Lào Cai – Wikipedia Tiếng Việt
Có thể bạn quan tâm
Lào Cai | |||
---|---|---|---|
Tỉnh | |||
Tỉnh Lào Cai | |||
Biểu trưng | |||
Trên xuống dưới, trái sang phải: Đỉnh Fansipan, Thác Bạc (Sa Pa), Dinh Hoàng A Tưởng (Bắc Hà), Ky Quan San (Bát Xát) | |||
Biệt danh | Vùng đất mờ sương | ||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Tây Bắc Bộ | ||
Tỉnh lỵ | Thành phố Lào Cai | ||
Trụ sở UBND | Đường Trần Hưng Đạo, phường Nam Cường, thành phố Lào Cai | ||
Phân chia hành chính | 1 thành phố, 1 thị xã, 7 huyện | ||
Thành lập |
| ||
Đại biểu Quốc hội | 6 đại biểu | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Trịnh Xuân Trường | ||
Hội đồng nhân dân | 55 đại biểu | ||
Chủ tịch HĐND | Vũ Xuân Cường | ||
Chủ tịch UBMTTQ | Giàng Seo Vần | ||
Chánh án TAND | Hoàng Thị Hồng Hạnh | ||
Viện trưởng VKSND | Dương Hùng Yên | ||
Bí thư Tỉnh ủy | Đặng Xuân Phong | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 22°22′48″B 104°09′28″Đ / 22,379997°B 104,15786°Đ | |||
| |||
Diện tích | 6.364,25 km²[1][2] | ||
Dân số (2022) | |||
Tổng cộng | 770.600 người[3] | ||
Thành thị | 210.600 người (27,33%)[4] | ||
Nông thôn | 560.000 người (72,67%)[5] | ||
Mật độ | 121 người/km²[6] | ||
Dân tộc | Kinh, H'Mông, Tày, Dao, Thái | ||
Kinh tế (2022) | |||
GRDP | 60.310 tỉ đồng (2,55 tỉ USD) | ||
GRDP đầu người | 76,29 triệu đồng (3.317 USD) | ||
Khác | |||
Mã địa lý | VN-02 | ||
Mã hành chính | 10[7] | ||
Mã bưu chính | 31xxx | ||
Mã điện thoại | 214 | ||
Biển số xe | 24 | ||
Website | laocai.gov.vn | ||
|
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam[8][9].
Năm 2020, Lào Cai là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 55 về số dân, xếp thứ 45 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ trong 15 trong 16 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 11 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 730.420 người dân[10], GRDP đạt 49.310 tỉ Đồng (tương ứng với 2,14 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 76,29 triệu đồng (tương ứng với 3.317 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,55%.[11]
Vị trí địa lý
[sửa | sửa mã nguồn]Tỉnh Lào Cai giáp ranh giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Lào Cai, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 296 km đường sắt và 345 km đường bộ, có vị trí địa lý:
- Phía đông giáp tỉnh Hà Giang
- Phía tây giáp tỉnh Lai Châu
- Phía nam giáp tỉnh Yên Bái
- Phía bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc với đường biên giới dài khoảng 182 km.
Các điểm cực của tỉnh Lào Cai
[sửa | sửa mã nguồn]- Điểm cực Bắc tại: thôn Lồ Cô Chin, xã Pha Long, huyện Mường Khương .
- Điểm cực Tây tại: xã Y Tý, huyện Bát Xát.
- Điểm cực Đông tại: thôn Ban Bang, xã Việt Tiến, huyện Bảo Yên.
- Điểm cực Nam tại: xã Nậm Tha, huyện Văn Bàn.
Địa danh
[sửa | sửa mã nguồn]Tên gọi Lào Cai hình thành từ cuối thế kỷ XIX khi người Pháp để ý đến Việt Nam và khám phá vùng núi Bắc Việt.
Tại vùng đất Lào Cai ở đầu cầu Cốc Lếu ngày nay, thì xưa kia có một khu chợ. Vùng biên giới trở nên nhộn nhịp khi vào những năm 1870 người Pháp như Jean Dupuis [Ghi chú 1] đến "thám hiểm", mở đường buôn bán vũ khí và mua khoáng sản với Vân Nam, Trung Quốc. Người Pháp dựa vào người H'Mông để tiếp xúc, buôn bán, vận chuyển và tránh mặt giới chức Việt địa phương. Tuy nhiên chợ đã bị quân Cờ đen chiếm giữ đóng đồn, nên người ta mở ra một chợ mới ở nơi nay là Phố Mới.
Chợ cũ trong tiếng H'Mông là "Lao Cai" (RPA: Log Kab, Chữ Hmông Việt: Laol Caz), và Jean Dupuis ghi vào Bản đồ Bắc Kỳ năm 1879 ở chỗ chợ này là "Lao-kai, residence du Chef des Pavillone noirs" (Lao-kai, dinh thủ lĩnh quân Cờ đen). Sau này người Pháp quen dùng nên thành tên của thủ phủ vùng [12]. Giáo sư Đào Duy Anh do không để ý tiếng địa phương, nên nói khi làm bản đồ, người Pháp viết "Lão Nhai" là "Lao Cai" và sau thành "Lao Kay".
Tên "Lao Kay" đã được người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu hành chính. Sau tháng 11 năm 1950, đã thống nhất gọi là Lào Cai cho đến ngày nay.
Dân số
[sửa | sửa mã nguồn]Dân số năm 2007 của tỉnh Lào Cai là 593.600 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động: 314.520 người, chiếm khoảng 53%. Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 dân số tỉnh là 613.075 người.
Dân số năm 2014 của tỉnh Lào Cai là 665.200 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động: 412.600 người, chiếm khoảng 62%
- Thành thị: 32%
- Nông thôn: 68%
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 30.162 người, nhiều nhất là đạo Tin Lành có 10.996 người, tiếp theo là Công giáo đạt 9.009 người, Phật giáo có 8.680 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 12 người, đạo Cao Đài có ba người, Minh Lý đạo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi tôn giáo chỉ có một người.[13]
Dân số tính đến ngày 1/4/2019 của toàn tỉnh đạt 730.420 người, bao gồm dân số thành thị 171.401 người, chiếm 23,5%; dân số nông thôn 559.019 người, chiếm 76,5%; dân số nam 371.306 người, chiếm 50,83%; dân số nữ 359.114 nghìn người, chiếm 49,17%. Dân tộc Kinh có 246.756 người, chiếm 33,8% dân số toàn tỉnh, còn lại các dân tộc khác có 483.664 người, chiếm 66,2% dân số toàn tỉnh.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Lịch sử hành chính Lào CaiLào Cai là một vùng đất cổ, diện mạo địa hình được hình thành cách nay 50-60 triệu năm, trong đợt tạo sơn cuối cùng, vỏ trái đất vặn mình, đứt gãy. Hơn vạn năm trước, con người đã có mặt tại địa bàn tại đây[cần dẫn nguồn]. Tổ tiên người bản địa Lào Cai nay hồi đó cư trú khá tập trung ở các dải đồi ven sông Hồng, sông Chảy, các cửa ngòi Mi, ngòi Nhù. Các chủ nhân văn hóa Hòa Bình ở Lào Cai đã biết làm nông nghiệp [14]. Trong buổi đầu các bộ tộc xác định ranh giới chủ quyền, thời Hùng Vương thuộc Tân Hưng[cần dẫn nguồn], là một trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang. Thời Âu Lạc thì vùng phía đông và phía nam Lào Cai thuộc bộ lạc Tây Vu[cần dẫn nguồn], còn một phần đất phía tây và phía bắc Lào Cai hiện nay thuộc phạm vi của các bộ lạc nhỏ hơn không chịu thuần phục Lạc Việt[cần dẫn nguồn].
