Làn Sóng Hàn Quốc – Wikipedia Tiếng Việt

Những nét văn hóa Hàn Quốc nằm trong Làn sóng Hàn Quốc.
Văn hóa Triều Tiên
Lịch sử
Con người
  • Nhân khẩu Hàn Quốc / Nhân khẩu Triều Tiên
  • Pháp luật quốc gia Hàn Quốc / Pháp luật quốc gia (DPRK)
Ngôn ngữ
  • Lịch sử
  • Phương ngữ
  • Khác biệt Nam-Bắc
  • Âm vị
  • Ngữ pháp
  • Kính ngữ
  • Hangul
Phong tục
  • Triết học
  • Nghi thức
  • Kết hôn
  • Funerals
  • Trà lễ
  • Mặt nạ
  • Kisaeng
  • Hanjeungmak / Jjimjilbang
  • Trang phục
Thần thoại và văn hóa dân gian
  • Thân thoại
  • Văn hóa dân gian
Ẩm thực
  • Gimbap
  • Patbingsu
  • Bibimbap
  • Seolleongtang
  • Kimchi
  • Gà rán Triều Tiên
  • Tteok
  • Banchan
  • Gochujang
  • Doenjang
  • Anju
  • Makgeolli
  • Soju
Lễ hội
  • Năm mới Triều Tiên

Quốc khánh Hàn Quốc

  • Chuseok
Tôn giáo
  • Shaman giáo
  • Đạo giáo
  • Phật giáo
  • Tân Nho giáo
  • Đạo Cheondo

Cơ Đốc giáo

  • Giáo hội thống nhất
Nghệ thuật
  • Thư pháp
  • Nghệ thuật Phật giáo
  • Hội họa
  • Xếp hoa
    • Vườn
  • Điêu khắc
  • Nút dây
  • Gốm và sứ
Văn học
  • Hyangga
  • Sijo
  • Văn học tiếng Trung
  • Sinsoseol
  • Văn học Triều Tiên / Văn học Hàn Quốc
  • Manhwa
  • Thơ
Âm nhạc và biểu diễn nghệ thuật
  • Âm nhạc
  • Biểu diễn nghệ thuật
Truyền thông
  • Cơ quan kiểm duyệt internet / Cơ quan kiểm duyệt internet Triều Tiên
  • Điện ảnh Hàn Quốc / Điện ảnh Triều Tiên
  • Âm nhạc Hàn Quốc / Âm nhạc Triều Tiên
  • Chosun Ilbo / Donga Ilbo / JoongAng Ilbo / Hankook Ilbo / Kyunghyang Shinmun / The Hankyoreh
  • KBS1 / KBS2 / MBC / EBS / SBS
  • Nate / Naver / Daum / Cyworld
  • Tuyên truyền
  • K-pop / K-drama
  • x
  • t
  • s

Làn sóng Hàn Quốc, còn gọi là Hàn lưu hay Hallyu (Tiếng Hàn: 한류; Hanja: 韓流; Romaja: Hallyu; McCune–Reischauer: Hallyu; Hán-Việt: Hàn lưu, listen, có nghĩa là "làn sóng/dòng chảy" trong tiếng Hàn), hay còn có tên gọi đầy đủ là làn sóng văn hóa Hàn Quốc, là sự gia tăng phổ biến toàn cầu của văn hóa Hàn Quốc kể từ thập niên 1980.[1][2][3] Lần đầu tiên được thúc đẩy bởi sự phổ biến của K-drama và K-pop trên khắp Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á trong giai đoạn đầu của nó, làn sóng Hàn Quốc đã phát triển từ một sự phát triển trong khu vực thành một hiện tượng toàn cầu, nhờ Internet và phương tiện truyền thông xã hội và sự gia tăng của video âm nhạc K-pop trên YouTube.[4][5][6][7][8]

Kể từ khi bước sang thế kỷ 21, Hàn Quốc đã nổi lên như một nước xuất khẩu lớn về văn hóa đại chúng và du lịch, những khía cạnh đã trở thành một phần quan trọng trong nền kinh tế phát triển của nước này. Sự phổ biến ngày càng tăng của văn hóa đại chúng Hàn Quốc trên thế giới ít nhất một phần được thúc đẩy bởi chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ các ngành công nghiệp sáng tạo của họ thông qua trợ cấp và tài trợ cho các công ty khởi nghiệp, như một hình thức quyền lực mềm với mục tiêu trở thành nhà xuất khẩu văn hóa hàng đầu thế giới, phù hợp với văn hóa Nhật Bản và Anh Quốc, một thị trường ngách mà Hoa Kỳ đã thống trị trong gần một thế kỷ. Năm 2014, chính phủ Hàn Quốc đã phân bổ 1% ngân sách hàng năm cho các ngành công nghiệp văn hóa và gây quỹ 1 tỷ USD để nuôi dưỡng văn hóa đại chúng.[9][10] Khi tác động của K-pop và các bộ phim truyền hình Hàn Quốc như "Gangnam Style" và Mặt trăng ôm mặt trời đã đạt được sự công nhận có ảnh hưởng và danh tiếng quốc tế, xã hội Hàn Quốc bắt đầu được công nhận là phát triển ngang bằng với thế giới phương Tây.[11]

Thành công của làn sóng Hàn Quốc một phần là do sự phát triển của các dịch vụ mạng xã hội và các nền tảng chia sẻ video trực tuyến đã cho phép ngành công nghiệp giải trí Hàn Quốc tiếp cận lượng khán giả nước ngoài khá lớn. Phim truyền hình Hàn Quốc được phổ biến rộng rãi thông qua các dịch vụ phát trực tuyến thường cung cấp phụ đề bằng nhiều ngôn ngữ. Nhiều bộ phim truyền hình Hàn Quốc đã được chuyển thể trên khắp thế giới và một số bộ phim đã có tác động lớn đến các quốc gia khác. Phim truyền hình Hàn Quốc đã thu hút sự chú ý về thời trang, phong cách và văn hóa của họ trên toàn thế giới. Việc sử dụng phương tiện truyền thông xã hội trong việc thúc đẩy quảng bá, phân phối và tiêu thụ các hình thức giải trí khác nhau của Hàn Quốc - cụ thể là K-pop - đã góp phần vào sự gia tăng phổ biến trên toàn thế giới kể từ giữa những thập niên 2000.[10][12]

Làn sóng Hàn Quốc đã trở thành một hiện tượng toàn cầu có ảnh hưởng từ đầu thế kỷ 21, tác động mạnh mẽ đến các nền văn hóa đương đại, ngành công nghiệp âm nhạc, ngành công nghiệp điện ảnh, ngành công nghiệp truyền hình và các khía cạnh hành vi của nhiều người trên khắp thế giới.[13][14][15][16][17]

Tổng quan

[sửa | sửa mã nguồn]

Thuật ngữ tiếng Hàn cho hiện tượng Làn sóng Hàn Quốc là Hanryu (Hangul: 한류), thường được viết theo tiếng Latinh là Hallyu. Thuật ngữ này được ghép từ hai từ gốc: han (한/韓) có nghĩa là "Hàn Quốc" và ryu (류/流) có nghĩa là "dòng chảy" hoặc "làn sóng",[18] và đề cập đến sự lan tỏa của văn hóa Hàn Quốc.

Thuật ngữ này đôi khi được áp dụng khác nhau bên ngoài Hàn Quốc; Ví dụ, ở nước ngoài, phim truyền hình Hallyu đề cập đến phim truyền hình Hàn Quốc nói chung, nhưng ở Hàn Quốc, phim truyền hình Hallyu và phim truyền hình Hàn Quốc được coi là những điều hơi khác nhau. Theo nhà nghiên cứu Jeongmee Kim, thuật ngữ Hallyu chỉ được dùng để chỉ những bộ phim truyền hình đã đạt được thành công ở nước ngoài, hoặc những diễn viên nổi tiếng được quốc tế công nhận.[19]

Kim chi bắp cải Hàn Quốc; một món ăn chính của Hàn Quốc.

