tại đang tồn tại. Đây chính là phía trên đã nói Tâm tánh, Phạm, Ngã, Thượng Đế, Pháp thân, Thần đích thực tồn tại, tồn tại vĩnh hằng, đây chính là “Năng quán, năng sanh, năng biến” mà thế giới ngay trong kinh nghiệm chúng ta có thể phân làm hai bộ phận. Một là hiện tượng của tinh thần, một là hiện tượng của vật chất, đây là sở hiện, sở sanh, sở biến. Sở hiện, sở sanh, sở biến là vô lượng vô biên, thế nhưng các vị phải nên biết, năng sanh năng biến chỉ là một. Vậy thì do đây có thể biết, tận hư không biến pháp giới tất cả chúng sanh là một thể sinh mạng đồng nhất. Chúng ta thường hay nghe được lãnh đạo quốc gia, đối với người cả nước nói rằng: “toàn thể đồng bào cả nước”. Chúng ta từ nơi bực đại thánh nhân mà nhận biết, đó chính là tất cả đồng bào trong hư không pháp giới, phạm vi này thì rất lớn, đồng cùng một căn tánh, đồng cùng một thể sinh mạng đồng nhất. Chúng ta phải từ chỗ này mà nhận biết. Sau khi nhận biết rồi, quay đầu nhìn lại, nhìn thấy tất cả chúng sanh có được nhận biết rõ ràng hay còn có mê hoặc điên đảo, hoàn toàn không thể thấu hiểu.

Nhận biết thấu đáo, ở trong Phật pháp gọi là Phật, gọi là Bồ Tát, mê hoặc mà không nhận biết thì gọi là phàm phu. Vậy thì ở trong tôn giáo, nhận biết rõ ràng thì gọi họ là Thần, gọi họ là tiên tri, gọi họ là thiên xứ; Không nhận biết thì gọi họ là phàm phu. Những bực đại thánh đại hiền này dạy bảo chúng ta, dạy chúng ta nhận biết chân tướng sự thật. Phương pháp dạy chúng ta chuyển biến, chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh, đây là tổng cương lĩnh trong phương pháp. Chúng ta cũng đang học, thế nhưng vì sao chuyển cũng không thể chuyển lại được? Từng nghe nói qua, trồng nhân thiện được quả thiện, thế là cũng học theo làm việc tốt, việc tốt cũng đã làm không ít, thế nhưng không thể nào chuyển được nghiệp báo, đây là nguyên nhân gì vậy? Thực tại cũng giống như phía sau của Liễu Phàm Tứ Huấn, phụ lục “Du Tịnh Ý tiên sinh ngộ Táo Thần ký”, thiên tác phẩm đó mọi người xem qua thì sẽ rõ.

Du Tịnh Ý nghèo khổ cùng cực, gặp phải đại nạn đại bất hạnh, ông cũng ngày ngày làm việc thiện, là người học tập thông hiểu, tại vì sao không thể chuyển được nghiệp? Oán trời trách người, làm nhiều việc tốt đến như vậy nhưng không có quả báo tốt? Thần Táo liền điểm hóa ông, việc thiện mà ngươi đã làm hoàn toàn chỉ là bề mặt, miệng tốt, thân tốt, ý của ngươi không tốt, tâm của ngươi không tốt, cho nên ngươi không thể thay đổi được. Thần Táo nói một loạt chỉ điểm cho ông, rất đáng được chúng ta nỗ lực mà tham cứu, mà đọc tụng, kiểm điểm chính chúng ta. Cho nên, đại đức xưa dạy người, tu hành phải từ căn bản mà tu. Cái gì là căn bản vậy? Căn bản là Tâm, chỉ cần tâm của bạn thiện, ý niệm của bạn thiện, nghiệp báo nào mà không thể chuyển đổi được chứ, làm gì không thể hóa giải được tai nạn chứ? Cũng giống như một thân cây vậy, tâm là gốc, ý niệm là thân, thân là cành, miệng là lá, bạn ở trên cành lá mà tu hành, thân gốc của bạn thì bị mục rã thì không thể cứu. Ở ngay thân gốc mà cứu được rồi thì cành lá dễ dàng, cành lá thì không khó. Cho nên, chúng ta nhìn thấy có rất nhiều người ở bề ngoài tích đức hành thiện, nhưng không thể chuyển đổi được nghịêp lực, cuối cùng oán trời trách người, nói Phật Bồ Tát không linh, nói Thần không linh, có lỗi với họ, cùng với Du Tịnh Ý là hoàn toàn giống nhau. Cho nên, chuyển phải từ nơi trong tâm mà chuyển, phải từ ngay trên ý niệm mà chuyển, chuyển thành thuần thiện.

