Lịch Sử Ai Cập Cổ đại

555

Tìm hiểu tổng quan về Lịch sử Ai Cập cổ đại.

Mục lục ẩn I. Địa lý và cư dân. II. Các thời kỳ lịch sử của Ai Cập cổ đại. 1. Thời kỳ Tảo Vương quốc. 2. Thời kỳ Cổ Vương quốc. 3. Thời kỳ Trung Vương quốc. 4. Thời kỳ Tân vương quốc. 5. Thời Hậu kỳ vương quốc. III. Tình hình kinh tế xã hội và bộ máy nhà nước. 1. Các ngành kinh tế 2. Tình hình ruộng đất 3. Quan hệ giai cấp. 4. Tầng lớp thợ thủ công 5. Bộ máy nhà nước.

I. Địa lý và cư dân.

Ai cập ở vùng Đông bắc Châu Phi, nằm dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực sông Nin. Sông Nin bắt nguồn từ vùng xích đạo của Châu Phi, dài 6700 Km, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài 700 km. Miền đất đai do sông Nin bồi đắp chỉ rộng từ 15-25 km, ở phí Bắc có nơi rộng đến 50 km vì ở đây sông Nin chia làm nhiều nhánh trước khi đổ ra biển.

Hàng năm, từ tháng 6 đến tháng 11,nước sông Nin dâng cao đem theo một lượng phù sa rất phong bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày càng thêm màu mỡ. Chính vì vậy nền kinh tế ở đây phát triển sớm tạo điều kiện cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm nhất thế giới.

Tuy vậy, về mặt địa hình, Ai Cập là một nước tương đối bị đóng kín: Phía Bắc giáp Địa Trung Hải, phía Đông giáp biển Đỏ, phiá Tây giáp sa mạc Xahara, phía Nam giáp một vùng núi hiểm trở khó qua lại của Nubi. Chỉ có ở Đông Bắc, vùng kênh đào Xuy-ê sau này, người Ai Cập cổ đại mới có thể qua lại với vùng Tây Á.

Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dòng chảy của sông Nin từ Nam lên Bắc: miền Thượng Ai Cập (miền Nam) là một dải lưu vực hẹp; miền Hạ Ai Cập (miền Bắc) là một đồng bằng hình tam giác.

Cư dân Ai Cập thời cổ đại là người Libi, người da đen và có thể có cả người Xêmít di cư từ châu Á tới nữa.

II. Các thời kỳ lịch sử của Ai Cập cổ đại.

Theo Manêtông (Manéthon), một thầy tu kiêm sử gia Ai Cập sống vào thế kỷ III TCN, tác giả quyển “Lịch sử Ai Cập” nay đã thất truyền thì lịch sử Ai Cập cổ đại bao gồm 31 vương triều. Trên cơ sở ấy, người ta chia lịch sử Ai Cập từ cuối thiên kỷ IV TCN đến cuối thiên kỷ I TCN thành 5 thời kỳ :

  • Thời kỳ Tảo vương quốc (3200 – 3000 TCN).
  • Thời kỳ Cổ vương quốc (3000 – 2200 TCN).
  • Thời kỳ Trung vương quốc (2200 – 1570 TCN).
  • Thời kỳ Tân vương quốc (1570 – 1090 TCN).
  • Thời Hậu kỳ vương quốc (1090 – 332 TCN).

(Về niên đại các thời kỳ lịch sử Ai Cập cổ đại, các tài liệu đưa ra những con số khác nhau, vì vậy những con số này chỉ có ý nghĩa tương đối.)

1. Thời kỳ Tảo Vương quốc.

Cư dân đầu tiên ở Ai Cập cũng sống trong xã hội nguyên thủy. Đến thiên kỷ thứ IV TCN, công xã thị tộc tan rã, công xã nông thôn xuất hiện. Dần dần các công xã nông thôn liên hợp lại thành các châu. Đó là những nhà nước đầu tiên ở Ai Cập. Tiếp đó các châu lại liên hợp với nhau và hình thành hai miền gọi là Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập. Đến cuối thế kỷ IV TCN, hai miền đã đấu tranh với nhau, kết qủa là Thượng Ai Cập đã thống nhất được Hạ Ai Cập.