Làn sóng Hàn Quốc bao trùm nhận thức toàn cầu về các khía cạnh khác nhau của văn hóa Hàn Quốc bao gồm phim điện ảnh và phim truyền hình (đặc biệt là "phim truyền hình"), K-pop, manhwa, tiếng Hàn và ẩm thực Hàn Quốc. Nhà khoa học chính trị người Mỹ Joseph Nye định nghĩa làn sóng Hàn Quốc là "sự phổ biến ngày càng tăng của tất cả mọi thứ đến từ Hàn Quốc, từ thời trang, phim ảnh đến âm nhạc và ẩm thực."[20]

Với việc BTS phá kỷ lục Guinness thế giới khi đạt hàng tỷ lượt xem trên YouTube và nhiều kỷ lục trên bảng xếp hạng âm nhạc cho đến Hybe Corporation (trước đây là Big Hit Entertainment) mua lại Ithaca Holdings của Scooter Braun vào năm 2021. Làn sóng Hàn Quốc hiện đang trở thành một cái tên quyền lực trong ngành công nghiệp giải trí toàn cầu và quyền lực mềm trên quốc tế. Đó là một trong số ít hiện tượng thành công từ châu Á có thể thâm nhập vào nền giải trí chính thống của Hoa Kỳ mà cho đến nay hầu như chỉ được thống trị bởi các thương hiệu nội địa, Anh và châu Âu. Theo một chuyên gia người Mỹ gốc Iran Afshin Molavi về rủi ro địa chính trị toàn cầu và địa kinh tế, nền văn hóa đại chúng toàn cầu từng bị phương Tây thống trị nay đã được toàn cầu hóa nhiều hơn.[21][22][23]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

2000–2009: Làn sóng Hàn Quốc ở châu Á

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong khoảng thời gian này, một số bộ phim truyền hình Hàn Quốc đã được phát sóng ở Trung Quốc. Vào ngày 19 tháng 11 năm 1999, một trong những tờ nhật báo do nhà nước quản lý của Trung Quốc, Beijing Youth Daily, đã đăng một bài báo thừa nhận "sự cuồng nhiệt của khán giả Trung Quốc đối với các bộ phim truyền hình và ca khúc nhạc pop Hàn Quốc".[24] Vào tháng 2 năm 2000, nhóm nhạc nam H.O.T của S.M. Entertainment trở thành nghệ sĩ K-pop đầu tiên biểu diễn ở nước ngoài, với một buổi biểu diễn cháy vé tại Bắc Kinh.[25] Khi khối lượng nhập khẩu văn hóa Hàn Quốc tăng nhanh, Tổng cục Quảng bá Phát thanh Truyền hình Quốc gia Trung Quốc đã phản ứng bằng quyết định hạn chế và hạn chế số lượng phim truyền hình Hàn Quốc được chiếu cho khán giả Trung Quốc.[26]

Cô nàng ngổ ngáo (2001) là một bước đột phá quốc tế lớn của phim Hàn Quốc. Nó đã trở thành một cú hit phòng vé khắp Đông Á và bản phát hành DVD của nó cũng thu hút một lượng lớn người theo dõi trên khắp Đông Nam Á và một số khu vực Nam Á. Nó cũng tạo ra một số bản làm lại trên quốc tế, bao gồm bản làm lại của Hollywood và một số bản làm lại của phim châu Á, cũng như các bản chuyển thể truyền hình và phần tiếp theo.[27][28]

Tuy nhiên, một số quốc gia khác ở châu Á cũng đang có sự gia tăng về mức độ phổ biến của các bộ phim truyền hình Hàn Quốc và các bài hát nhạc pop. Vào năm 2000, tại bang Manipur của Ấn Độ, nơi phim Bollywood bị cấm bởi những người ly khai, người tiêu dùng dần chuyển sự chú ý sang nền giải trí Hàn Quốc.[29] Theo Agence France-Presse, Các cụm từ tiếng Hàn thường được nghe thấy ở sân trường và chợ đường phố ở Manipur.[30] Nhiều bộ phim truyền hình và điện ảnh Hàn Quốc đã được nhập lậu vào Manipur từ nước láng giềng Burma, dưới dạng đĩa CD và DVD.[29] Sự phổ biến các sản phẩm của Hàn Quốc sau đó đã lan rộng ra các vùng khác của Đông Bắc Ấn Độ, bao gồm Assam, Meghalaya, Sikkim, Arunachal Pradesh, Tripura, Mizoram và Nagaland.[31]

Năm 2002, sau khi đảo ngược lệnh cấm vận kéo dài hàng thập kỷ đối với truyền thông giữa hai nước, album Listen to My Heart của BoA đã trở thành album đầu tiên của một nghệ sĩ Hàn Quốc bán được 1 triệu bản tại Nhật Bản.[32][33] Sau thành công này, các nghệ sĩ K-pop khác cũng mạo hiểm tham gia vào ngành công nghiệp âm nhạc Nhật Bản.

Vào ngày 8 tháng 6 năm 2001, album thứ tư Hey, Come On! của Shinhwa đã được phát hành thành công trên toàn châu Á. Nhóm trở nên đặc biệt nổi tiếng ở Trung Quốc và Đài Loan.

Năm 2002, Bản tình ca mùa đông (do kênh KBS2 của Hàn Quốc sản xuất) trở thành bộ phim truyền hình đầu tiên sánh ngang với thành công của bộ phim chuyển thể từ manga của Đài Loan là Vườn sao băng năm 2001. Bản tình ca mùa đông thu hút một lượng lớn người theo dõi ở châu Á và doanh thu bán hàng, bao gồm cả bộ DVD và tiểu thuyết, đã vượt qua 3,5 triệu USD ở Nhật Bản.[34] Bộ phim này đánh dấu sự xâm nhập ban đầu của Làn sóng Hàn Quốc tại Nhật Bản.[35][36][37][38][39] Năm 2004, cựu Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi lưu ý rằng nhân vật nam chính của bộ phim "nổi tiếng hơn cả tôi ở Nhật Bản".[40] Các bộ phim truyền hình Hàn Quốc khác được phát hành trong những năm sau đó như Nàng Dae Jang Geum (2003) và Ngôi nhà hạnh phúc (2004) cũng có mức độ thành công tương đương.[41]

Kể từ năm 2002, xu hướng chương trình truyền hình ở châu Á bắt đầu có những thay đổi khi các bộ phim của cả Hàn Quốc và Đài Loan bắt đầu lấp đầy các khung giờ vàng trước đây vốn dành cho phim Hollywood.[42]

Bước đột phá đối với K-pop đến với sự ra mắt của TVXQ (2003), SS501 (2005), Super Junior (2005), thành công ban đầu của Big Bang (2007–nay) và các nghệ sĩ khác được phóng viên BBC ca ngợi là "những cái tên quen thuộc ở phần lớn châu Á[43] Năm 2003, nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Baby V.O.X. đã phát hành một đĩa đơn tiếng Trung mang tên "I'm Still Loving You" và đứng đầu nhiều bảng xếp hạng âm nhạc khác nhau ở Trung Quốc, tạo nên một lượng fan khổng lồ ở đó. Cả "I'm Still Loving You" và đĩa đơn tiếng Hàn tiếp theo "What Should I Do" của họ cũng ra mắt trên bảng xếp hạng tại Thái Lan.

Các khía cạnh của văn hóa Hàn Quốc truyền thống và đương đại, theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái: Samsung Galaxy Tab; phụ nữ biểu diễn điệu múa truyền thống Taepyeongmu; Bibimbap, một món cơm Hàn Quốc; thần tượng K-pop Junsu; nhóm nhạc nam K-pop Super Junior; trẻ em trong trang phục truyền thống Hanbok.

Trong khi đó, sự phổ biến của truyền hình Hàn Quốc tiếp tục lan rộng khắp châu lục. Các báo cáo về những phụ nữ châu Á du lịch đến Hàn Quốc để tìm kiếm tình yêu lấy cảm hứng từ các bộ phim tình cảm Hàn Quốc bắt đầu xuất hiện trên các phương tiện truyền thông, bao gồm cả tờ Washington Post.[44]

Ở Nepal, Bhutan và Sri Lanka, phim truyền hình Hàn Quốc bắt đầu tăng thời lượng phát sóng trên các kênh truyền hình ở những quốc gia này với Bản tình ca mùa đôngNgôi nhà hạnh phúc được cho là đã khơi dậy sự quan tâm đến văn hóa đại chúng Hàn Quốc ở những quốc gia này. Thời trang và kiểu tóc Hàn Quốc đã trở thành mốt trong giới trẻ ở Nepal và dẫn đến sự bùng nổ các khóa học tiếng Hàn ở đất nước này và kéo dài cho đến ngày nay. Ẩm thực Hàn Quốc đã trải qua một đợt phổ biến rộng rãi ở Nepal với nhiều quán ăn Hàn Quốc mở cửa ở nước này trong suốt từ đầu đến giữa những năm 2000. Tương tự, ẩm thực Hàn Quốc cũng trở nên phổ biến ở Sri Lanka và Bhutan với các nhà hàng Hàn Quốc mở ra để đáp ứng nhu cầu ở các nước này.[45][46][47][48]

Vào cuối những năm 2000, nhiều nghệ sĩ Đài Loan đã bị thay thế bởi các đối thủ K-pop của họ và mặc dù một số ít nhóm như F4 và Phi Luân Hải vẫn tiếp tục duy trì một lượng người hâm mộ tuy nhỏ nhưng trung thành ở châu Á.