Đại sư Huệ Năng - tổ thứ sáu của Thiền tông nói rất hay: “Nếu là người chân chính tu hành, thì không thấy lỗi thế gian”. Đây là từ nơi tâm, từ ngay nơi ý niệm mà chuyển đổi, chỉ thấy lỗi của chính mình, không thấy lỗi của người khác. Do đó, mọi người đều có thể chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh, đạo lý ngay chỗ này. Chúng ta ngày nay, miệng cũng tốt, thân cũng tốt, thế nhưng thường hay nhìn thấy không tốt của người khác. Người không tốt kia có quả báo tốt, tôi thì ngày ngày tích đức tu thiện lại không nhận được quả báo tốt, trong lòng có bất bình. Cho nên, bạn phải biết, thân của bạn tốt, miệng của bạn tốt, nhưng gốc của bạn hư mất rồi. Phải từ nơi căn bản làm một cuộc thay đổi lớn, từ ngay nơi tâm, nghĩ đến tất cả việc tốt của mọi người, không nên nghĩ đến việc xấu của mọi người. Mọi người không hề có việc xấu, xấu ngay nơi gốc của chính chúng ta. Chúng ta nhìn thấy việc xấu của người khác, liền biết được gốc của chúng ta đã hư rồi. Tại vì sao Phật nhìn thấy tất cả chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát nhìn thấy tất cả chúng sanh đều là Bồ Tát? Cái gốc của họ tốt, gốc không có bị bệnh.

Mục đích của việc tu hành, chúng ta tóm gọn lại, rất là hiện thực, là hai chữ hòa bình này, hư không pháp giới tất cả chúng sanh đều có thể cùng ở với nhau hòa thuận, đối đãi bình đẳng, không phân biệt chủng tộc, không phân tín ngưỡng tôn giáo, không phân quốc gia. Mười phương vô lượng vô biên cõi nước chư Phật, thế giới của chúng thần, chúng ta ở trong kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm xem thấy, cái hiện tượng đó đích thực là đa nguyên văn hóa mà người ngày nay chúng ta nói, số lượng đó của nó rất nhiều, chúng ta không cách gì tưởng tượng ra, cảnh giới không thể nghĩ bàn, mọi người đều có thể cùng ở với nhau hoà thuận, đều có thể đối đãi bình đẳng, hơn nữa đều có thể làm đến được tôn trọng lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, chỉ có xây dựng không có phá hoại. Cho nên, chúng ta xem thấy thế giới Hoa Tạng, xem thấy thế giới Cực Lạc, xem thấy thế giới Chúng Thần, đời sống của họ hạnh phúc tràn đầy, chân thật được đầy đủ, đời sống chân thiện mỹ huệ. Chúng ta nhìn lại, nhìn qua mấy ngàn năm, mấy vạn năm, ở trong quả địa cầu này của chúng ta vẫn là không thể nào thực hiện, nguyên nhân gì vậy? Chúng ta không hòa, không thể cùng người khác cùng sinh sống hòa thuận, chúng ta không thể bình đẳng đối đãi tất cả chúng sanh, nguyên nhân chính ngay chỗ này. Cho nên, hôm nay chúng ta đề xướng giáo dục của Phật Đà, đề xướng giáo dục tôn giáo, mục đích của chúng ta chính là hướng đến tất cả thế gian, tất cả chúng sanh đều có thể cùng sống hòa thuận, bình đẳng đối đãi.

