Lễ Mai-khôi Và ý Nghĩa Kinh Mân-côi - TGP SÀI GÒN

Theo Hán-Việt Từ-điển của Đào Duy Anh thì hai chữ Mai-khôi có nghĩa là một loại ngọc tốt rất quí và Mai-khôi hoa là hoa hồng, hoa quế đỏ (rose rouge). Riêng trong đạo, chữ này đã được đọc trại ra thành nhiều cách tùy theo thói quen mà mỗi người, mỗi nơi dùng một kiểu như Mân-côi, Văn-côi, Môi-khôi, Mai-khôi; song tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí.

Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai-khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy mới mẻ và thanh nhã hơn, đồng thời đúng ý-nghĩa đã được chuyển từ nguyên ngữ về chuỗi Mai-khôi; chẳng hạn như trong Pháp ngữ là Rosaire và Anh ngữ là Rosary, v.v... cũng đều liên-hệ đến hoa hồng.

Chuỗi Mai-khôi là chuỗi gồm một trăm năm chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ. Vì vậy chuỗi Mai-khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, với một trăm năm mươi kinh Kính mừng như những lời thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.

1. Nguồn gốc chuỗi Mai-khôi

kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai-khôi. Sau này, năm 1328 người ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai-khôi cho thánh Đa-minh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau là thánh Đa-minh đã lập ra chuỗi Mai-khôi. Vì thế, trong dòng Đa-minh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai-khôi cho thánh Đa-minh.

Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đa-minh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương, quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo Công-giáo. Thánh Đa-minh làm việc tông-đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai-khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, để thay đổi và cho đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng rồi sau cùng gần đây thêm các sự sáng.

Từ thế kỷ XV trở đi, việc lần chuỗi Mai-khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.

Hai tu sĩ dòng Đa-minh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai-khôi. Từ thế kỷ XVI, các Đức Giáo-hoàng chính thức giao cho dòng Đa-minh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai-khôi và thành lập các hội Mai-khôi.

Vào tháng 10 năm 2002, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô đệ nhị đã thêm vào Kinh Mân-côi Mầu-nhiệm Sự Sáng.

2. Nguồn gốc lễ Mai-khôi

Chúa nhật 7.10.1571, hải quân Công-giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai-khôi đang rước kiệu trong thành phố.

Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, Đức Giáo-hoàng Pi-ô V, ngày 5 tháng 3 năm 1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 01 tháng 4 năm 1573, Đức Giáo-hoàng Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai-khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai-khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, Đức Giáo-hoàng Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội Thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai-khôi được ấn định vào ngày 7 tháng10 mỗi năm.

3. Ý nghĩa của chuỗi Mai-khôi và lễ Mai-khôi

Trên đây là nguồn gốc của chuỗi Mai-khôi và lễ Mai-khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai-khôi là để tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội Thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai-khôi: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Nhưng thật là oái oăm vì nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy; thành ra tuy chúng ta tin rằng Thiên Chúa làm được tất cả nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn tỏ ra hoài nghi và chán nản khi thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng. Bởi thế, giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, chúng ta cần nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai-khôi và lễ Mai-khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.

Linh-mục An-rê Đỗ xuân Quế O.P

(Dòng Đa-Minh - Việt- Nam) Trích từ “GIÁO LÝ ĐẠI CƯƠNG CHO NGƯỜI LỚN”của Lm. Đỗ Xuân Quế - Lm. Vũ Khởi Phụng - Phạm Minh-TâmTIN VUI ấn hành tại Hoa-kỳ

Từ khóa » đức Mẹ Mai Khôi