2010–nay: Làn sóng Hàn Quốc trên toàn cầu

[sửa | sửa mã nguồn]
Các bài hát K-pop được tập đoàn LG của Hàn Quốc phát tại triển lãm thương mại IFA ở Đức vào năm 2011.

Tại Hoa Kỳ, văn hóa Hàn Quốc đã lan rộng ra bên ngoài từ các cộng đồng người Mỹ gốc Hàn, đặc biệt là những người ở Los Angeles và thành phố New York.[49] Nhìn chung, sự tiếp nhận văn hóa Hàn Quốc ở Hoa Kỳ khá ấm áp so với ở châu Á; Mnet Media nói rằng nỗ lực của các nhân viên của họ để giới thiệu hơn 300 video âm nhạc K-pop cho các nhà sản xuất và hãng thu âm Hoa Kỳ đã không thành công, vì có "mối quan hệ nên họ sẽ lịch sự, nhưng đó không phải là một cuộc trò chuyện nghiêm túc". Các nghệ sĩ như BoA và Se7en đã cố gắng ra mắt tại Hoa Kỳ không đạt được thành công, được một phóng viên CNN gọi là "thất bại hoàn toàn"[50]

Psy biểu diễn "Gangnam Style" tại Sydney, Australia vào năm 2013.

Điều đó nói lên rằng, các sản phẩm văn hóa Hàn Quốc (bộ phim như Truyền thuyết Jumong được khán giả trong thế giới Hồi giáo đặc biệt đón nhận) ngày càng phổ biến, với lượng người hâm mộ toàn cầu chuyên dụng và ngày càng tăng,[51][52][53][54] đặc biệt sau khi video âm nhạc của Psy cho "Gangnam Style" lan truyền vào năm 2012–13 và là video YouTube đầu tiên đạt hơn 1 tỷ lượt xem.[55] YouTube đã là một nền tảng quan trọng trong sự phổ biến ngày càng tăng trên toàn cầu của K-pop, vượt qua sự miễn cưỡng của các DJ radio trong việc phát các bài hát tiếng nước ngoài trong việc tiếp cận khán giả toàn cầu.[56] KCON, ban đầu là một sự kiện kéo dài 1 ngày dành riêng cho người hâm mộ K-pop ở Irvine, California vào năm 2012, hiện đã mở rộng sang 8 quốc gia kéo dài trong nhiều ngày và nhiều địa điểm.[57][58]

Người hâm mộ K-pop bên ngoài Korean Cultural Centre ở Warsaw giơ cao lá cờ Hàn Quốc-Ba Lan, cũng như các biểu ngữ cho các nhóm nhạc nam Hàn Quốc MBLAQ, B1A4 và 2PM vào năm 2011.

Làn sóng Hàn Quốc đã phát triển thành ngoại giao đối ngoại của Hàn Quốc, được sử dụng như một phương tiện để quảng bá văn hóa Hàn Quốc ra nước ngoài.[59] Cựu Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye dự định phân bổ ít nhất 2 phần trăm ngân sách quốc gia để phát triển hơn nữa ngành công nghiệp văn hóa của Hàn Quốc và tìm kiếm nhiều trao đổi văn hóa hơn với Hàn Quốc.[60] Ẩm thực và các sản phẩm mỹ phẩm là hai trong số những nét đặc trưng dễ nhận biết nhất của văn hóa Hàn Quốc ở nước ngoài.[61][62][63] Trong số các công ty làm đẹp lớn nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương có Amorepacific và LG Household & Health Care.[64] Sự bùng nổ văn hóa cũng đã thúc đẩy tăng trưởng du lịch, Hàn Quốc đón hơn 12 triệu du khách vào năm 2013, với 6 triệu khách du lịch riêng từ Trung Quốc.[65]

Các sản phẩm chăm sóc da của Hàn Quốc đã trở nên phổ biến rộng rãi ở châu Á. Amorepacific và LG Household & Health Care đã trở thành hai công ty làm đẹp hàng đầu ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.[64] Trung Quốc đã trở thành thị trường tiêu thụ mỹ phẩm Hàn Quốc lớn nhất và chiếm 25% lượng mỹ phẩm nhập khẩu của Trung Quốc.[66] Tại Sri Lanka, các sản phẩm làm đẹp của châu Âu đã được thay thế phần lớn bằng các sản phẩm chăm sóc da và mỹ phẩm Hàn Quốc vốn đã trở nên phổ biến vì giá rẻ hơn và phù hợp với làn da người châu Á.[67] Tương tự, các sản phẩm của Hàn Quốc đã trở nên phổ biến ở Singapore vì chúng đáp ứng được mối quan tâm của người châu Á và chúng được thiết kế cho người châu Á.[68] Sự phổ biến của K-pop ở Campuchia cũng dẫn đến việc các sản phẩm làm đẹp của Hàn Quốc tràn vào thị trường Campuchia.[69] Các sản phẩm mỹ phẩm và chăm sóc da của Hàn Quốc cũng trở nên phổ biến ở Thái Lan,[70] Malaysia,[71] và Nhật Bản[72] cùng các quốc gia khác. Các vấn đề chính trị gần đây giữa Hàn Quốc và Trung Quốc đã khiến Amorepacific phải tìm kiếm nơi khác và cải tiến các sản phẩm của mình để nhắm mục tiêu cụ thể đến phụ nữ Hồi giáo và da sẫm màu ở Đông Nam Á.[73] Vào năm 2017, Innisfree đã phát hành một loạt các loại cushion có tông màu tối hơn để phù hợp với tông màu da của phụ nữ Đông Nam Á.[74]

K-drama và K-pop đã nâng cao nhận thức về các sản phẩm và thương hiệu làm đẹp của Hàn Quốc, điều này làm tăng nhu cầu của phụ nữ Ấn Độ, dẫn đến việc mở nhiều cửa hàng thương mại điện tử chuyên biệt. Tính đến năm 2020, các nhãn hàng tiêu dùng Hàn Quốc đang có nhu cầu cao ở Ấn Độ, từ thực phẩm đến mỹ phẩm và đồ chơi ngoài đồ điện tử gia dụng.[75][76] Các dịch vụ phát trực tuyến âm nhạc của Ấn Độ như Gaana và JioSaavn khẳng định nhu cầu ngày càng tăng đối với K-pop. Theo dữ liệu phát trực tuyến của người dùng Spotify, BTS là một trong 5 nghệ sĩ hàng đầu ở Ấn Độ có lượng người hâm mộ K-pop đang tăng lên, chiếm 22% người nghe hàng đầu trên toàn cầu. Trong tất cả các thể loại, K-pop có 25% thị phần cho hạng mục nghệ sĩ mới được phát hiện trong nhóm người nghe từ 18 đến 24 tuổi. Nhu cầu về K-pop dẫn đến việc Spotify quảng cáo nhiều nghệ sĩ K-pop đa dạng trong chiến dịch Fête de la Musique năm 2020 ngoài những người nổi tiếng như BTS.[77][78][79][80]

Hallyu 3.0

[sửa | sửa mã nguồn]