Thời Bắc thuộc, ban đầu là địa phận thuộc huyện Tây Vu[cần dẫn nguồn], quận Giao Chỉ. Sau này thuộc là quận Tân Hưng, đất Giao Châu (thời Tây Tấn), sau là đất châu Đan Đường[cần dẫn nguồn], Chu Quý[cần dẫn nguồn] thuộc Giao Chỉ (thời Tùy), tiếp đổi Lâm Tây châu, Đức Hóa châu[cần dẫn nguồn] thuộc phủ An Nam (thời Đường, 679)
Năm Điều Lộ đầu tiên (679), vua Cao Tông nhà Đường lập ra An Nam đô hộ phủ, đất tỉnh Lào Cai ngày nay, là Lâm Tây Nguyên (林西原[15], Cao nguyên Lâm Tây) thuộc An Nam đô hộ phủ thời đó. Đất châu Thủy Vĩ, theo lời chú trong Đồng Khánh địa dư chí, là phần lớn đất tỉnh Lào Cai ngày nay[16], theo đó cũng thuộc Lâm Tây Nguyên, vùng biên giới của An Nam đô hộ phủ nhà Đường với vương quốc Nam Chiếu. Vùng đất huyện Hà Khẩu[15] (châu Hồng Hà), huyện Mã Quan[15] (châu Văn Sơn) và một phần huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc ngày nay là là động Thất Quán (七綰洞), thuộc Lâm Tây Nguyên của An Nam đô hộ phủ. Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu chép rằngː "Lâm Tây nguyên ở phía tây Phong Châu, bên cạnh Lâm Tây Nguyên có động Thất Quán của người dân tộc thiểu số mà thủ lĩnh là Lý Do Độc (李猶獨), bộ thuộc có thêm các động như động Đào Hoa (桃花), tất cả đều giúp Trung Quốc canh phòng và thu thuế nơi biên ải với Nam Chiếu. Đường thư chép: Lâm Tây Nguyên trước có binh lính canh phòng cả vào mùa đông. Vào năm Đại Trung thứ tám (854) (thời vua Đường Tuyên Tông), Lý Trác, giữ chức đô hộ An Nam, đã bãi bỏ binh lính biên phòng và giao hết việc phòng biên cho thổ tù Lý Do Độc. Lý Do Độc ở vào thế cô lập không có đủ quân để canh phòng. Nhân đó, viên Thác Đông tiết độ sứ nước Nam Chiếu dụ dỗ mua chuộc ông ta theo về Nam Chiếu. Từ đó, An Nam bắt đầu bị Nam Chiếu xâm lấn. Tân Đường Thư chép rằngː An Nam Đô hộ phủ cai trị quản lĩnh châu Lâm Tây (林西州). Châu này có 2 huyện làː Lâm Tây và Cam Quất (甘橘)." [17][18] Động Đào Hoa về sau có thể là ải Lê Hoa, tức ải Liên Hoa, nằm trên biên giới Đại Việt và Trung Hoa, nay là hương Liên Hoa Than (Ghềnh Liên Hoa) của huyện Hà Khẩu. Cam Quất có thể là đất thị xã Cam Đường tỉnh Lào Cai Việt Nam ngày nay. Sách Tân Đường thư cũng chépː "An Nam Đào Lâm nhân giả, cư Lâm Tây nguyên, Thất Quán động thủ lĩnh Lý Do Độc chủ chi, tuế tuế thú biên。Lý Trác chi tại An Nam, dã tấu bãi phòng đông binh lục thiên nhân, vị Do Độc khả đương nhất đội, át man chi nhập。Man tù dĩ nữ thê Do Độc tử, Thất Quán động cử phụ man, Vương Khoan bất năng chế。" [19]. Dịch nghĩa làː Một người gốc Đào Lâm (桃林) ở An Nam, sống ở Lâm Tây Nguyên (林西原), là chúa Lý Do Độc (李由獨), thủ lĩnh của động Thất Quán (七綰洞), canh gác biên giới hàng năm. Lý Trác (李琢) cũng ở An Nam, tuyên bố rút bỏ 6000 binh lính phòng biên mùa đông, và bảo với Lý Do Độc hãy dùng đội thổ binh duy nhất thuộc quyền để mà kiềm chế sự xâm nhập của Nam Chiếu. Vua Nam Chiếu kết thông gia với Lý Do Độc. Độc đem toàn bộ động Thất Quán theo về Nam Chiếu, mà Vương Khoan (王寬) không thể kiểm soát được. (Vương Khoan làm đô hộ An Nam năm 861). Đại Việt sử ký tiền biên viết: "... Người Đào Lâm, Phong Châu, An Nam ở động Thất Quán [thuộc] Lâm Tây Nguyên, do thủ lĩnh Lý Do Độc làm chủ, hàng năm vẫn đóng thú biên giới gọi là phòng thủ binh, lại thường giúp Trác [thu] nộp tô thuế. Viên tri châu Phong Châu nói với Trác hãy xin bãi quân đóng thú, chuyên ủy cho Do Độc phòng giữ. Trác tâu xin bãi 6 nghìn người ở phòng thú binh và bảo Do Độc có thể tương đương một đội. Thế là Do Độc thế cô không tự lập được. Quan Thác đông tiết độ của Nam Chiếu viết thư mời Do Độc, rồi đem gả con gái cho con trai Độc, bổ làm Thác đông Thác nha (Thác đông là nói sẽ khai thác biên giới phía đông. Giao Chỉ ở phía đông Nam Chiếu cho nên đặt chức ấy). Từ đó An Nam bắt đầu có mối lo về người Man [Nam Chiếu]." Đất Hà Khẩu Vân Nam Trung Quốc ngày nay, thuộc động Thất Quán thời kỳ (854-860) cũng theo về sáp nhập vào Thác Đông tiết độ sứ (拓東節度使) của Nam Chiếu. Phần còn lại của Lâm Tây Nguyên, thuộc An Nam đô hộ phủ, là đất hai huyện Lâm Tây và Cam Quất sau có lẽ lập thành đạo Lâm Tây (林西道), (hay châu Lâm Tây), nay là tỉnh Lào Cai của Việt Nam.