Nếu muốn đạt đến mục đích này cần phải đánh thức chánh giác của tất cả chúng sanh mới có thể đạt đến được. Đánh thức chánh giác của tất cả chúng sanh, ngoài giáo dục ra thì không có phương pháp nào khác có thể đạt đến được. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc xem trọng giáo dục, đem giáo dục xem thành một việc lớn của cả đời phải làm. Trong Lễ Ký học nói với chúng ta: “Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”. Sau khi Phật pháp truyền đến Trung Quốc, hình thành văn hóa chủ đạo của Trung Quốc, là một mắc xích không thể tách rời. Giáo dục của Phật Đà do Hoàng đế đích thân trụ trì, giáo dục của Nho gia giao cho Tể tướng thực hiện. Giáo dục thánh hiền thế xuất thế gian ở ngay trên mảnh đất này đồng thời phát triển rộng lớn, đây là may mắn của dân tộc Trung Quốc, có thể sáng tạo văn minh Trung Quốc, văn hóa Trung Quốc. Thế nhưng những năm về sau, sau đời nhà Thanh thì rất không may, chúng ta đánh mất đi lòng tự tin của dân tộc, cho nên mới gặp phải hơn hai trăm năm nạn tai. Chúng ta có những kinh nghiệm đau khổ, từ trong kinh nghiệm giáo huấn mà tỉnh ngộ ra. Văn minh khoa học mang đến cho thế nhân những ảnh hưởng phụ. Suy nghĩ nhiều lần, vẫn là phải nương giáo dục tôn giáo mới có thể cứu vãn thế giới này, chỉ có giáo dục tôn giáo mới có thể thúc đẩy phổ biến, dẫn dắt mọi người thấu hiểu. Chúng ta cùng là đồng một thể sinh mạng. Sinh mạng là vĩnh hằng. Phàm hễ tín đồ tôn giáo đều khẳng định có đời quá khứ, còn có đời vị lai. Đời này thời gian rất ngắn, thời gian đời sau rất dài. Nhất định phải đoạn ác tu thiện, chuyển mê thành ngộ, chúng ta cần phải truy cầu hạnh phúc vĩnh hằng, phải hối cải, phải sám hối, bồi dưỡng thiện tâm, thiện niệm, thiện hạnh của chính mình. Thiên tai nhân họa trước mắt, cho dù là không thể hoàn toàn tránh khỏi, nhưng chúng ta khẳng định, tai nạn có thể chậm lại, phạm vi của tai nạn có thể giảm nhẹ. Có thể vì chúng ta, chúng sanh cư trú trên quả địa cầu này, mang đến phước báu chân thực, hi vọng mọi người chúng ta chăm chỉ nỗ lực mà làm.

Tốt rồi! Thời gian hôm nay đã hết, chúng ta giảng đến đây thôi. A Di Đà Phật!

Người giàng: HT Tịnh Không

Thời gian: ngày 11 tháng 12 năm 1999

Địa điểm: Báo Ân Đường Tịnh Tông Học Hội Singapore.

Ý nghĩa chân thật của Bổn Nguyện Niệm Phật

(trích lục từ Thái Thượng Cảm Ứng Thiên giảng giải)

Người giảng: HT Tịnh Không

Thời gian: ngày 05 tháng giêng năm 2000.

Địa điểm: Báo Ân Đường Tịnh Tông Học Hội Singapore

Xin chào các vị đồng tu! Sư Ngộ Đạo đưa đến nơi đây một câu hỏi của đồng tu ở Đại học Lý Công Nam Kinh: “Xin hỏi, gần đây có người truyền Bổn Nguyện Niệm Phật, không theo Tịnh Độ Tam Kinh, mà nói chỉ cần tin rồi liền có thể vãng sanh, không cần phát nguyện, cũng không cần niệm Phật, nghe rồi nghi vấn trùng trùng, cung thỉnh sư phụ từ bi khai thị”.

Việc này đích thực là vấn đề rất nghiêm trọng. Vấn đề này nếu như giải thích sai, sẽ làm rất nhiều đồng tu nhầm lẫn, làm cho cơ hội niệm Phật vãng sanh một đời này bị lỡ dịp. Người truyền những lời nói này phải chịu trách nhiệm nhân quả, trong kinh Phật nói phải đọa A Tỳ địa ngục. Bổn Nguyện Niệm Phật không hề sai, nhưng họ đem cái ý này giải sai hoàn toàn. Trước khi Phật vào Niết Bàn, đối với hiện trạng xã hội hiện đại này của chúng ta ngài rất là rõ ràng, rất là thấu đáo. Trong hội Lăng Nghiêm, trong đoạn Thanh Tịnh Minh Hối, mọi người đều đã đọc đến, Phật nói: “Tà sư thuyết pháp như Hằng hà sa”. Những điều trên kinh đã nói chính là thời đại hiện tại này của chúng ta, pháp nhược ma cường, chúng sanh nhận giả không nhận thật, nghe gạt không chịu nghe khuyên.