Sau khi thống nhất, lịch sử Ai Cập bước vào một thời kỳ gọi là Tảo vương quốc gồm hai vương triều là Vương triều I và Vương triều II.

2. Thời kỳ Cổ Vương quốc.

Thời kỳ Cổ vương quốc bao gồm 8 vương triều từ vương triều III đến vương triều X. Đây là thời kỳ lịch sử Ai Cập có một bước phát triển quan trọng. Chính sự phát triển về kinh tế và sự tăng cường quyền lực của chính phủ trung ương đã cho phép các Pharaông (vua) thuộc các vương triều III và vương triều IV có` thể huy động sức người sức của để xây cho mình những Kim tự tháp nổi tiếng trong lịch sử. Trước kia kinh đô của Ai Cập đóng ở Abiđốt nhưng bắt đầu từ vương triều III thì chuyển đến Memphít.

Sự thống nhất hùng mạnh của Ai Cập chỉ duy trì được trong hai vương triều III và IV, tiếp đó Ai Cập bước vào thời kỳ hỗn loạn kéo dài trong nhiều thế kỷ.

3. Thời kỳ Trung Vương quốc.

Sau một thời gian chia cắt, ở miền Bắc và miền Nam đã hình thành hai trung tâm của việc thống nhất đất nước là Hêraclêôpôlít và Tebơ (Thèbes) đến khỏang năm 2200 TCN, một lần nữa, miền Nam lại thống nhất được cả nước. Vua Mentuhôtép của Tebơ trở thành vua của cả Ai Cập. Vương triều XI bắt đầu được thành lập. Thời kỳ Trung Vương quốc gồm 7 vương triều (từ vương triều XI đến vương triều XVII), nhưng trong đó thời kỳ ổn định nhất là dưới thời thống trị của vương triều XI và vương triều XII.

Sau đó, thời Trung vương quốc có hai sự kiện nổi bật, đó là cuộc khởi nghĩa của dân nghèo và sự thống trị miền bắc Ai Cập của người Hích Xốt.

– Đến năm 1750 TCN, do chính sách áp bức bóc lột tàn bạo của giai cấp thống trị, nhân dân ở kinh đô đã nổi dậy khởi nghĩa. Quần chúng khởi nghĩa trước hết đến bắt vua, lật đổ chính quyền trung ương. Cả bộ máy thống trị cũ bị sụp đổ, tất cả những người trong cung bị đuổi khỏi cung đình. Ngay sau đó, quần chúng khởi nghĩa thành lập chính quyền mới, tự quản lý các mặt hành chính, tư pháp và tài chính. Tuy vậy, cuối cùng cuộc khởi nghĩa này không tránh khỏi bị thất bại, giai cấp thống trị lại khôi phục được chính quyền của mình.

– Sau khi dẹp tắt được ngọn lửa đấu tranh của quần chúng nhân không lâu, Ai Cập bị người HíchXốt, một bộ tộc ở vùng Palextin xâm nhập. Kết quả là năm 1710 TCN, người HíchXốt chinh phục được miền Bắc Ai Cập, lập nên ở đây một vương triều ngoại tộc rồi lấy miền Bắc làm địa bàn để khống chế cả miền Người Hích Xốt thống trị Ai Cập trong vòng 140 năm, đến năm 1570 mới bị đánh đuổi.

4. Thời kỳ Tân vương quốc.

Thời kỳ Tân vương quốc bao gồm 3 vương triều từ vương triều XVIII đến vương triều XX.

Chính sách thống trị của người Hích xốt làm cho nhân dân Ai Cập hết sức căm phẫn, vì vậy họ không ngừng nổi dậy đấu tranh. Đến năm 1570, vua Atmét (Ahmès) ở miền Nam đã lãnh đạo nhân dân Ai Cập đánh đuổi được người Hích Xốt khôi phục nền độc lập và thống nhất cho đất nước. Atmét là người sáng lập vương triều XVIII, từ đó lịch sử Ai Cập bước vào thời kỳ Tân vương quốc.