Trong thời tự chủ phong kiến thuộc đạo Lâm Tây (林西), hay Đại Cồ Việt thời Đinh, Tiền Lê và Đại Việt thời Lý; đất Đăng Châu (鐙州) thời Lý; tiếp là huyện Thủy Vĩ, trấn Quy Hóa, đạo Đà Giang (水尾縣光化鎭沱江道) thời nhà Trần. Đại Việt sử ký toàn thư chépː "Vào năm Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ tư (1013), mùa đông, tháng 10 âm lịch, châu Vị Long (渭龍) liên kết với man Nam Chiếu (vương quốc Đại Lý) nổi dậy chống nhà Lý. Vua Lý Thái Tổ tự dẫn quân đi đánh châu này. Thủ lĩnh châu Vị Long là Hà Yến Tuấn (何晏俊) sợ hãi, dẫn các thuộc hạ chạy vào rừng núi... Vào năm Giáp Dần niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (1014, tức năm Đại Trung Tường Phủ thứ bảy nhà Tống), mùa xuân, tháng Giêng âm lịch, các tướng nước Đại Lý là Dương Trường Huệ (楊長惠), Đoàn Kính Chí (段敬至) dẫn 200000 quân Đại Lý vào cướp phá lãnh thổ Đại Cồ Việt, lập doanh trại ở bến Kim Hoa (金華步), đặt tên là Ngũ Hoa trại (五花寨). Châu mục châu Bình Lâm (平林) là Hoàng Ân Vinh (黃恩榮) đã báo cáo vụ việc cho nhà Lý. Vua sai Dực Thánh Vương (翊聖王) đưa quân đi đánh quân Đại Lý xâm lược, chặt đầu hàng nghìn người và bắt sống vô số binh lính và ngựa chiến. Vua ban chiếu cho các viên ngoại lang là Phùng Chân (馮真) và Lý Thạc (李碩) sang nước Tống báo tin thắng trận, và đem biếu 100 ngựa thu được của quân Đại Lý. Vua Tống ban chiếu cho nơi sở tại đưa các sứ nước Việt đến cửa khuyết và đón tiếp đầy đủ. Khi đến nơi, vua Tống cho mời đoàn của Phùng Chân vào yết kiến tại cung Sùng Đức, rồi theo thứ bậc ban thưởng mũ, áo, vải lụa... Vào năm Ất Mão, niên hiệu Thuận Thiên thứ sáu (1015), mùa xuân, ... tháng 2 âm lịch, ... Vua ban chiếu cho Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương (武德王) đi đánh các châu Đô Kim (都金), Vị Long, Thường Tân (常新), Bình Nguyên (平原) , bắt được thủ lĩnh Hà Yến Tuấn đem về kinh sư, bêu đầu ở chợ Đông." "Năm Đinh Sửu niên hiệu Thông Thụy thứ 4 (1037), mùa xuân, ngày mồng 1 tháng 2, vua Lý Thái Tông thân đi đánh đạo Lâm Tây (林西道), sai Khai Hoàng Vương Nhật Tôn làm Đại nguyên soái đánh các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên, cho Phụng Càn Vương Nhật Trung làm Kinh sư lưu thủ. Quân đi từ Kinh sư đến đóng ở Lâm Tây, dẹp yên được. Tháng 3, vua từ đạo Lâm Tây về đến kinh."[20]
Năm 1397, Hồ Quý Ly làm phụ chính thái sư, sửa đổi chế độ hành chính, đã đổi các bộ phủ làm trấn và Đà Giang đổi thành trấn Thiên Hưng (天興). Trong đó, huyện Thủy Vĩ, huyện Văn Bàn (文盤) được thành lập trực thuộc châu Quan Hóa. Từ nay Thủy Vĩ, Văn Bàn (vùng đất Lào Cai xưa) đã chính thức trở thành tên đơn vị hành chính của nhà nước phong kiến Đại Việt. Triều Lê đổi đổi lộ làm phủ và đổi trấn làm châu, khi đó lộ Quy Hóa đổi thành phủ Quang Hóa, huyện Văn Bàn, huyện Thủy Vĩ trở thành châu Văn Bàn, châu Thủy Vĩ trực thuộc Phủ Quang Hóa, thừa tuyên Hưng Hóa. Năm Hồng Đức thứ 31 (1490) đạo thừa tuyên Hưng Hóa đổi thành xứ Hưng Hóa. Đến đời Hồng Thuận Lê Tương Dực (1509-1516) đổi xứ Hưng Hóa thành trấn Hưng Hóa (興化鎭)[21].
Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thủy Vỹ, châu Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa[22].
Sau khi đánh chiếm Lào Cai (tháng 3 năm 1886), đế quốc Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế độ quân sự, cai trị đầu tiên là Đại tá De Maussion[23] . Ngày 7 tháng 1 năm 1899, đạo quan binh IV được thành lập bao gồm Tiểu quân khu Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai [24] Lào Cai là đạo lỵ, thủ phủ của đạo quan binh IV. Để dễ bề kiểm soát và tiến hành khai thác, thực dân Pháp đã chia lại khu vực hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Ngày 12 tháng 7 năm 1907, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV Lào Cai, chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Emmerich được cử làm Công sứ Pháp đầu tiên của Lào Cai thay tướng Louis Edouard Messager đang làm Tư lệnh Đạo quan binh số 4 Lào Cai. Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ Việt Nam. Ngày 12 tháng 7 năm 1907 được xác định là ngày thành lập tỉnh Lào Cai[25].
Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào Cai cũng có nhiều thay đổi. Sau khi Lào Cai vừa được thành lập, Toàn quyền Pháp ra Nghi định chia lại đơn vị hành chính Lào Cai: phần đất của châu Thủy Vỹ bên hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là châu Thủy Vỹ; phần đất của châu Thủy Vỹ bên tả ngạn sông Hồng được tách ra lập thành châu Bảo Thắng. Tỉnh Lào Cai gồm hai châu Thủy Vỹ, Bảo Thắng và các đại lý Mường Khương, Phong Thổ, Bát Xát, Bắc Hà (Pa Kha) và thị xã Lào Cai[24].
Đến 1910, dưới thời của Công sứ Emmerich, một số tổng của Lào Cai (ở châu Thủy Vĩ) được trích ra cùng với một số tổng của Lai Châu lập ra châu Than Uyên do Công sứ Pháp Hernández của tỉnh Sơn La quản hạt.
Năm 1930, thời công sứ Pháp ở Lào Cai Henry Wintrebert, địa lý của Lào Cai cơ bản như sau:
- Châu Bảo Thắng (bên tả ngạn) có 10 xã và khu tương đương với 34 thôn và 1 khu phố Lào Cai với 3 phố là Tân Bảo, Tân Tèo, Cốc Lếu.
- Châu Thủy Vỹ (bên hữu ngạn) có 4 xã là xã Nhạc Sơn (16 thôn bản), xã Xuân Giao (14 thôn bản), xã Cam Đường (37 thôn bản), xã Gia Phú (16 thôn bản). Tổng cộng là 83 thôn bản.
- Đại lý Mường Khương có 3 xã là xã Mường Khương (45 thôn bản), xã Pha Long (39 thôn bản), xã Bản Lầu (57 thôn bản).