Các vị đồng tu tịnh tông chúng ta nhất định phải hướng theo Phật học tập. Phật đối với những người này có lòng nhẫn nại chờ đợi. Cho nên tôi cảm thấy ngay trong đồng tu của chúng ta, có rất nhiều nhiệt tâm đó, vượt qua Phật rất nhiều, giận là không thể đem tất cả chúng sanh này thảy đều đưa đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Thế nhưng, nên quay đầu lại nỗ lực phản tỉnh, chính mình có thể vãng sanh hay chưa? Chính mình không thể được độ, mà muốn độ người khác, trên kinh Phật thường nói là làm gì có việc như vậy. Mọi người thường hay nghe nói, nghe nhiều rồi thành quen tai: “Phật không độ người vô duyên”. Chúng ta phải nên hiểu, họ không có duyên với Phật, không có duyên thì không tin, không tin tưởng Tam Kinh đã nói, không thể y giáo phụng hành, muốn nghe người khác nói những lời nói này. Đây chính là không có duyên với Phật, đời này của họ nhất định không thể thành công.

Bổn nguyện là bổn nguyện gì vậy? 48 lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông của chúng ta thành lập, chính là y theo Bổn Nguyện Niệm Phật. Bạn xem thời khoá sáng chúng ta, khóa tụng của Tịnh Tông, khóa sáng là đọc 48 lời nguyện, buổi tối là sám trừ nghiệp chướng. Nghiệp chướng nếu không sám trừ, nhất định không thể vãng sanh. Pháp môn này tuy là nói đới nghiệp vãng sanh, tổ sư đại đức xưa nay đã nói rất nhiều: “Chỉ mang nghiệp cũ, không mang nghiệp đang làm”. Bạn hiện tại đang tạo nghiệp, cái nghiệp này không thể mang đi. Mang là mang nghiệp quá khứ, quá khứ sai rồi nhưng không hề gì, hôm nay thay đổi nó lại, nên gọi là chỉ luận quá khứ không luận hiện hành. Đây là nguyên lý nguyên tắc của đới nghiệp vãng sanh. Hiện tại vẫn còn tạo nghiệp, vậy thì không thể vãng sanh, đạo lý này nhất định phải nên hiểu.

Bổn nguyện, có người nói bổn nguyện chính là nguyện thứ 18, thế nhưng người thông thường không thể thâm giải nghĩa thú. Trong nguyện thứ 18, viên mãn đầy đủ hàm nhiếp cả thảy 47 nguyện kia, 47 nguyện khác thiếu đi một nguyện thì nguyện thứ 18 này không thể viên mãn. Vị đại đức truyền Bổn Nguyện Niệm Phật này có hiểu được cái đạo lý này không? Trong 48 nguyện, bất cứ nguyện nào đều viên mãn hàm nhiếp 47 nguyện khác, nguyện nguyện đều như vậy. Kinh Hoa Nghiêm của chúng ta tuy là vẫn chưa giảng hết, mọi người nghe rồi, cũng không xem là ít. Trên kinh Hoa Nghiêm nói một chính là tất cả, tất cả chính là một, ít nhiều không hai, họ có hiểu được như vậy không? Bổn Nguyện Niệm Phật là một chính là tất cả, cho nên công đức của nó thù thắng. Tuyệt đối không thể nói là chỉ y theo nguyện thứ 18, còn 47 nguyện khác thì không cần, như vậy thì 48 nguyện cũng bằng không. Nguyện thứ 18 là gì? Là tổng cương lĩnh cho 47 nguyện khác, đây là ma thuyết pháp, không phải Phật thuyết pháp.

Trước khi Thế Tôn nhập diệt, dạy chúng ta y theo tứ y pháp. Tứ y pháp thứ nhất là y pháp bất y nhân. Pháp là gì vậy? Tịnh tông đệ nhất kinh là Kinh Vô Lượng Thọ. Đông Tấn Huệ Viễn đại sư ở Lô Sơn xây dựng một đạo tràng niệm Phật đệ nhất, “Đông Lâm Niệm Phật Đường”, đồng tu chí đồng đạo hợp gồm 123 người, lúc đó kinh điển của Tịnh Tông chỉ có một bộ, những bộ khác vẫn chưa dịch ra. Kinh Vô Lượng Thọ, đạo tràng Lô Sơn của Viễn Công nhiều người đến như vậy, chỉ y theo kinh Vô Lương Thọ, 123 người này vững vàng ổn định đều được vãng sanh. Cái đạo tràng này trang nghiêm thù thắng không gì bằng. Chúng ta phải đi con đường mà người xưa đã đi, kế thừa người xưa.