Hallyu 3.0 đề cập đến "thế hệ thứ ba" của làn sóng Hàn Quốc, bắt đầu từ giữa thập niên năm 2010.[81] Trong những năm gần đây, tác động và nội dung liên quan đến Hallyu đã phát triển trên một số nền tảng ở nhiều quốc gia hơn so với các thời đại trước đó và với tác động lớn hơn đến văn hóa và xã hội. Sự nổi lên và lan rộng của các nhóm nhạc K-pop như BTS và nội dung mới trên YouTube như video mukbang (먹방; meokbang) đã trở thành đặc trưng của Hallyu 3.0. Sự hợp tác phát triển mạnh mẽ với các nghệ sĩ âm nhạc và sản xuất phương tiện truyền thông quốc tế với các hãng phim nước ngoài như Netflix cũng đã tạo điều kiện cho sự gia tăng mới trong tiêu thụ phương tiện truyền thông toàn cầu của Hàn Quốc.[82] Sự phát triển của phương tiện truyền thông xã hội cũng đã phát triển theo những cách khác với những năm trước.[81] Sự mở rộng lớn của các danh mục khác nhau trên YouTube và các nội dung truyền thông xã hội khác đã làm tăng sự thâm nhập ngày càng nhiều của Hàn Quốc vào các nhóm nhân khẩu học. K-beauty, hay còn gọi là chăm sóc da và trang điểm Hàn Quốc, đã trở thành một phần lớn của thị trường toàn cầu nhờ sự gia tăng của những người có ảnh hưởng đến sắc đẹp trên mạng xã hội và mức độ phổ biến cao hơn của các bộ phim truyền hình Hàn Quốc.[83] Netflix bắt đầu có thêm nhiều trường quay ở Hàn Quốc do nhu cầu ngày càng tăng trên toàn cầu với con số đầu tư đạt 700 triệu USD từ năm 2015 đến năm 2020. Số lượt xem cao hơn chủ yếu đến từ Canada, Pháp, Đức, Hồng Kông, Ấn Độ, Nhật Bản, Malaysia, Philippines, Qatar, Singapore, Đài Loan, Thái Lan, các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Hoa Kỳ cho các bản gốc Netflix được sản xuất tại Hàn Quốc.[84]

K-pop trong Hallyu 3.0

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhạc pop Hàn Quốc ngày càng phổ biến ở nhiều quốc gia hơn bao giờ hết.[85] Psy, người biểu diễn "Gangnam Style" có tầm ảnh hưởng, đã thành công rực rỡ trong Hallyu 2.0, nhưng không nhận được nhiều sự chú ý trên toàn cầu như các nhóm nhạc thần tượng như BTS đã có trong những năm gần đây. BTS và các nhóm nhạc khác đã đạt được thành công bền vững trên toàn cầu, với các chuyến lưu diễn thế giới và xuất hiện tại Billboard Music Awards và các sự kiện nước ngoài khác.[81] Sự nổi lên gần đây của K-pop đã mở ra ngày càng nhiều sự hợp tác âm nhạc với các nghệ sĩ nước ngoài, cả người Hàn Quốc và người không phải người Hàn Quốc. Năm 2014, Psy đã phát hành một bài hát với Snoop Dogg.[85] Các nghệ sĩ và nhóm nhạc K-pop khác cũng đã bắt đầu hợp tác nhiều hơn, đặc biệt là với các nghệ sĩ Mỹ Latinh và Tây Ban Nha. Những chiến thuật này đã mang lại nhiều thành công, nhưng sự gia tăng của các hợp tác nước ngoài cho thấy sự hiện diện trên quy mô lớn của văn hóa Hàn Quốc chưa từng thấy trước đây.

Vấn đề

[sửa | sửa mã nguồn]

Có thể nói, hơn 10 năm trở lại đây, Hàn Quốc đã trở thành 1 trong những nước xuất khẩu giải trí văn hóa nổi tiếng nhất Châu Á, sản sinh ra hàng loạt ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, truyền hình… khuấy đảo thị trường giải trí châu Á, với lượng fan khổng lồ ở khắp Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á,... Mặc dù khác biệt về ngôn ngữ, nhưng nhiều nét phong tục tập quán tương đồng trong xã hội phương Đông, làm giảm rào cản văn hóa giúp cho các bộ phim Hàn Quốc dễ dàng được chấp nhận, thưởng thức và yêu thích tại các quốc gia trong khu vực.[86]

Tuy nhiên cũng có nhiều dấu hiệu cho thấy, làn sóng Hàn Quốc có suy thoái, những siêu sao Hàn Quốc không còn sức hấp dẫn tuyệt đối với người hâm mộ. Tại Trung Quốc, tỷ lệ phần trăm những người hài lòng với những bộ phim truyền hình Hàn Quốc đã giảm từ 72% năm 2004 xuống 63,3% năm 2006. Tại Đài Loan, mức độ giảm sút là từ 62% xuống 57,9%. Sự không thỏa mãn tăng từ 5% đến 5,4% tại Trung Quốc và từ 1% đến 3% tại Đài Loan. Tại Nhật Bản, tỷ lệ những người hài lòng với phim nhựa Hàn giảm từ 60 xuống 54,6%, tại Trung Quốc giảm từ 75% xuống 59,7%, tại Đài Loan giảm từ 49% xuống 42,1%.[87]

Một khảo sát cho thấy cứ 6 trong 10 người nước ngoài tin rằng xu hướng yêu thích văn hóa Hàn như K-pop, phim điện ảnh, phim truyền hình và những vở nhạc kịch opera sẽ giảm trong vài năm tới. 20,5% số người được hỏi cho hay, họ đã "mệt mỏi vì nội dung được tiêu chuẩn hóa". Phim truyền hình chỉ quanh quẩn các chủ đề như ngoại tình, trả thù, bí mật về thân thế hay danh tính của nhân vật, khiến cho việc gây chú ý với khán giả ngày càng khó khăn hơn. Các khán giả đã bội thực với những màn trình diễn khoe vũ đạo, hình thể sexy trong khi giọng hát quá yếu, dòng nhạc thị trường dễ nghe dễ chán.[88]

Ngày nay, Hallyu cũng có một vấn đề khá là rối rắm. Người ta gọi tắt với câu nói "Con cưng quốc tế, con ghẻ quốc dân".

Quan hệ đối ngoại

[sửa | sửa mã nguồn]

Bên cạnh việc gia tăng sản lượng xuất khẩu, làn sóng Hàn Quốc còn được chính phủ nước này tận dụng như một công cụ thúc đẩy quyền lực mềm nhằm thu hút số đông người trẻ trên toàn thế giới,[89] cũng như làm giảm thiểu tâm lý bài Hàn.[90]

Trong thế kỷ 21, văn hóa là sức mạnh... Cùng với nhân dân Hàn Quốc, chúng ta sẽ cổ vũ một sự phục hưng văn hóa mới hay một nền văn hóa vượt qua mọi rào cản dân tộc và ngôn ngữ, vượt qua mọi ý thức hệ và phong tục tập quán, đóng góp cho sự phát triển hòa bình của nhân loại và được kết nối với nhau bằng khả năng san sẻ niềm hạnh phúc..

— Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye[91]

Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Quỹ giao lưu công nghiệp văn hóa Hàn Quốc công bố kết quả nghiên cứu dựa trên các chỉ số đánh giá mức độ hâm mộ của công chúng đối với Làn sóng Hàn Quốc tại các nước châu Á. Theo đó, Việt Nam xếp thứ 4 về mức độ yêu thích Làn sóng Hàn Quốc.[92] Thời điểm HTV phát sóng bộ phim Anh em nhà bác sĩ (1998) có thể coi là mốc mở đầu cho Hallyu ở Việt Nam. Sức hút ấy đến từ lòng trắc ẩn, sự lý tưởng hóa, sức trẻ, sự chung thủy, sự khác biệt và độc đáo. Hallyu đã thâm nhập vào năng lực thấu cảm văn hóa của giới trẻ để rồi ảnh hưởng đến sở thích và nhu cầu của họ trong cuộc sống bởi sự phức hợp của ba yếu tố: tiêu dùng - giải trí - truyền thông.[93] Ngoài ra, ở Đông Á, ngoài Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo trầm trọng nhất. Cách suy nghĩ và nếp sinh hoạt của hai dân tộc khá gần nhau. Văn hóa trong phim Hàn Quốc rất gần gũi với văn hóa Việt Nam; đó là tôn ti trật tự, truyền thống vâng lệnh bề trên,...[94]

Tuy nhiên khi tiếp nhận trào lưu Hàn Quốc trong lĩnh vực giải trí (ca nhạc, phim ảnh...) có nhiều ý kiến khác nhau về đồng tình, ủng hộ cũng như không đồng tình, ủng hộ trào lưu này.