- Đại lý Pa Kha (Bắc Hà) có 3 xã là xã Bắc Hà Đông, xã Bắc Hà Tây, xã Si Ma Cai; 149 thôn bản và 1 khu phố với 2 dãy phố.
- Đại lý Phong Thổ có 4 xã là xã Phong Thổ (có 80 thôn bản), xã Giào San (28 thôn bản), xã Tam Đường (có 58 thôn bản), xã Bình Lư (có 28 thôn bản). Tổng cộng có 194 thôn bản.
- Đại lý Bát Xát có 3 xã:Bát Xát (8 thôn bản), Trịnh Tường (20 thôn bản), Mường Hum (4 thôn bản).
- Khu hành chính Sa Pa có 37 thôn bản[26].
Sau năm 1954, tỉnh Lào Cai có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị xã thị xã Lào Cai (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Bắc Hà, Bảo Thắng, Bát Xát, Mường Khương, Phong Thổ, Sa Pa.
Ngày 13 tháng 5 năm 1955, chuyển huyện Phong Thổ về khu tự trị Thái - Mèo quản lý (nay địa bàn Phong Thổ là thành phố Lai Châu và 2 huyện Phong Thổ, Tam Đường thuộc tỉnh Lai Châu).[27]
Ngày 11 tháng 2 năm 1963, thành lập thị xã Cam Đường trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của xã Cam Đường thuộc huyện Bảo Thắng.[28]
Ngày 15 tháng 11 năm 1966, chia huyện Bắc Hà thành 2 huyện: Bắc Hà và Si Ma Cai.[29]
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Lào Cai được hợp nhất với 2 tỉnh Yên Bái và Nghĩa Lộ hợp nhất thành tỉnh Hoàng Liên Sơn.[30]
Ngày 17 tháng 4 năm 1979, sáp nhập thị xã Cam Đường vào thị xã Lào Cai; sáp nhập huyện Si Ma Cai vào huyện Bắc Hà.[31]
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn chia lại thành 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Khi tách ra, tỉnh Lào Cai có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Lào Cai và 8 huyện: Bắc Hà, Bảo Thắng, Bảo Yên, Bát Xát, Mường Khương, Sa Pa, Than Uyên, Văn Bàn (riêng huyện Than Uyên trước đây thuộc tỉnh Nghĩa Lộ cũ, hai huyện Bảo Yên và Văn Bàn trước đây thuộc tỉnh Yên Bái).[32]
Ngày 9 tháng 6 năm 1992, tái lập thị xã Cam Đường.
Ngày 18 tháng 8 năm 2000, tái lập 2 huyện Bắc Hà và Si Ma Cai trên cơ sở tách huyện Bắc Hà.[33]
Ngày 31 tháng 1 năm 2002, tái sáp nhập thị xã Cam Đường vào thị xã Lào Cai.[34]
Ngày 26 tháng 12 năm 2003, chuyển huyện Than Uyên về tỉnh Lai Châu quản lý.[35]
Ngày 30 tháng 11 năm 2004, chuyển thị xã Lào Cai thành thành phố Lào Cai.[36]
Ngày 30 tháng 10 năm 2014, thành phố Lào Cai được công nhận là đô thị loại II.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, chuyển huyện Sa Pa thành thị xã Sa Pa.[37]
Tỉnh Lào Cai có 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện như hiện nay.
Hành chính
[sửa | sửa mã nguồn]Tỉnh Lào Cai có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện với 151 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 16 phường, 9 thị trấn và 126 xã.[38]
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Lào Cai | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nguồn: Dân số đến 01 tháng 4 năm 2019 - tỉnh Lào Cai[39] |
Kinh tế - xã hội
[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDPBài chi tiết: Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP bình quân đầu ngườiLào Cai là một trong những tỉnh liên tục đứng ở vị trí tốp đầu về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong bảng xếp hạng những năm gần đây. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Lào Cai xếp ở vị trí thứ 1/63 tỉnh thành.[40]
Dân tộc
[sửa | sửa mã nguồn]- Người Pa Dí tên gọi của một nhóm nhỏ dân tộc Tày
- Người Giáy có khoảng 38.000 người, cư trú ở Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu và Cao Bằng. Người Giáy còn có tên gọi khác là Nhắng, Dẳng, Pâu Thìn, Cùi Chu, Xạ. Tiếng Giáy thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái.
- Người Dao, tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).Tên gọi khác: Mán. Nhóm địa phương: Dao Đỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Đại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Đeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).Dân số: 473.945 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.
- Người H'Mông.Tên tự gọi: Hmông, Na Miẻo.Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.Nhóm địa phương: Hmông Trắng, Hmông Hoa, Hmông Đỏ, Hmông Đen, Hmông Xanh, Na Miẻo. Dân số: 558.053 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Hmông - Dao. Chữ viết của người H'Mông: zoo nkauj ntxhais (Gái đẹp) và poppy tsob ntoo (Cây anh túc).
- Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Tên gọi khác: Thổ.Dân số: 1.190.342 người.Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai).
- Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm. Tên tự gọi: Nồng.Nhóm địa phương: Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín,...Dân số: 705.709 ngườiNgôn ngữ: Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái Hệ ngôn ngữ Tai-Kadai, cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái, và nhất là tiếng Choang ở Trung Quốc...
- Cư dân Hà Nhì đã từng sinh sống lâu đời ở nam Trung Quốc và Việt Nam. Từ thế kỷ thứ 8, thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của họ ở Tây bắc Việt Nam. Nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì hiện nay là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây.
- Người Phù Lá: Nhóm Phù Lá Lão - Bồ Khô Pạ là cư dân có mặt tương đối sớm ở Tây Bắc nước ta. Các nhóm khác đến muộn hơn, khoảng 200-300 năm trở lại, quá trình hội nhập của nhóm Phù Lá Hán còn tiếp diễn cho tới những năm 40 của thế kỷ XX
- Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
- Tổ tiên người Việt từ rất xa xưa đã định cư chắc chắn ở Bắc bộ và bắc Trung bộ. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Việt luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Người Kháng là một trong số các dân tộc cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc nước ta. Nương rẫy là hình thái kinh tế chủ đạo với cách thức phát đốt, chọc lỗ tra hạt. Có thể phân thành 3 nhóm:
- Người La Chí có lịch sử cư trú lâu đời ở Hà Giang, Lào Cai.
- Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc nước ta. Theo những tài liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Đen thiên di tới vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm lễ cúng Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ "trâu trắng" để tế thần ¡m Poi - một thủ lĩnh nổi tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI.
- Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm. Tên tự gọi: Sán Chay. Tên gọi khác: Hờn Bán, Chùng, Trại... Nhóm địa phương: Cao Lan và Sán Chỉ. Dân số: 114.012 người. Ngôn ngữ: Tiếng Cao Lan thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai) còn tiếng Sán Chỉ thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán Tạng).
- Người Hoa di cư đến Việt Nam vào những thời điểm khác nhau từ thế kỷ XVI, và sau này vào cuối thời Minh, đầu thời Thanh, kéo dài cho đến nửa đầu thế kỷ XX.