Người thời nay, cuối đời Thanh, đầu dân quốc, Ấn Quang lão pháp sư, việc này rất nhiều đồng tu đều biết, là Đại Thế Chí Bồ Tát thế giới Tây Phương Cực Lạc hóa thân đến. Lão pháp sư chúng ta không nhìn thấy, nhưng Văn Sao của lão pháp sư lưu truyền ở thế gian. [Chúng ta] phải chăm chỉ mà đọc tụng, y giáo phụng hành. Con đường mà ngày nay chúng ta đi là kế thừa đại sư Ấn Quang. Lão sư của tôi, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, học trò của đại sư Ấn Quang, cả đời phụng trì lời giáo huấn của thầy. Tôi thân cận cụ ấy mười năm, ông không dám lấy thân phận thầy để đối đãi, ông giới thiệu cho tôi một lão sư, lão sư là ai vậy? Là Ấn Quang đại sư, là thầy của ông. Do đây có thể biết, người chân thật có đức hạnh, có học vấn thì khiêm tốn, dạy tôi phải chân thật phát tâm đọc tụng Văn Sao, y giáo phụng hành, như vậy chính là học trò của Ấn Quang đại sư. Tôi ở mọi nơi khuyên bảo các vị đồng tu y theo Kinh Vô Lượng Thọ, trực tiếp ổn định làm học trò của Phật A Di Đà.

Lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, ông nếu không phải Phật A Di Đà tái sanh cũng nhất định là Bồ Tát Quán Thế Âm tái lai. Nếu như không phải là Phật tái lai, bộ kinh này nhất định không thể hội tập được hoàn mỹ như vậy. Chúng ta biết, Vương Long Thư đời nhà Tống làm hội tập lần thứ nhất, Ngụy Mặc Thâm ở đời nhà Thanh làm hội tập lần thứ hai, đều không viên mãn. Đó là đại đức trong Phật môn chúng ta. Thời kỳ mạt pháp, đích thực cần phải có hội tập, cảm động Phật Bồ Tát thị hiện. Các vị không tin tưởng, nhưng tôi tin. Tin tưởng được lợi ích, y theo quyển này giáo huấn tu hành, người vãng sanh tướng tốt hi hữu. Mấy mươi năm gần đây, chúng ta xem thấy rất nhiều rất nhiều, nghe nói thì càng nhiều hơn, bạn không tin tưởng, lại nghe lời nói của người khác, vậy thì còn cách gì nữa chăng?

Thời đại hiện tại này, khai mở dân chủ tự do, ai cũng không thể làm phiền ai, phải xem chúng ta với Phật, với Phật A Di Đà có duyên phận sâu hay cạn. Chúng ta đọc bổn hội tập của cư sĩ Hạ Liên, không cần phải hỏi cư sĩ Hạ Liên là người như thế nào, không cần phải lo, phải xem cái bổn hội tập của ông có đúng pháp hay không? Tín tâm của chúng ta phải từ chỗ này mà xây dựng, không phải là mê tín, không phải đui mù. Cho nên tôi đem năm nguyên bản dịch kinh Vô Lựơng Thọ, bốn loại hội hiệu bổn, tôi in thành một quyển, làm thành một tập. Tôi nêu ra một bản tên sách là Tịnh Độ Ngũ Kinh đọc bản, trước sau cũng đã in ra hai ba chục ngàn cuốn. Các vị đồng tu đã xem qua, bạn tự mình đi xem, tự mình đi so sánh, để bạn từ chỗ này xây dựng tín tâm kiên định. Sau đó bạn lại tỉ mỉ mà quán sát, người niệm Phật vãng sanh, người y theo bổn nguyện niệm Phật vãng sanh có được mấy người, có được tướng lành như thế nào?