Từ đây, Ai Cập trở thành một nước hùng mạnh. Trên cơ sở ấy, Atmét và những người kế thừa ông đã thi hành chính sách xâm lược bên ngoài, do đó đã biến Ai Cập thành một đế quốc có lãnh thổ bao gồm Libi, Nubi ở Châu Phi và Xiri, Phênixi, Palextin ở Châu Á.

Đến cuối thời vương triều XVIII, ở Ai Cập có một sự kiện quan trọng, đó là cuộc cải cách tôn giáo của Íchnatôn.

Nguyên nhân của cuộc cải cách tôn giáo này là sau các cuộc chiến tranh thắng lợi, các Pharaông Ai Cập thường ban cấp nhiều của cải cho các đền thờ thần mặt trời Amôn, do đó đã làm cho thế lực của tầng lớp tăng lữ (những người hành nghề tôn giáo) đền thờ thần Amôn nhất là các tăng lữ ở kinh đô Tebơ mạnh hẳn lên. Dựa vào thế lực kinh tế và uy lực tôn giáo, tầng lớp tăng lữ trở nên có vai trò quan trọng về chính trị, có thể cử người của mình làm Tể tướng, biến vua thành bù nhìn.

Vì vậy, đến đầu thế kỷ XIV TCN, vua Amenhôtép IV đã tiến hành một cuộc cải cách nhằm làm yếu thế lực của tầng lớp tăng lữ đền thờ thần Amôn, lịch sử gọi là cuộc cải cách tôn giáo Íchnatôn.

Để thực hiện mục đích của mình, Amenhôtép IV chủ trương thờ một thần mặt trời khác gọi là thần Atôn, cấm thờ cúng tất cả các thần khác. Ông còn sai thợ đá đi xóa tên các thần khắc trên tường nhất là tên thần Amôn. Bản thân ông cũng không dùng hiệu Amenhôtép nữa vì có mang tên thần Amôn mà đổi thành Íchnatôn nghĩa là “Người hầu của thần Atôn”. Hơn nữa Amenhôtép IV (Íchnatôn) còn bỏ kinh đô Tebơ, nơi thế lực tầng lớp tăng lữ thờ thần Amôn rất mạnh, xây dựng một kinh đô mới và đặt tên là Akhêtatôn có nghĩa là “Chân trời của thần Atôn”.

Như vậy, về hình thức, cuộc cải cách của Amenhôtép IV là một cuộc cải cách tôn giáo, nhưng thực chất đó là một cuộc đấu tranh chính trị nhằm tăng cường quyền lực của vua và chính phủ trung ương.

Những biện pháp cải cách của Amenhôtép IV chỉ được thực hiện trong thời gian trị vì của ông. Sau khi ông chết, các vua nối ngôi dần dần xóa bỏ các nội dung cải cách, thậm chí thành Akhêtatôn cũng bị phá hủy.

Trong khi đó, vùng Xiri, Palextin thuộc Ai Cập đang bị người Hítít, tấn công. Cư dân ở đây liên minh với người Híttít để chống lại Ai Cập.

Đến vương triều XX, chính quyền trung ương càng suy yếu, xu hướng chia cắt đất nước ngày càng gia tăng. Đến khoảng năm 1090 TCN, thời kỳ Tân vương quốc kết thúc.

5. Thời Hậu kỳ vương quốc.

Từ vương triều XXI trở đi là thời Hậu kỳ vương quốc trong lịch sử Ai Cập. Từ đây Ai Cập luôn bị chia cát trầm trọng, do vậy đã thành nơi thống trị của các thế lực bên ngoài.

Vào giữa thế kỷ X TCN, một thủ lĩnh quân đội đánh thuê Libi đã dành được ngôi Pharaông lập ra một vương triều ngoại tộc.