- Người Bố Y di cư từ Trung Quốc sang cách đây khoảng 150 năm. Tên tự gọi: Bố Y.Tên gọi khác: Chủng Chá, Trọng Gia...Nhóm địa phương: Bố Y và Tu Dí.Dân số: 1.420 người.Ngôn ngữ: Nhóm Bố Y nói ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Đai), còn nhóm Tu Dí nói ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng).
- Người Khơ Mú là một trong những cư dân đã cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc Việt Nam. Bộ phận Khơ Mú cư trú tại miền núi các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An do chuyển cư từ Lào sang.
- Người Lô Lô là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang. Tên tự gọi: Lô Lô.Tên gọi khác: Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn.Nhóm địa phương: Lô Lô hoa và Lô Lô đen.Dân số: 3.134 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.
- Người Mường: Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thủy lợi nhỏ.
- Người Ngái sinh sống trong nội địa lấy việc trồng lúa nước làm nguồn sống chính. Ngoài ra họ còn trồng ngô, khoai, sắn, chăn nuôi... Bộ phận ở ven biển và hải đảo sống bằng nghề đánh cá là chủ yếu. Thủ công nghiệp với các nghề như làm mành trúc, dệt chiếu, mộc, nề, rèn, gạch ngói, nung vôi... cũng đóng vai trò đáng kể trong đời sống của người Ngái.
- Người Sán Dìu có làm ruộng nước nhưng không nhiều, canh tác ruộng khô là chính. Ngoài các loại cây trồng thường thấy ở nhiều vùng như lúa, ngô, khoai, sắn... họ còn trồng nhiều cây có củ. Từ rất lâu họ biết dùng phân bón ruộng. Nhờ đắp thêm mũi phụ, lưỡi cày của họ trở nên bền, sắc và thích hợp hơn với việc cày ở nơi đất cứng, nhiều sỏi đá.
Tài nguyên
[sửa | sửa mã nguồn]Đất: Lào Cai Có 10 nhóm đất chính, được chia làm 30 loại đất. 10 nhóm đất là: đất phù sa, đất lầy, đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ, đất mùn alit trên núi, đất mùn thô trên núi, đất đỏ vàng bị biến đổi do trồng lúa, đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá và đất dốc tụ.
Nước: hệ thống sông suối dày đặc được phân bố khá đều trên địa bàn tỉnh với hai con sông lớn chảy qua là sông Hồng và sông Chảy bắt nguồn Trung Quốc và hàng nghìn sông, suối lớn nhỏ. Đây là điều kiện thuận lợi cho Lào Cai phát triển các công trình thủy điện vừa và nhỏ. Trên địa bàn tỉnh có bốn nguồn nước khoáng, nước nóng có nhiệt độ khoảng 40 °C và nguồn nước siêu nhạt ở huyện Sa Pa, hiện chưa được khai thác, sử dụng.
Rừng: 278.907 ha, chiếm 43,87% tổng diện tích tự nhiên, trong đó có 229.296,6 ha rừng tự nhiên và 49.604 ha rừng trồng, rất phong phú cả về số lượng loài và tính điển hình của thực vật. Động vật rừng Lào Cai có 442 loài chim, thú, bò sát, ếch nhái.
Khoáng sản: Lào Cai đã phát hiện được 150 mỏ và điểm mỏ với trên 30 loại khoáng sản, trong đó có một số mỏ chất lượng thuộc loại quy mô lớn nhất nước và khu vực như: mỏ apatit Cam Đường với trữ lượng 2,5 tỷ tấn, mỏ sắt Quý Xa trữ lượng 124 triệu tấn, mỏ đồng Sin Quyền trữ lượng 53 triệu tấn, mỏ Molipden Ô Quy Hồ trữ lượng 15,4 nghìn tấn.
Hạ tầng
[sửa | sửa mã nguồn]Lào Cai là một trong số ít tỉnh miền núi có mạng lưới giao thông vận tải đa dạng, bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường sông, và hiện tại đang xây dựng sân bay Sa Pa ở địa bàn xã Cam Cọn, huyện Bảo Yên, dự kiến đi vào hoạt động năm 2026.
Đây cũng là điểm cuối của đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai tại vị trí đấu nối với đường cao tốc Côn Minh – Hà Khẩu thuộc phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai. Tuyến đường này đi qua địa bàn 4 huyện thị: Văn Bàn, Bảo Yên, Bảo Thắng và thành phố Lào Cai.
Được thiết kế theo tiêu chuẩn đường cao tốc hiện đại nhất Việt Nam với tốc độ chạy xe tối thiểu từ 80 km – 100 km/h, Dự án có tổng mức đầu tư lên tới 19.984 tỷ đồng (1,249 tỷ USD), trong đó 1,096 tỷ USD là vốn vay của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Đây là dự án đường cao tốc đầu tiên tại Việt Nam được xây dựng do nhà đầu tư (Công ty Đầu tư Phát triển đường cao tốc Việt Nam - VEC) tự huy động vốn, không sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Với tổng mức đầu tư lên tới 1,24 tỷ USD, Dự án có thể coi là "một gói kích cầu lớn" đầu tư vào lĩnh vực đường bộ cho vùng Tây Bắc và các tỉnh thuộc lưu vực sông Hồng. Tuyến đường cao tốc từ Lào Cai về Hà Nội có ý nghĩa quan trọng không chỉ ở tầm quốc gia mà còn là con đường thúc đẩy phát triển kinh tế của 6 nước trong tiểu vùng sông Mê Kông là: Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam. Toàn bộ dự án được hoàn thành vào năm 2014, dự kiến hoàn vốn sau 32 năm khai thác thu phí, với mức phí là 1000 đồng/km/phương tiện quy đổi.
Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 296 km, đoạn qua địa phận Lào Cai dài 62 km được nối với đường sắt Trung Quốc, năng lực vận tải khoảng 1 triệu tấn/năm và hàng ngàn lượt khách/ngày đêm.
Du lịch
[sửa | sửa mã nguồn]Với 25 dân tộc cùng sinh sống, Lào Cai trở thành mảnh đất phong phú về bản sắc văn hóa, về truyền thống lịch sử, di sản văn hóa. Trong đó Người Việt chiếm số đông, có mặt khá sớm và đặc biệt chiếm tỉ lệ cao trong những năm 1960 bởi phong trào khai hoang và cán bộ được điều động từ thành phố Hải Phòng các tỉnh Phú Thọ,Thái Bình, Hà Nam...lên. Trong số các dân tộc khác thì đông hơn cả là Người H'Mông, Tày, Dao, Người Dáy,... Người Hoa chiếm tỉ lệ đáng kể. Chính sự phong phú về đời sống các dân tộc đã tạo ra một bản sắc riêng của Lào Cai. Việc các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai cùng phối hợp tiến hành khai thác Du lịch về cội nguồn chính là phát huy thế mạnh này và đã thu hút được dự quan tâm của du khách.