Trong Vô Lượng Thọ kinh nói rất rõ ràng, điều kiện cơ bản ba bực vãng sanh là “Phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, làm gì có chuyện không phát nguyện mà có thể vãng sanh? Không hề có đạo lý này. Không phát nguyện niệm Phật, người xưa đã nói, cho dù một ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu nhưng không có phát nguyện thì đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công. Tại vì sao vậy? Bạn không chịu vãng sanh mà. Cầu nguyện vãng sanh, vạn duyên buông bỏ, cái tâm này chính là tâm bồ đề. Ngẫu Ích đại sư ở trong yếu giải nói với chúng ta, nếu như chúng ta vãng sanh, nếu muốn tăng cao phẩm vị, bạn nhất định muốn thì tâm phải như tâm Phật, nguyện như nguyện của Phật, hạnh đồng như hạnh Phật thì phẩm vị của bạn mới có thể cao. Tâm không giống Phật A Di Đà, nguyện cũng không giống Phật A Di Đà, hành vi cũng không giống Phật A Di Đà, cho dù bạn vãng sanh thì phẩm vị cũng rất thấp, huống hồ bạn đã căn bản không thể vãng sanh. Chúng ta phải ghi nhớ thật rõ ràng.

Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, phu nhân Vi Đề Hi cầu sanh Tịnh Độ, hướng đến Thích Ca Mâu Ni Phật thỉnh giáo là phải nên tu học như thế nào mới có thể vãng sanh thế giới cực lạc. Phật Thích Ca Mâu Ni trước khi giảng giải phương pháp tu học cho bà, trước thuyết minh cho bà Tịnh Nghiệp Tam Phước, rõ ràng nói với chúng ta, đây là chánh nhân tịnh nghiệp của ba đời chư Phật. Hay nói cách khác, Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai, bao gồm tất cả người tu hành thành Phật đều kiến lập ở ngay trên nền tảng này. Nếu như không có cái nền tảng này, dụng công tu hành như thế nào đều không thể thành tựu. Cũng giống như xây dựng phòng ốc, đây là nền móng địa tầng. Cái nền móng này, hai câu đầu là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”, người Trung Quốc chúng ta thường nói “hiếu thân tôn sư”, đây là nền tảng. Thế giới Tây Phương Cực Lạc, mỗi người thảy đều là đại hiếu tử, đều là học sinh tốt nhất của thầy giáo, trong kinh Vô Lương Thọ cũng có nói. Đệ tử thứ nhất của Như Lai làm gì có cái cach nói như vậy chứ? Đây hoàn toàn là sai lầm. Chỉ cần người có đầu óc minh bạch một chút đều có thể phân biệt được. Nếu như ngay cái này cũng không thể phân biệt, học Phật của chúng ta là uổng phí, bạn nghe kinh đã nhiều năm như vậy rồi cũng là nghe vô ích.

Tịnh Nghiệp Tam Phước chính là hạnh Phật, hành vi của chư Phật Như Lai. Áp dụng ngay trong đời sống, Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục độ, mười nguyện, đây là hành trì của Phật, chúng ta đã làm được chưa? Khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, tôi thường hay khuyến khích đồng tu, phải căn cứ vào năm khóa mục này mà đối chiếu. Nếu như tương ưng thì hạnh của bạn là chánh hạnh, không tương ưng thì hạnh của bạn là tà hạnh. Tà hạnh không thể vãng sanh. Cho nên, năm khóa mục này của đồng tu tịnh tông, tôi đều viết trên cuốn Thủ Tắc Tu Hành, chúng ta đã làm ra một quyển sách nhỏ. Xử lý công việc, đối với người, tiếp đãi sự vật, ngay trong công việc của cuộc sống thường ngày, cần yếu phải tuân thủ nguyên tắc, nhất định không thể vi phạm. Nếu như đã vi phạm, niệm Phật phát nguyện vẫn không thể vãng sanh. Tại vì sao vậy? Cái nguyện đó là giả, là không thật, không khế hợp thực tế. Chúng ta phát nguyện hồi hướng, bạn đem cái gì để hồi hướng? Miệng không niệm, hồi hướng suông thì không thể tính được, bạn cần có thứ thực tế để đem ra hồi hướng. Thực tế là cái gì, thực tế là tu hành chứng quả, đoạn ác tu thiện, chuyển mê thành ngộ, đây là công đức tu hành chân thật của chính ta, ta dùng cái này để hồi hướng. Hôm nay bạn không phát nguyện, cũng không niệm Phật, bạn làm sao có thể vãng sanh? Đồng tu Tịnh Tông nghe rồi nghi vấn muôn phần, đây là những người vô tri, ngu muội, là những người đáng thương.