Ủng hộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số ý kiến đồng tình thường từ giới trẻ cho rằng trào lưu Hàn Quốc mà biểu hiện là K-pop chính là một sân chơi lành mạnh cho thanh thiếu niên độ tuổi trẻ, họ chỉ tìm những thông tin chính thống về thần tượng của mình, giảm bớt sự tò mò về những thứ không phù hợp lứa tuổi, chia sẻ với nhau những bài hát hay, những điệu nhảy đẹp, khuyến khích nhau luyện tập, khuyến khích nhau tự tin, tóm lại là hoàn toàn lành mạnh.[95]

Cũng theo những đối tượng này thì vì họ còn trẻ nên dĩ nhiên thích những gì sôi động và bắt mắt, và đến khi thực sự trưởng thành, họ sẽ tự biết cư xử như thế nào cho phù hợp mà không cần phải có sự áp đặt của các bậc bố mẹ vì họ quá khác về cách suy nghĩ, lối sống.[96]

Một số bậc cha mẹ vì quá thương và chiều con cái của mình nên cũng chiều theo sở thích của con cái, tiếp tay cho con cái ủng hộ trao lưu này như cố gắng đáp ứng yêu cầu của con cái mình, đi tìm hiểu thông tin khắp nơi để tìm được tấm vé xem ca nhạc cho con, nhưng họ cũng không khỏi thực sự lo lắng vì sự ngưỡng mộ điên cuồng đến lệch lạc về các thần tượng là các ngôi sao, ban nhạc Hàn Quốc.[97]

Không đồng tình

[sửa | sửa mã nguồn]

Bên cạnh xu hướng hâm mộ Làn sóng Hàn Quốc thì vẫn có những ý kiến bày tỏ sự lo lắng thậm chí là đề xuất cấm đoán đối với hiện tường này vì sự lan tỏa và ảnh hưởng của làn sóng này ở Việt Nam đang khiến cho thị trường giải trí Việt trở nên yếu thế, và có nguy cơ người Việt trẻ bỏ qua thuần phong mỹ tục và quan điểm thế nào là thuần phong mỹ tục có lẽ nên thay đổi.[98]

Theo VNExpress, một số phụ huynh khác kêu gọi cần ngăn chặn vì những tác động của Làn sóng Hàn Quốc đối với giới trẻ Việt xuất hiện một số tiêu cực như một bộ phận lớn học sinh từ lớp 6 đến lớp 12 chăm chỉ online cập nhật tin tức ban nhạc Hàn, lập hội anti fan... học thuộc tiểu sử ca sĩ, diễn viên Hàn còn hơn nhớ bài học ở trường, tiêu tốn hàng mấy trăm ngàn hoặc hơn cho những đĩa nhạc, ly tách, poster có hình thần tượng, hay thậm chí hàng triệu đồng để đi xem show ca nhạc. Thời gian, tâm sức họ dành trọn cho video clip, phim ảnh, họp fan club, bàn luận, tranh cãi thần tượng, làm biến một thứ giải trí bình thường thành mối bận tâm, si mê, cuồng tín. Thời gian, hiệu quả học tập giảm sút do không đầu tư, kết quả học tập kém, nguy cơ bỏ học... Một số ý kiến cho rằng những phụ huynh nên chấn chỉnh con em mình nhằm hạn chế làn sóng Kpop phát triển tại Việt Nam.[99]

Ý kiến của chuyên gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo nhà văn Nhật Chiêu thì bản chất của Làn sóng Văn hóa Hàn Quốc chỉ là thứ văn hóa bình dân, vì thực tế, những tác phẩm văn học đỉnh cao Hàn Quốc chưa phổ cập đến Việt Nam. Những người mê Hàn lưu ở Việt Nam đa phần không biết gì về tinh hoa văn hóa Hàn Quốc. Người ta biết tên những ngôi sao ca nhạc, diễn viên truyền hình, say mê nghe nhạc Kpop, nhuộm tóc theo mốt Hàn, dùng mỹ phẩm Hàn... cho nên cái gọi là Hàn lưu thực chất không phải là tinh hoa văn hóa. Các ngôi sao K-pop không tiêu biểu cho văn hóa Hàn. Họ giống hệt các thần tượng ca nhạc phương Tây về phong cách, trang phục, vũ đạo,...nhưng vì Hàn Quốc là quốc gia mới nổi gần đây, chưa đủ thời gian để có thể xuất khẩu tinh hoa có hiệu quả và việc quảng bá tinh hoa khó hơn quảng bá những loại hình đại chúng.[94]

Nhạc Hàn lời Việt

[sửa | sửa mã nguồn]

Thập niên 2000

Làn sóng Hàn Quốc lan tỏa ra khắp châu Á từ đầu thế kỷ 21, bắt đầu với những bộ phim truyền hình tâm lý tình cảm dành cho các bà nội trợ trung niên, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền giải trí Việt Nam.[100] Nhiều ca sĩ V-pop lúc bấy giờ đã hát lại hoặc phối lại nhạc Hàn bằng tiếng Việt, trong đó có cả những ca khúc nhạc phim đình đám:[101]

STT Tên bài hát gốc (romaja) Tên tiếng Anh Nghệ sĩ thể hiện Năm phát hành Tên bài hát phiên bản Việt Nam
1 Forever - Nhạc phim Mối tình đầu Stratovarius 1996 Nhạc Phần Lan
2 너 (Nuh) You Lee Jung Hyun 2000 Khúc Xuân Tình - Bảo Hân
3 Run To You DJ Doc 2000 Khóc Cho Yêu Thương - Thanh Thảo
4 사랑해 (Saranghae) I Love You Jewelry 2001 Em Thích Anh - H.A.T
5 A Better Day - Hát lại từ nhạc Na Uy jtL 2001
  • Ngày Tươi Sáng (A Better Day) (2003) - Ngô Thanh Vân ft. Okio
  • Con Tim Tình Yêu - Thanh Thảo ft. Tiến Đạt
  • Mãi Mãi Bên Em - Phong Đạt ft. nhóm OXY
6 No.1 BoA 2002 Tình yêu mãi xanh - Nhóm Mây Trắng
7 처음부터 지금까지 (Cheoeumbuteo Jigeumkkaji) - Nhạc phim Bản tình ca mùa đông From the Beginning Till Now Park Yong-ha 2002 Bản Tình Ca Mùa Đông - Tuấn Hưng
8 달아달아 (Dara Dara) Run Away Lee Jung Hyun 2002 Bí Ẩn Vầng Trăng - Ngô Thanh Vân
9 나 같은건 없는 건가요 (Na Gateungeon Eopsneun Geongayo) Don't Go Away Chu Ga-yeoul 2002
  • Chỉ Là Giấc Mơ Qua - Lưu Bích
  • Khúc Vĩ Cầm Xưa - Don Hồ
10 The Best Kim Yoo-jin (Eugene) 2003 Bến Bờ Xanh (2004)[102] - Nhóm The Bells
11 10 Minutes Lee Hyori 2003 10 Minutes (2006) - Bảo Thy
12 Y (Please Tell Me Why) Free Style 2004 Please Tell Me Why (2006) - Bảo Thy ft. Vương Khang
13 보고 싶다 (Bogo Shipda) - Nhạc phim Nấc thang lên thiên đường I Miss You Kim Bum Soo 2004 Nấc Thang Lên Thiên Đường - Bằng Kiều
14 끝사랑 (Kkeut Sarang) Last Love Kim Bum Soo 2005 Tình Cuối - Khánh Du
15 Never Say Goodbye - Nhạc phim Cô em họ bất đắc dĩ Park So-bin, Mario, Song Bo-ram, Go Eun-ju 2005 Never Say Goodbye (2008) - Thanh Thảo ft. Lil' Knight
16 다소 (Daso) MayBee 2006 Em Vẫn Tin - Hồ Lệ Thu

Từ 2008-nay

Từ quãng năm 2008 với những bản hit K-pop như "Nobody" (Wonder Girls), "Haru Haru" (Big Bang) hay "Mirotic" (TVXQ),[103] và đặc biệt là từ khi bộ phim truyền hình thần tượng "Boys Over Flowers" lên sóng vào năm 2009 đã tạo nên cơn sốt hâm mộ cuồng nhiệt trên toàn châu Á, giúp cho Làn sóng Hàn Quốc hồi sinh theo hướng trẻ trung hóa, năng động hóa. Cũng từ năm 2009 là sự bùng nổ của dòng nhạc K-pop và sự ra đời của hàng loạt nhóm nhạc thần tượng Hàn Quốc mới.[104] Nhiều ca khúc đình đám đã được hát lại hay phối lại bằng tiếng Việt như:

STT Tên bài hát gốc (romaja) Tên tiếng Anh Nghệ sĩ thể hiện Năm phát hành Tên bài hát phiên bản Việt Nam
1 Missing You F.T. Island 2009 Anh Nhớ Em - Thái Triệu Luân
2 Sorry, Sorry Super Junior 2009 Cơ Hội Yêu - Kio Band
3 내 머리가 나빠서 (Nae Meoliga Nappaseo) - Nhạc phim Boys Over Flowers Because I'm Stupid SS501 2009
  • Vì tôi là chàng ngốc - Minh Quân
  • Chàng Khờ Đáng Yêu - Khánh Phương
  • Mất Em (2009) - Noo Phước Thịnh
4 Stand By Me - Nhạc phim Boys Over Flowers Shinee 2009 Gần Bên Anh - Noo Phước Thịnh
5 Nobody Wonder Girls 2009
  • Nobody - Nhóm Mây Trắng
  • Không Yêu Lần Nữa - Vĩnh Thuyên Kim
  • Rắc Rối Tình Yêu - Vũ Hà
6 So Hot Wonder Girls 2009 Khóc Khi Người Đi - Nhóm Mây Trắng
7 Aha Kara 2010 Hey Boy - Khởi My
8 바래 (Ba Rae) I Hope FT Island 2010 Nguyện Ước - Khánh Phương
9 Fiction Beast 2011
  • Thả Gió - Lil'S
  • Thả Gió - Như Hexi
10 환청 (Hwan cheong) - Nhạc phim Kill Me, Heal Me Auditory Hallucination Jang Jae-in ft. Na Show 2011 Trách Ai Bây Giờ? - Đông Nhi
11 Western Sky Lee Seung Chul 2012 Khoảng Trời Không Có Em - Tăng Phúc
12 라라라 (La La La) La La La Suki (숙희) 2012 Ngày Hạnh Phúc - Bằng Cường
13 죽을만큼 아파서 (Jukeulmangeum Appaseo) Sick Enough To Die MC Mong ft. Mellow 2012
  • Điều Buồn Tênh - Quang Vinh
  • Vệt Nắng - Lân Nhã
  • Buồn Không Thể Buông - Phí Phương Anh, RIN9, MiiNa
14 배드 걸스 (Baedu Geolseu) Bad Girls Lee Hyori 2013 Leave Me Alone - Bảo Anh ft. Đông Nhi
15 Give Love AKMU 2014 Màu Mắt Em - Jack

Thụy Điển

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhờ có Internet, âm nhạc và phim ảnh Hàn Quốc đang thu hút một lượng fan đáng kể ở Thụy Điển và có tiềm năng lớn tạo ra Làn sóng Hàn Quốc. Theo một số báo cáo của đại sứ quán Hàn Quốc ở Thụy Điển, làn sóng Hàn Quốc đang ngày càng phổ biến trong giới học sinh, sinh viên Thụy Điển - những người rất quan tâm đến văn hóa Pop của Hàn Quốc. Các fan Thụy Điển xem phim truyền hình Hàn Quốc với phụ đề tiếng Anh và nghe nhạc Hàn thông qua các trang web online như YouTube.[105]

Nhật Bản

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Nhật Bản từng có những cuộc biểu tình chống lại Làn sóng Hàn Quốc. Cứ vào mỗi chủ nhật, khoảng 10.000 người lại tập trung tại công viên Odaiba, người cầm quốc kỳ, người vẽ biểu tượng trên mặt và phản đối Lãnh đạo đài truyền hình Fuji TV của Nhật Bản đã chiếu nhiều bộ phim, chương trình ca nhạc từ Hàn Quốc với các khẩu hiệu như: "Fuji TV hãy chấm dứt lan truyền làn sóng Hàn Quốc, chúng tôi không muốn xem phim Hàn Quốc nữa..."[106]

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cổng thông tin K-pop
  • Danh sách quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa tiêu biểu:
    • Mỹ hóa
    • Làn sóng Hoa ngữ (bao gồm cả Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan)
    • Làn sóng Đài Loan