Là tỉnh miền núi cao, đang phát triển nên Lào Cai còn giữ được cảnh quan môi trường đa dạng và trong sạch. Đây sẽ là điều quan trọng tạo nên một điểm du lịch lý tưởng đối với du khách trong và ngoài nước.
Khu du lịch nghỉ mát Sa Pa - là một trong 21 khu du lịch quốc gia của Việt Nam. Đây là khu du lịch nổi tiếng hội tụ đủ những giá trị văn hóa đặc sắc, lâu đời của nhiều dân tộc bản địa cùng với khung cảnh thiên nhiên núi non hùng vĩ và khí hậu mát mẻ mang theo săc thái của vùng ôn đới với nhiệt độ trung bình 15-18 °C. Sa Pa nằm ở độ cao trung bình từ 1.200 m - 1.800 m, khí hậu mát mẻ quanh năm, có phong cảnh rừng cây núi đá, thác nước và là nơi hội tụ nhiều hoạt động văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc như chợ vùng cao, chợ tình Sa Pa. Sa Pa là một trong những địa điểm hiếm hoi có tuyết rơi tại Việt Nam, từ 1957 tới 2013 đã có 21 lần tuyết rơi tại Sa Pa. Lần tuyết rơi mạnh nhất vào ngày 13 tháng 2 năm 1968, liên tục từ 3 giờ sáng đến 14 giờ cùng ngày, dày tới 20 cm.
Dãy núi Hoàng Liên Sơn có đỉnh Fansipan được mệnh danh là nóc nhà của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào và Campuchia) và có khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên đa dạng sinh học, hấp dẫn nhiều nhà khoa học, khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu.
Lào Cai có nhiều địa danh lịch sử, hang động tự nhiên và các vùng sinh thái nông nghiệp đặc sản như mận Bắc Hà, rau ôn đới, cây dược liệu quý, cá hồi, cá tầm...
Cặp cửa khẩu quốc tế Lào Cai (Việt Nam) - Hà Khẩu thuộc Vân Nam (Trung Quốc) tách nhau qua sông Nậm Thi cũng là một điểm du lịch thú vị cho người tham quan.
Hình ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]- Ga Lào Cai
- Đền Mẫu Lào Cai
- Trên Quốc lộ 4D, đoạn đi qua huyện Mường Khương
- Công trình đang xây dựng ở gần cửa khẩu Hà Khẩu - Lào Cai.
- Nơi con sông Hồng chảy hoàn toàn trong lãnh thổ Việt Nam
- Cửa khẩu quốc tế Lào Cai
- Thị xã Sa Pa
- Tuyết rơi năm 2011 tại Sa Pa
- Hồ nước tại thị xã Sa Pa
- Dinh Vua Mèo Hoàng A Tưởng tại huyện Bắc Hà
- Thác Cát Cát
- Ruộng bậc thang
Văn hóa
[sửa | sửa mã nguồn]Cư dân sinh sống ở tỉnh Lào Cai gồm nhiều dân tộc khác nhau. Mỗi dân tộc đều có những phong tục, tập quán, trang phục, kiểu kiến trúc khác nhau mang dấu ấn văn hóa riêng. Đặc điểm này đã tạo cho Lào Cai bức tranh văn hóa rất đa dạng và phong phú.
Nét văn hóa đặc sắc của tỉnh là những phiên chợ vùng cao. Chợ không chỉ là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa mà phiên chợ ở đây cũng là dịp giao lưu, hát múa, vui chơi. Chợ còn là nơi trai gái hò hẹn, gặp gỡ hay tìm hiểu bạn đời...
Các dân tộc trong tỉnh có một kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian rất đa dạng như truyện cổ, thơ ca, tục ngữ. Người Tày có lối hát giao duyên khá phổ biến với các làn điệu như lượn, phong slu... Người Mường có hát xéc bùa, hát bọ mẹng, hát đồng dao, hát ru... Người Dao thích múa. Người Thái có các điệu múa xòe, sạp, hát thơ... Người H'Mông lại có điệu thổi khèn hay dùng kèn lá, đàn môi để trao đổi tâm tình... Một số lễ hội văn hóa tiêu biểu ở Lào Cai:
Hội múa xòe ở Tả Chài
Đây là lễ hội của người Tày ở Tả Chài diễn ra cào rằm tháng Giêng hàng năm để suy tôn Thần Nông, một vị thần cai quản ruộng nương. Trong lễ hội có nghi lễ và nhiều trò chơi dân gian thú vị, đậm bản sắc dân tộc vùng núi.
Hội chơi núi mùa xuân
Là lễ hội của người H'Mông còn được gọi là Gầu Tào hay Sán Sải. Lễ hội thường diễn ra sau Tết nguyên đán. Hội mang màu sắc tín ngưỡng như cầu may, cầu mệnh, cầu phúc... và còn là nơi vui chơi như đôi nam nữ, bắn nỏ, hát giao duyên, múa khèn, ném pa páo (giống quả còn)...
Tết nhảy của người Dao Đỏ
Khoảng cuối giờ Thìn đầu giờ Tỵ ngày mùng một hoặc mùng hai Tết ba dòng họ lớn ở Tả Phìn là Lý, Bàn, Triệu tổ chức nhảy trong nhà ông trưởng họ. Toàn bộ có 14 điệu nhảy như: mở đường, bắc cầu đưa đón thần linh, chào tổ tiên bố mẹ, mời lên nương, tiểu nữ giáng trần, tổ sư, thầy cả về dự Tết... Sau đó là lễ rước và tắm tượng tổ tiên. Tết nhảy giàu bản sắc, độc đáo, đậm tính nhân văn.
Hội Lồng Tồng của người Tày
Đây là lễ hội của nhiều tỉnh có người Tày sinh sống trong đó có huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. Lễ hội tổ chức vào tháng Giêng. Lễ hội phản ánh ước nguyện được mùa, con người khỏe mạnh, sinh nhiều con cháu... Phần lễ có nhiều nghi thức như rước nước, cúng thần bản, thần núi, thần suối, cúng cây. Trong lễ hội còn có rất nhiều trò chơi.
Lễ hội Roóng Poọc của người Dáy
Đây là lễ hội của người Dáy ở Tả Van, thị xã Sa Pa được được tổ chức vào ngày Thìn đầu tiên của tháng Giêng hàng năm. Đây là lễ hội cầu mùa thu hút đông đảo dân quanh vùng Mường Hoa nên đã trở thành lễ hội chung.
Lễ Lập tịch của người Dao
Lễ hội ở vùng Khe Mạ, Bảo Thắng được tổ chức trước hoặc sau Tết. Đây là nghi lễ của các gia đình khi có con trai 14 - 15 tuổi thì mời thầy đến làm lễ. Nghi lễ có nhảy từ tháp xuống lưới võng, lễ răn dạy. Nghi lễ cũng là ngày vui của cộng đồng. Sau nghi lễ có múa trống đất, múa sạp, múa gà, ca hát...