Cũng giống như năm xưa, cư sĩ Trần Kiến Minh ở Mỹ tuyên bố trên thế giới, nói là đới nghiệp không thể vãng sanh, làm cho người niệm Phật trên toàn thế giới lòng người lo sợ. Đây là ma, không phải là Phật. Tôi đến nước Mỹ, ngay Châu Tuyên Đức, một lão cư sĩ như vậy mà tín tâm cũng bị lay động. Tôi đến Lạc Chấn Cơ, ông đón tôi ở phi trường, khi vừa gặp mặt liền hỏi tôi: “Pháp sư! Hiện tại có người nói đới nghiệp không thể vãng sanh, phải tiêu nghiệp mới có thể vãng sanh, vậy phải làm sao đây?” Ngay lúc đó tôi liền nói với ông ấy: “Không đi được thì thôi vậy”. Khi ông nghe lời nói này của tôi vô cùng ngơ ngác. Tôi nhìn thấy dáng vẻ của ông như vậy, đứng lặng nơi đó, một câu cũng không nói ra được. Tôi liền nói với ông: “Nếu như không đới nghiệp thì thế giới Tây Phương Cực Lạc chỉ có một mình Phật A Di Đà lẻ loi cô độc một mình, ông đi đến đó để làm gì?”. Ông vẫn là nghe chưa hiểu. Tôi lại nói với ông: “Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí, Đẳng giác Bồ Tát vẫn còn nhất phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, đó chẳng phải là đới nghiệp hay sao?”. Ông mới tỉnh ngộ ra, Quán Âm, Thế Chí đều đới nghiệp, không đới nghiệp thì chỉ có một mình Phật A Di Đà. Trên kinh không có nói đới nghiệp vãng sanh. Tôi nói: “trên kinh có nói bốn độ, ba bực, chín phẩm hay không?”. Ông nói: “có!”. Nếu như không đới nghiệp, mọi người là bình đẳng, làm gì có ba bực chín phẩm? Đây là Phật dạy chúng ta y nghĩa bất y ngữ. Phật tuy là không nói cái câu đới nghiệp vãng sanh này, nhưng giảng cho bạn ba bực, bốn độ, chín phẩm thì ý nghĩa của đới nghiệp viên mãn rồi. Bạn đới càng nhiều thì phẩm vị của bạn thấp, bạn đới được ít thì phẩm vị của bạn cao, làm gì có đạo lý không đới nghiệp?

Người học Phật phải khai mở trí tuệ, vì sao có thể nghe người ta nói vài ba lời thì tín tâm lay động? Mê hoặc điên đảo, bạn nói xem, con người này có đáng thương hay không? Niệm Phật đã niệm cả đời, bảy tám mươi tuổi, nghe lời giảo ngôn của người thì tín tâm còn bị lay động, thật là đáng thương! Cho nên, Phật dạy cho chúng ta y pháp bất y nhân. Pháp là kinh điển. Kinh điển của Tịnh Tông, hôm nay là ngũ kinh nhất luận. Y nghĩa bất y ngữ, phải thấu hiểu ý nghĩa của nó.

Bổn Nguyện Niệm Phật có sai không ? Không hề sai, cái gì là bổn nguyện? Ngũ kinh nhất luận là Bổn nguyện, 48 lời nguyện là Bổn nguyện của Phật A Di Đà, không thể ở trong đó lấy ra một nguyện, vậy thì không được. Bất cứ một nguyện nào trong đó, bạn phải nên hiểu một chính là tất cả, một câu chính là toàn bộ ngũ kinh nhất luận, vậy thì được. Bạn có loại công phu này thì được, không có công phu này thì ngoan ngoãn trung trung thực thực tuần tự theo từng bộ kinh mà học tập, bạn mới có thể có được thành tựu. Phàm hễ không như pháp, khúc giải ý nghĩa Bổn Nguyện Niệm Phật đều là ma, e rằng thành tựu cả đời này của bạn sẽ bị lôi ngược lại, đem bạn đưa đến địa ngục A Tỳ. Họ sẽ vui mừng.

Được rồi! Thời gian của hôm nay đã hết, vấn đề này, tôi xin nói cho mọi người nghe đến đây thôi. A Di Đà Phật!

Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: Phật tử Diệu Hiền

Từ khóa » Khế Nhập