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Farrar, Lara (ngày 31 tháng 12 năm 2010). “'Korean Wave' of pop culture sweeps across Asia”. CNN. Turner Broadcasting System, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2010.
  2. ^ Ravina, Mark (2009). “Introduction: Conceptualizing the Korean Wave”. Southeast Review of Asian Studies.
  3. ^ Kim, Ju Young (2007). “Rethinking media flow under globalisation: rising Korean wave and Korean TV and film policy since 1980s”. University of Warwick Publications.
  4. ^ Yoon, Lina. (2010-08-26) K-Pop Online: Korean Stars Go Global with Social Media Lưu trữ 2012-09-07 tại Wayback Machine. Time. Truy cập 2011-02-20.
  5. ^ James Russell, Mark. “The Gangnam Phenom”. Foreign Policy. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2012. First taking off in China and Southeast Asia in the late 1990s, but really spiking after 2002, Korean TV dramas and pop music have since moved to the Middle East and Eastern Europe, and now even parts of South America.
  6. ^ “South Korea's K-pop spreads to Latin America”. Agence France-Presse. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2013.
  7. ^ Brown, August (ngày 29 tháng 4 năm 2012). “K-pop enters American pop consciousness”. The Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2013. The fan scene in America has been largely centered on major immigrant hubs like Los Angeles and New York, where Girls' Generation sold out Madison Square Garden with a crop of rising K-pop acts including BoA and Super Junior.
  8. ^ “South Korea pushes its pop culture abroad”. BBC. ngày 8 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2012.
  9. ^ South Korea's soft power: Soap, sparkle and pop Lưu trữ 2017-08-29 tại Wayback Machine The Economist (ngày 9 tháng 8 năm 2014). Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2014.
  10. ^ a b Melissa Leong (ngày 2 tháng 8 năm 2014). “How Korea became the world's coolest brand”. Financial Post. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2015.
  11. ^ Kuwahara, edited by Yasue (2014). The Korean wave: Korean popular culture in global context. Basingstoke: Palgrave Macmillan. ISBN 978-1-137-35028-2.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  12. ^ Kwak, Donnie. “PSY's 'Gangnam Style': The Billboard Cover Story”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2012. The Korean music industry grossed nearly $3.4 billion in the first half of 2012, according to Billboard estimates, a 27.8% increase from the same period last year.
  13. ^ Yong Jin, Dal (2011). “Hallyu 2.0: The New Korean Wave in the Creative Industry”. International Institute Journal. 2 (1). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2017.
  14. ^ Farrar, Lara. “'Korean Wave' of pop culture sweeps across Asia” (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2011.
  15. ^ “The Global Impact of South Korean Popular Culture: Hallyu Unbound ed. by Valentina Marinescu”. ResearchGate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2017.
  16. ^ Kim, Harry (ngày 2 tháng 2 năm 2016). “Surfing the Korean Wave: How K-pop is taking over the world | The McGill Tribune”. The McGill Tribune. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2017.
  17. ^ “Korean Wave as Cultural Imperialism” (PDF). Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  18. ^ “Korean Wave as Cultural Imperialism” (PDF). Leiden University/MA Thesis Asian Studies (60 EC). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2018. Hallyu was derived from the two Korean words 'Han' for 'Korean' and 'Ryu' for 'wave,' bringing about the present-day name for Korean Wave, a global phenomena about the popularity of Korean dramas.
  19. ^ Kim, J. (2014). Reading Asian Television Drama: Crossing Borders and Breaking Boundaries. London: IB Tauris. ISBN 9781845118600.
  20. ^ Nye, Joseph. “South Korea's Growing Soft Power”. Harvard University. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2013. Indeed, the late 1990s saw the rise of "Hallyu", or "the Korean Wave" – the growing popularity of all things Korean, from fashion and film to music and cuisine.
  21. ^ Molavi, Afshin (ngày 19 tháng 4 năm 2021). “How BTS and K-Pop explain the world”. Dhaka Tribune. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  22. ^ Mane, Anwaya (ngày 19 tháng 4 năm 2021). “BTS' Dynamite is on a record breaking spree; Breaks two more Guinness World records”. PINKVILLA (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  23. ^ Lee, Joyce (ngày 2 tháng 4 năm 2021). “BTS manager HYBE acquires Scooter Braun's Ithaca Holdings for $1.05 bln”. Reuters (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  24. ^ Kim, Ji-myung. “Serious turn for 'hallyu 3.0'”. The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2013.
  25. ^ Kim, Hyung-eun. “Hallyu bridges gap, but rift with China remains”. JoongAng Ilbo. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2013.
  26. ^ When the Korean wave ripples Lưu trữ 2007-06-14 tại Wayback Machine, International Institute for Asian Studies
  27. ^ Kuwahara, Y. (2014). The Korean Wave: Korean Popular Culture in Global Context. Springer. tr. 86. ISBN 978-1137350282. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2019.
  28. ^ “K-Wave”. Nepali Times. ngày 3 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2019.
  29. ^ a b “A little corner of Korea in India”. BBC. ngày 17 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2012.
  30. ^ Kember, Findlay. “Remote Indian state hooked on Korean pop culture”. Agence France-Presse. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2013.
  31. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2017.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  32. ^ “List of million sellers in 2002” (bằng tiếng Nhật). RIAJ. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2008.
  33. ^ Poole, Robert Michael (ngày 20 tháng 3 năm 2009). “No constrictions on BoA's ambitions”. The Japan Times Online (bằng tiếng Anh). ISSN 0447-5763. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2017.
  34. ^ Lee, Claire. “Remembering 'Winter Sonata,' the start of hallyu”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2012.
  35. ^ Chua, Beng Huat; Iwabuchi, Koichi (2008). East Asian Pop Culture: Analysing the Korean Wave (bằng tiếng Anh). Hong Kong University Press. ISBN 978-9622098923. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2020.
  36. ^ “The Korean Wave (Hallyu) in East Asia: A Comparison of Chinese, Japanese, and Taiwanese Audiences Who Watch Korean TV Dramas”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  37. ^ “A Study of Japanese Consumers of the Korean Wave” (PDF). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  38. ^ Han, Hee-Joo; Lee, Jae-Sub (ngày 1 tháng 6 năm 2008). “A Study on the KBS TV Drama Winter Sonata and its Impact on Korea's Hallyu Tourism Development”. Journal of Travel & Tourism Marketing. 24 (2–3): 115–26. doi:10.1080/10548400802092593. ISSN 1054-8408. S2CID 154926778.
  39. ^ Hanaki, Toru; Singhal, Arvind; Han, Min Wha; Kim, Do Kyun; Chitnis, Ketan (ngày 1 tháng 6 năm 2007). “Hanryu Sweeps East Asia How Winter Sonata is Gripping Japan”. International Communication Gazette (bằng tiếng Anh). 69 (3): 281–94. CiteSeerX 10.1.1.453.3000. doi:10.1177/1748048507076581. ISSN 1748-0485. S2CID 144981072.
  40. ^ Lee, Claire. “Remembering 'Winter Sonata,' the start of hallyu”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2012. The show's popularity in Japan was surprising to many, including the producer Yoon Suk-ho and then-Japanese Prime Minister Junichiro Koizumi, who in 2004 famously said, "Bae Yong-joon is more popular than I am in Japan."
  41. ^ Lee (이), Hang-soo (항수). “홍콩인들 "이영애·송혜교 가장 좋아"”. Chosun Ilbo (in Korean). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2013.
  42. ^ Celdran, David. “It's Hip to Be Asian”. Philippine Center for Investigative Journalism. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2013.
  43. ^ Williamson, Lucy (ngày 26 tháng 4 năm 2011). “South Korea's K-pop craze lures fans and makes profits”. BBC. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2013.
  44. ^ Faiola, Anthony (ngày 31 tháng 8 năm 2006). “Japanese Women Catch the 'Korean Wave'”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2013. There's only one more thing this single Japanese woman says she needs to find eternal bliss – a Korean man. She may just have to take a number and get in line. In recent years, the wild success of male celebrities from South Korea – sensitive men but totally ripped – has redefined what Asian women want, from Bangkok to Beijing, from Taipei to Tokyo. Gone are the martial arts movie heroes and the stereotypical macho men of mainstream Asian television. Today, South Korea's trend-setting screen stars and singers dictate everything from what hair gels people use in Vietnam to what jeans are bought in China. Yet for thousands of smitten Japanese women like Yoshimura, collecting the odd poster or DVD is no longer enough. They've set their sights far higher – settling for nothing less than a real Seoulmate.
  45. ^ K-Drama: A New TV Genre with Global Appeal. Korean Culture and Information Service. 2012. ISBN 978-8973751679. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  46. ^ “K Wave in Sri Lanka”. Wordpress. ngày 6 tháng 4 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2014.
  47. ^ “Korea in Nepal”. beed. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  48. ^ “Korean fever strikes Bhutan”. Inside ASEAN. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  49. ^ Brown, August (ngày 29 tháng 4 năm 2012). “K-pop enters American pop consciousness”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2013.
  50. ^ Oh, Esther. “K-Pop taking over the world? Don't make me laugh”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2013. Like BoA, Se7en also tried to find success in North America and worked alongside Mark Shimmel, Rich Harrison and Darkchild. The result? Complete flops.
  51. ^ James Russell, Mark. “The Gangnam Phenom”. Foreign Policy. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  52. ^ Iranians hooked on Korean TV drama Lưu trữ 2014-11-11 tại Wayback Machine, Global Post
  53. ^ Mee-yoo, Kwon. “Int'l fans visit Korea for Seoul Drama Awards”. Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2013. The hit Korean drama "Jumong" was broadcast in Romania earlier this year, attracting some 800,000 viewers to the small screen.
  54. ^ “Korea's mark on an expectation-defying Iran”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2013. The Korean wave, or hallyu, has also made significant forays into Iran. Korean period dramas, "Jumong" in particular, were smash hits. Jumong – the founding monarch of Korea's ancient Goguryeo kingdom (37 B.C.–A.D. 668) – has become the most popular TV drama representing Korea here, with its viewer ratings hovering around 80 to 90 percent.
  55. ^ “Gangnam Style hits one billion views” (bằng tiếng Anh). ngày 21 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2019.
  56. ^ 'K-pop' goes global”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2013.
  57. ^ “KCON (music festival)”, Wikipedia (bằng tiếng Anh), ngày 30 tháng 10 năm 2019, lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020, truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2019
  58. ^ “WHAT'S KCON - KCON 2016 USA OFFICIAL SITE”. KCON USA OFFICIAL SITE (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2019.
  59. ^ “Yonhap Interview – Peruvian vice president hopes for further economic ties”. Yonhap. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  60. ^ “Park to put policy priority on culture”. The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2013.
  61. ^ “South Korea Digests White House Kimchi Recipe”. The Wall Street Journal. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2013.
  62. ^ “Hallyu erobert die Welt” (bằng tiếng Đức). Deutschlandradio. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2013.
  63. ^ “Le 20h avant l'heure: le phénomène K Pop déferle en France” (bằng tiếng Pháp). TF1. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2013.
  64. ^ a b “The rising wave of Korean beauty”. ngày 25 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  65. ^ “Tourism To South Korea Number of tourists visiting South Korea expected to top 10 million - ...”. eturbonews.com. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2015.
  66. ^ “Hallyu and The Rise of Korean Cosmetics in China”. www.cityweekend.com.cn. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  67. ^ “A Korean Wave: The Rise Of K-Beauty In Sri Lanka”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  68. ^ migration (ngày 13 tháng 6 năm 2015). “The rise of K-beauty in Singapore and globally”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  69. ^ ppp_webadmin (ngày 27 tháng 6 năm 2013). “K-pop a boon for cosmetics shops”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  70. ^ “Korean Brands Increasingly Popular in Thailand”. ngày 26 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  71. ^ “5 Skincare brands found in Malaysia that are worth trying”. ngày 7 tháng 9 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  72. ^ New, Ultra Super (ngày 13 tháng 7 năm 2012). “The Korean beauty secrets are out - Japan Pulse”. The Japan Times Online. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  73. ^ “South Korean cosmetics major targets Muslim women”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  74. ^ “Amorepacific Diversifies Product Lines to Capture ASEAN's Beauty Market”. ecommerceIQ Ecommerce in Southeast Asia, Reports, Data, Insights. ngày 28 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  75. ^ Singh, Rajiv (ngày 28 tháng 8 năm 2020). “Demand for Korean products is rising in India: Korikart's Seo Young Doo”. Forbes India. Network 18. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2020.
  76. ^ Narayanan, Chitra (ngày 25 tháng 9 năm 2020). “Filling up the cart with Korean labels”. The Hindu. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2020.
  77. ^ Verma, Jagruti (ngày 6 tháng 7 năm 2020). “Spotify India campaign pushes K-Pop playlists to meet increasing demand”. Social Samosa. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2020.
  78. ^ “K-Pop is among the most liked genres by millennial in India: Spotify”. Firstpost. ngày 21 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2020.
  79. ^ “Six Months of Data Shows India's Increasing Appetite for Streaming”. Spotify Newsroom. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
  80. ^ “3 Major Streaming Trends from Spotify's First Year in India”. Spotify Newsrooom. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
  81. ^ a b c Korea Observer - Institute of Korean Studies. Korea Observer - Institute of Korean Studies. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2021.
  82. ^ Usunier, Jean-Claude (ngày 1 tháng 3 năm 1999). “International and Cross-cultural Management Research”. International Marketing Review. 16 (3): 7–8. doi:10.1108/02651339910371000. ISSN 0000-0000.
  83. ^ Seung-Hyuk, Lim (Winter 2018). “Korea Seduces the Global Beauty World”. Koreana. 32: 22–26 – qua EBSCOhost.
  84. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :8
  85. ^ a b Gibson, Jenna (ngày 20 tháng 4 năm 2018). “Hallyu 3.0: The Era of K-pop Collaborations”. KEI.
  86. ^ Phạm Hải (8 tháng 1 năm 2011). “"Làn sóng Hàn Quốc" càn quét làng giải trí châu Á”. Báo Thanh Niên online. Truy cập 17 tháng 4 năm 2013.
  87. ^ “Làn sóng Hàn Quốc suy thoái trầm trọng”. Việt Báo. ngày 27 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2014.
  88. ^ Làn sóng văn hóa Hàn Quốc đang hạ nhiệt - Nguoiduatin.vn - Báo điện tử Người đưa tin
  89. ^ Constant, Linda (14 tháng 11 năm 2011). “K-pop: Soft Power for the Global Cool”. The Huffington Post. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2013.
  90. ^ “Korea to turn hallyu into industry” (bằng tiếng To prevent anti-Korean sentiment và the government will offer incentives for production companies or broadcasters planning to jointly produce movies or dramas with Chinese companies.). The Korea Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2013.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  91. ^ “Full text of Park's inauguration speech”. Yonhap. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2013. The new administration will elevate the sanctity of our spiritual ethos so that they can permeate every facet of society and in so doing, enable all of our citizens to enjoy life enriched by culture. We will harness the innate value of culture in order to heal social conflicts and bridging cultural divides separating different regions, generations, and social strata. We will build a nation that becomes happier through culture, where culture becomes a fabric of daily life, and a welfare system that embodies cultural values. Creative activities across wide-ranging genres will be supported, while the contents industry which merges culture with advanced technology will be nurtured. In so doing, we will ignite the engine of a creative economy and create new jobs. Together with the Korean people we will foster a new cultural renaissance or a culture that transcends ethnicity and languages, overcomes ideologies and customs, contributes to the peaceful development of humanity, and is connected by the ability to share happiness.
  92. ^ “Việt Nam xếp thứ 4 về mức độ yêu thích làn sóng Hàn Quốc”. phapluattp.vn. 27 tháng 2 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2010. Truy cập 26 tháng 7 năm 2012.
  93. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên tt1
  94. ^ a b Quỳnh Trang (ngày 1 tháng 7 năm 2012). “Làn sóng văn hóa Hàn: Văn hóa bình dân!”. phapluattp.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2012.
  95. ^ Xin hãy nhìn fan Kpop một cách công bằng - VnExpress
  96. ^ Tiếng nói của một người trẻ mê nhạc Hàn - VnExpress
  97. ^ Tâm sự của bà mẹ có con là fan cuồng nhạc Hàn Quốc - VnExpress
  98. ^ Làn sóng Hallyu trên thị trường giải trí Việt - VnExpress
  99. ^ Hạn chế fan cuồng Kpop từ chính mỗi gia đình - VnExpress
  100. ^ Hạnh Hạnh (ngày 9 tháng 2 năm 2019). “Tại sao dòng phim Melodrama Hàn càng ngày càng nhàm?”. Báo Đất Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2020. Những năm 2000, Melodrama (phim tâm lý tình cảm) là thể loại chiếm thế thượng phong trên màn ảnh Hàn. Đâu đâu người ta cũng thấy những chuyện tình buồn đẫm nước mắt với những tình tiết quen thuộc như cặp đôi bị chia rẽ bởi khác biệt gia cảnh hay một căn bệnh quái ác nào đó cướp đi mạng sống của người yêu. (...) Đã có rất nhiều huyền thoại Melodrama, điển hình như Trái tim mùa thu, Nấc thang lên thiên đường, Giày thủy tinh
  101. ^ Lan Phương (ngày 20 tháng 4 năm 2017). “Học hỏi Kpop và nhạc Hoa, ca sĩ Việt liên tục bị nghi đạo nhạc”. Zing.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2018.
  102. ^ theo Đất Mũi (ngày 6 tháng 7 năm 2004). “The Bells - tiếng chuông lại tiếp tục ngân vang”. VnExpress Giải Trí. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2018.
  103. ^ JJ - Tuấn Maxx, theo Tri Thức Trẻ (ngày 21 tháng 8 năm 2018). “Nhìn lại năm 2008, thời điểm được coi là khởi đầu cho thời đại hoàng kim của Kpop”. Báo sống mới. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2018.
  104. ^ Hương Ly (ngày 24 tháng 2 năm 2019). “Kpop sau 10 năm: SNSD chỉ còn danh xưng, Big Bang tạm rời đỉnh cao”. Zing.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2019. Năm 2009 được xem là thời hoàng kim của Kpop với sự cạnh tranh của hàng loạt nhóm nhạc tài năng, từ đó ra đời những bản hit đi cùng năm tháng.
  105. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên thuydien
  106. ^ Biểu tình chống làn sóng "Hàn Quốc hóa" - VTC News