Ẩm thực
[sửa | sửa mã nguồn]Đặc điểm
[sửa | sửa mã nguồn]Lào Cai là tỉnh có nhiều đặc sản ẩm thực phong phú và đặc sắc. Có được điều này vì đây là nơi có nhiều dân tộc đang sinh sống trong đó có dân tộc Mông, Dao, Tày, Dáy, Nùng là nhiều nhất. Mỗi dân tộc lại có những món ẩm thực đặc trưng riêng. Người Mông sinh sống nhiều nhất ở các huyện Mường Khương, Si Ma Cai, Sa Pa, Bát Xát, Bắc Hà với những ẩm thực phổ biến như lợn cắp nách, gà đen, thắng cố, mèn mén, thịt gác bếp... Người Dao sinh sống nhiều nhất ở các huyện thấp và các huyện hữu ngạn sông Hồng với các ẩm thực như lạp xưởng, xôi màu, bánh lá rừng, thịt nướng... Người Tày sinh sống chủ yếu ở các huyện thấp như Bảo Yên, Bảo Thắng, Văn Bàn có các ẩm thực như cơm lam, bánh chưng đen, xôi ngũ sắc, phở chua, bánh khảo, lạp xưởng... Cộng đồng người Dao và người Tày do cùng sinh sống gần nhau nên nét ẩm thực có phần hơi tương đồng. Người Nùng ở Lào Cai sinh sống chủ yếu ở các huyện Si Ma Cai, Mường Khương, Bắc Hà cũng có các món ăn đặc trưng của dân tộc và ảnh hưởng của ẩm thực người Mông do cùng sinh sống. Ngoài ra còn người Dáy ở Bát Xát và số ít các dân tộc khác như Hà Nhì, Phù Lá, Bố Y, La Chí, Mường... càng làm thêm phong phú về ẩm thực.
Sự giao thoa giữa văn hóa ẩm thực người Kinh ở vùng đồng bằng sông Hồng như các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Nam Định... với nhiều người trước đây lên lập nghiệp sinh sống và ở lại đã mang đến và để lại tại nơi đây.
Sự phân hóa đa dạng của tự nhiên, từ vùng thung lũng bằng phẳng và núi thấp ở Bảo Yên, Bảo Thắng đến vùng núi cao Sa Pa, Bát Xát; từ vùng mưa nhiều sườn đông Hoàng Liên Sơn đến vùng núi đá, vùng cao nguyên Bắc Hà, vùng ít mưa hơn, vùng Mường Khương, Si Ma Cai làm đa dạng hệ thực vật từ các đặc sản nhiệt đới phổ biến đến các loại rau củ quả, dược liệu làm thực phẩm, dược liệu quý của vùng ôn đới như rau cải mèo, rau củ khởi, đỗ trọng, cải xoăn, đương quy, mắc cọp, đào, táo, sa nhân, hồng, atiso...
Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Để ý rằng Jean Dupuis thám hiểm sông Hồng và buôn bán theo tinh thần gây sự. Trong các hoạt động này thì họ thuê mướn những người dân tộc, để tránh giới chức chính quyền và không phải là người ủng hộ lực lượng quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đang thao túng vùng này. Sau này Dupuis cùng với Francis Garnier tạo ra biến cố Bắc Kỳ (1873), và Dupuis là người tích cực góp tay vào cuộc chinh phục Đông Dương của Pháp.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2020”. Quyết định số 387/QĐ-BTNMT 2022. Bộ Tài nguyên và Môi trường (Việt Nam).
- ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 89. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
- ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 92. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
- ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 98. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
- ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 100. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
- ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 89. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
- ^ Tổng cục Thống kê
- ^ Quyết định số 124/2004/QĐ-TTg của Chính phủ ngày 08/07/2004 ban hành Danh mục và mã số các đơn vị hành chính Việt Nam có đến 30/6/2004. Thuky Luat Online, 2016. Truy cập 11/04/2019.
- ^ Tập bản đồ hành chính Việt Nam. Nhà xuất bản Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam. Hà Nội, 2013.
- ^ “Dân số các tỉnh Việt Nam năm 2018”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập Ngày 30 tháng 9 năm 2019.
- ^ “Tình hình kinh tế, xã hội Lào Cai năm 2018”. UBND tỉnh Lào Cai. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2019. Truy cập Ngày 12 tháng 10 năm 2019.
- ^ Bản đồ Bắc Kỳ năm 1879, trong Il etait un Tonkin: Jean Dupuis. forez-info, 2012. Truy cập 22/04/2016.
- ^ Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam.
- ^ Theo "Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai", tập I - Nhà xuất bảnCTQG-Hà Nội, 1994.
- ^ a b c 尤中学术文选:中国西南边疆変迁史 Vu Trung, Tác phẩm học thuật chọn lọcː lịch sử thay đổi biên giới tây nam Trung Quốc, Nhà xuất bản Đại học Vân Nam, trang 60, năm 2014. ISBN 978-7-5482-1859-3.
- ^ Ngô Đức Thọ, Đồng Khánh địa dư chí, châu Thủy Vĩ, phử Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa. trang 732.
- ^ Lâm Tây Nguyên, Đại Việt địa dư toàn biên (bản chữ Hán Nôm), trang 70, quyển 1.
- ^ Đại Việt địa dư toàn biên (bản tiếng Việt), Lâm Tây Nguyên (林西原), trang 121.
- ^ Tân Đường thư, quyển 222 trung, Nam Man trung, Nam Chiếu tục.
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển 2 (bản chữ Hán).
- ^ Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư
- ^ Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời
- ^ Những người kế nhiệm De Maussion gồm: bác sĩ Martin - Dupont (tháng 6/1886), Đại tá Lelletier (tháng 10/1886), Vimard (1889), Laroze (1891), Sucillon (1893), Gigardot (1900), Boutrois (1902), Messager (1907)...
- ^ a b Thư viện tỉnh Lào Cai
- ^ Toàn quyền Pháp cho tỉnh Lao-Kay bằng Sắc lệnh ngày 12-7-1907, có hiệu lực từ ngày 01/8/1907, đưa Lào Cai về chế độ dân sự nhằm đẩy mạnh việc khai thác tài nguyên khoáng sản, cạnh tranh thương mại với vùng Tây Nam Trung Quốc. Bản sắc lệnh tiếng Pháp này do Toàn quyền Beau kí (và Tổng Tư lệnh quân đội Đông Dương Piel, Thống sứ Bắc Kì Bonhoure tiếp kí), có trên Công báo Đông Dương số 1053 ra ngày 18/7/1907 và bản có dấu mang kí hiệu N 1053, mã lưu 400 tại Trung tâm lưu trữ quốc gia (xem: http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=10395.10;wap2[liên kết hỏng]). Năm 2007 tỉnh Lào Cai làm lễ Kỷ niệm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đã lên dự
- ^ http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=10395.10;wap2[liên kết hỏng]
- ^ Sắc lệnh số 231/SL về việc điều chỉnh địa giới giữa 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái do Phủ Chủ tịch ban hành
- ^ “Lịch sử Đảng bộ thành phố Lào Cai (1950 - 2020)”. Trang thông tin điện tử thành phố Lào Cai.