Đến thế kỷ VIII TCN, người Nubi ở phía Nam đã tấn công Ai Cập lật đổ vương triều của người Libi và thành lập một vương triều ngoại tộc mới vào năm 726 TCN. Đó là vương triều XXV.

  • Năm 671 TCN, Ai Cập lại bị Atxiri thống trị.
  • Năm 654 TCN, một qúy tộc ở miền Bắc đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi được người Atxiri lập nên vương triều XXVI (654 – 525 TCN).
  • Năm 525 TCN, Ai Cập bị BaTư xâm lược và thống trị (525 – 332 TCN).
  • Năm 332 TCN, Ai Cập bị Alếchxăng Makêđônia chinh phục. Sau khi Alếchxăng chết, Ai Cập thuộc quyền thống trị của tướng Ptôlêmê và tiếp đó là vương triều Ptôlêmê cho đến năm 30 TCN thì bị nhập vào đế quốc LaMã.

III. Tình hình kinh tế xã hội và bộ máy nhà nước.

1. Các ngành kinh tế

a/ Công cụ sản xuất:

Thời Cổ vương quốc chỉ mới biết dùng đồng đỏ. Thời Trung vương quốc đã dùng đồng pha thiếc nhưng tỉ lệ thiếc qúa cao nên chưa gọi là đồng thau, đồng thời đồng đỏ vẫn giữ vai trò chủ yếu.

Đến thời Tân vương quốc, đồng thau mới được sử dụng rông rãi, về sau, sắt đã bắt đầu xuất hiện nhưng sắt còn rất hiếm nên được coi là một kim loại qúy.

b/ Nông nghiệp:

Nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế của Ai Cập cổ đại được nhà nước rất quan tâm.

– Từ thời Tảo vương quốc đã có lễ “xuống cày”. Trong lễ đó, vua đội mũ miện, cầm cuốc cuốc luống đất đầu tiên. Sau vua, có người cầm giỏ gieo hạt giống xuống luống đất vua vừa mới cuốc.

– Thủy lợi có vai trò quan trọng đối với nền nông nghiệp của nước này, vì vậy nhà nước rất quan tâm đến việc xây dựng các công trình thủy lợi. Đến thời Tân vương quốc, việc tưới nước do quan Tể tướng quản lý.

– Tuy công cụ còn thô sơ nhưng nhờ đất đai màu mỡ lại biết chú ý đến thủy lợi nên nền nông nghiệp của Ai Cập đã khá phát triển. Từ thời Cổ vương quốc, Ai Cập đã biết trồng nhiều loại cây như lúa mì, đại mạch, đậu, rau, ôliu v…

c/ Thủ công nghiệp.

Ai Cập có nhiều kim loại qúy như vàng, đồng, chì, kền… và nhiều loại đá trong đó có nhiều loại đá qúy như mã não, bích ngọc v.v… Đó là những nguyên liệu giúp cho các nghề thủ công như nghề luyện kim, nghề kim hoàn,nghề chế tác đá.v.v… phát triển.

Ngoài ra, từ sớm Ai Cập còn có các nghề khác như nghề làm đồ gốm, nghề dệt, nghề thuộc da, nghề làm đồ thủy tinh. Đến thời Tân vương quốc, người Ai Cập đã chế tạo được thủy tinh màu và đồ sứ.

d/ Thương nghiệp.

– Từ thời Cổ vương quốc đã có trao đổi nhưng chỉ mới tiến hành dưới hình thức lấy vật đổi vật. Tuy vậy từ thời kỳ này đã có quan hệ trao đổi với nước Pun ở phía Nam và với Xiri ở phía Bắc.

– Thời Trung và Tân vương quốc, thương nghiệp càng phát triển nhất là việc buôn bán với bên ngoài. Hàng hóa qúy được đưa về Ai Cập ngày càng nhiều. Thời kỳ này vàng và bạc được dùng làm vật môi giới trong việc trao đổi.