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Tra làn sóng hàn quốc trong từ điển mở tiếng Việt Wiktionary
  • Bài viết về sự thật của làn sóng Hallyu tại Nhật trên báo 2! Lưu trữ 2021-04-17 tại Wayback Machine
  • Bài báo phê bình của Roald Maliangkay về sự phát triển gần đây của làn sóng
  • The Korea Foundation for Asian Culture Exchange Lưu trữ 2017-09-12 tại Wayback Machine
  • "'Korean Wave' Piracy Hits Music Industry", BBC, 9 tháng 11 năm 2001.
  • "'Korean Wave' Hits Asia Lifting S. Korean Tourism", Yonhap News, December 15, 2005.
  • "A rising Korean wave: If Seoul sells it, China craves it", The International Herald Tribune, January 10, 2006.
  • "Hallyu Phenomenon Faces Backlash in East Asia", The Korea Times, January 16, 2006.
  • "Hallyu and Screen Quota" Lưu trữ 2007-01-28 tại Wayback Machine, The Korea Times, January 18, 2006.
  • Why Is Korean Wave Popular In China? Lưu trữ 2010-11-13 tại Wayback Machine
  • Korea Wave in Perú Lưu trữ 2008-08-21 tại Wayback Machine
  • Korean Pops Merch
  • x
  • t
  • s
Nhận thức văn hóa
Châu Âu
  • Châu Âu
  • Ai-len
  • An-ba-ni
  • Anh Quốc
  • Áo
  • Đức
  • E-xtô-ni-a
  • Gru-di-a
  • Hy Lạp
    • Xpác-ta
  • Pháp
  • Phần Lan
  • Tây Ban Nha
  • Xcăng-đi-na-vi
    • Thụy Điển
  • Xla-vơ
    • Nga
    • U-crai-na
    • Xéc-bi
  • Ý
    • La Mã
Châu Phi
  • Ai Cập
  • Châu Phi hạ Xa-ha-ra
Châu Mỹ
  • Mỹ
  • U-ru-goay
Châu Á
  • Châu Á
  • Ác-mê-ni-a
  • Ấn Độ
  • Do Thái
  • Đài Loan
  • Hàn Quốc
  • Hồng Kông
  • I-ran/Ba Tư
  • Nhật Bản
  • Pa-ki-xtan
  • Trung Quốc
  • Việt Nam
Châu Đại Dương
  • Úc
Xem thêm: Tiếp biến văn hóa (Danh sách) • Chủ nghĩa thực dân • Chiếm dụng văn hóa • Đồng hóa văn hóa

Từ khóa » Khắp Wiki