- ^ Quyết định 197-QĐ năm 1966 về việc chia huyện Bắc Hà thuộc tỉnh Lào Cai thành hai huyện mới lấy tên là huyện Bắc Hà và huyện Si Ma Cai do Hội đồng Chính phủ ban hành
- ^ “Nghị quyết về việc hợp nhất một số tỉnh do Quốc hội ban hành”.
- ^ Quyết định 168-CP năm 1979 về việc hợp nhất một số huyện và thị xã thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn do Hội đồng Chính phủ ban hành
- ^ Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Quốc hội ban hành
- ^ Nghị định 36/2000/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Bắc Hà để tái lập huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai
- ^ Nghị định 16/2002/NĐ-CP về việc sáp nhập thị xã Lào Cai và thị xã Cam Đường thành thị xã Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai
- ^ Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh do Quốc hội ban hành
- ^ Nghị định 195/2004/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai; thành lập các phường thuộc thành phố Lào Cai
- ^ “Nghị quyết số 767/NQ-UBTVQH14 năm 2019 về việc thành lập thị xã Sa Pa và các phường, xã thuộc thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai”.
- ^ “Nghị quyết số 1197/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Lào Cai giai đoạn 2023 – 2025”. Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam. 28 tháng 9 năm 2024. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2024.
- ^ Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. “Dân số đến 01 tháng 4 năm 2019 - tỉnh Lào Cai”. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2020.
- ^ “PCI 2011: Lào Cai và Bắc Ninh 'vượt vũ môn' ngoạn mục”. Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lào Cai.- Tỉnh Lào Cai Lưu trữ 2010-03-06 tại Wayback Machine
| ||
---|---|---|
Thành phố trực thuộctrung ương (5) |
| |
Tỉnh (58) |
|
| ||
---|---|---|
Thành phố (1), Thị xã (1), Huyện (7) | ||
Thành phốLào Cai (Tỉnh lỵ) | Phường (10): Bắc Cường · Bắc Lệnh · Bình Minh · Cốc Lếu · Duyên Hải · Kim Tân · Lào Cai · Nam Cường · Pom Hán · Xuân Tăng Xã (7): Cam Đường · Cốc San · Đồng Tuyển · Hợp Thành · Tả Phời · Thống Nhất · Vạn Hòa | |
Thị xãSa Pa | Phường (6): Cầu Mây · Hàm Rồng · Ô Quý Hồ · Phan Si Păng · Sa Pa · Sa Pả Xã (10): Bản Hồ · Hoàng Liên · Liên Minh · Mường Bo · Mường Hoa · Ngũ Chỉ Sơn · Tả Phìn · Tả Van · Thanh Bình · Trung Chải | |
HuyệnBảo Thắng | Thị trấn (3): Phố Lu (huyện lỵ) · Nông trường Phong Hải · Tằng Loỏng Xã (11): Bản Cầm · Bản Phiệt · Gia Phú · Phong Niên · Phú Nhuận · Sơn Hà · Sơn Hải · Thái Niên · Trì Quang · Xuân Giao · Xuân Quang | |
HuyệnBảo Yên | Thị trấn (1): Phố Ràng (huyện lỵ) Xã (16): Bảo Hà · Cam Cọn · Điện Quan · Kim Sơn · Lương Sơn · Minh Tân · Nghĩa Đô · Phúc Khánh · Tân Dương · Tân Tiến · Thượng Hà · Việt Tiến · Vĩnh Yên · Xuân Hòa · Xuân Thượng · Yên Sơn | |
HuyệnBát Xát | Thị trấn (1): Bát Xát (huyện lỵ) Xã (20): A Lù · A Mú Sung · Bản Qua · Bản Vược · Bản Xèo · Cốc Mỳ · Dền Sáng · Dền Thàng · Mường Hum · Mường Vi · Nậm Chạc · Nậm Pung · Pa Cheo · Phìn Ngan · Quang Kim · Sàng Ma Sáo · Tòng Sành · Trịnh Tường · Trung Lèng Hồ · Y Tý | |
HuyệnBắc Hà | Thị trấn (1): Bắc Hà (huyện lỵ) Xã (17): Bản Cái · Bản Liền · Bản Phố · Bảo Nhai · Cốc Lầu · Cốc Ly · Hoàng Thu Phố · Lùng Cải · Lùng Phình · Na Hối · Nậm Đét · Nậm Khánh · Nậm Lúc · Nậm Mòn · Tả Củ Tỷ · Tả Van Chư · Thải Giàng Phố | |
HuyệnMường Khương | Thị trấn (1): Mường Khương (huyện lỵ) Xã (15): Bản Lầu · Bản Sen · Cao Sơn · Dìn Chin · La Pan Tẩn · Lùng Khấu Nhin · Lùng Vai · Nậm Chảy · Nấm Lư · Pha Long · Tả Gia Khâu · Tả Ngài Chồ · Tả Thàng · Thanh Bình · Tung Chung Phố | |
HuyệnSi Ma Cai | Thị trấn (1): Si Ma Cai (huyện lỵ) Xã (9): Bản Mế · Cán Cấu · Lùng Thẩn · Nàn Sán · Nàn Sín · Quan Hồ Thẩn · Sán Chải · Sín Chéng · Thào Chư Phìn | |
HuyệnVăn Bàn | Thị trấn (1): Khánh Yên (huyện lỵ) Xã (21): Chiềng Ken · Dần Thàng · Dương Quỳ · Hòa Mạc · Khánh Yên Hạ · Khánh Yên Thượng · Khánh Yên Trung · Làng Giàng · Liêm Phú · Minh Lương · Nậm Chày · Nậm Mả · Nậm Dạng · Nậm Tha · Nậm Xây · Nậm Xé · Sơn Thủy · Tân An · Tân Thượng · Thẩm Dương · Võ Lao |
Từ khóa » đăng Châu Lào Cai
-
Đường Đăng Châu, Thành Phố Lào Cai, Tỉnh Lào Cai
-
Quán Cafe - 127, Đăng Châu, P. Duyên Hải, Thành Phố Lào Cai, T ...
-
101, đường Đăng Châu, Phường Duyên Hải, Thành Phố Lào Cai ...
-
051, đường Đăng Châu, Phường Duyên Hải, Thành Phố Lào Cai ...
-
Đăng Châu, Lào Cai
-
Đăng Châu, Lào Cai
-
005 Đăng Châu Quán - Ẩm Thực Trung Hoa - Facebook
-
Khu Phức Hợp Tại Đăng Châu, Phường Duyên Hải, Lào Cai, Lào Cai ...
-
Đường Đăng Châu, Phường Cốc Lếu, Thành Phố Lào Cai, Lào Cai
-
đăng Châu — Lào Cai, Việt Nam, Tìm Thấy 1 Công Ty - Polomap
-
Cần Bán Nhà Riêng, Đường Đăng Châu Lào Cai
-
Bán đất Tại Đăng Châu, Phường Duyên Hải, Lào Cai ... - SoSanhNha
-
Bán Nhà Mặt Phố Tại Đăng Châu, Phường Duyên Hải, Lào Cai, Lào ...