2. Tình hình ruộng đất

Quyền sở hữu ruộng đất ở Ai Cập cổ đại trong các thời kỳ không hoàn toàn giống nhau.

– Đầu thời cổ vương quốc, toàn bộ ruộng đất trong nước thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Trên cơ sở đó, vua giữ lại một phần do mình trực tiếp quản lý, một phần ban cấp cho qúy tộc quan lại đền miếu, một phần giao cho các công xã nông thôn.

Phần ruộng đất do vua và quan lại quản lý được tổ chức thành các nông trang.

– Cuối thời Cổ vương quốc, một số công xã nông thôn tan rã. Ruộng tư bắt đầu xuất hiện.

– Thời Trung và Tân vương quốc, công xã nông thôn càng tan rã nhiều, ruộng tư càng ngày càng phát triển. Tuy vậy, quyền sở hữu tối cao về ruộng đất vẫn thuộc về nhà nước tức là thuộc về

3. Quan hệ giai cấp.

Trong xã hội Ai Cập cổ đại có các giai cấp và tầng lớp sau đây:

a/ Giai cấp bóc lột:

Giai cấp này gồm hai bộ phận chính là vua quan và tăng lữ. Tư liệu sản xuất chủ yếu của họ là ruộng đất mà nguồn ruộng đất chủ yếu là do nhà nước ban tặng.

Để quản lý và canh tác ruộng đất của mình, các quan lại và các đền miếu tổ chức thành những nông trang rồi thuê nông dân nông trang sản xuất để thu hoạch toàn bộ hoặc giao đất cho nông dân nông trang cày cấy rồi thu địa tô.

Ngoài ruộng đất, giai cấp này còn có rất nhiều nô lệ. Một bộ phận nô lệ cũng có tham gia sản xuất nhưng phần lớn nô lệ bị sử dụng vào việc hầu hạ.

b/ Giai cấp nông dân.

Giai cấp nông dân là giai cấp đông đảo nhất và là giai cấp giữ vai trò quan trọng nhất trong đời sống kinh tế xã hội. Do quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất có nhiều loại khác nhau nên giai cấp nông dân ở Ai Cập cổ đại bao gồm ba loại: nông dân công xã, nông dân nông trang và nông dân tự canh.

Cùng với sự phát triển của lịch sử, tỷ lệ giữa ba loại nông dân đó tuy có thay đổi nhưng nói chung nông dân công xã là thành phần đông đảo nhất.

Họ cày cấy ruộng đất của công xã chia cho nhưng họ là dân tự do và được gọi là “thần dân của Vua”.

Nông dân tự canh là loại nông dân có một ít ruộng đất riêng. Loại này đã xuất hiện từ thời Cổ vương quốc. Về số lượng, loại này chiếm tỷ lệ rất nhỏ.

Nông dân nông trang là loại nông dân không có ruộng đất. Họ phải canh tác ruộng đất trong các nông trang của vua, quan, đền miếu.

Nông dân công xã và nông dân tự canh có nghĩa vụ phải nộp thuế, đi phu và đi lính cho nhà nước, còn nông dân nông trang thì hoặc là làm việc rồi được nhận thù lao, hoặc là được giao cho một mảnh đất để canh tác rồi phải nộp địa tô.

c/ Giai cấp nô lệ.

Giai cấp nô lệ ở Ai Cập cổ đại tương đối đông. Nguồn nô lệ chính là tù binh, những người bản xứ bị nô dịch và những người do các nước lệ thuộc cống nạp.

Nô lệ thuộc quyền sở hữu của nhà nước, của vua, của qúy tộc quan lại, của đền miếu, của tăng lữ. Ngoài ra, một số binh lính, thợ thủ công, nông dân khá giả cũng có nô lệ.

Nô lệ phần lớn bị sử dụng vào những công việc phi sản xuất như hầu hạ chủ, làm các công việc trong nhà, xây dựng các công trình kiến trúc v.v…. Có một số nô lệ cũng bị sử dụng vào việc sản xuất nông nghiệp. Tuy vậy, nói chung vai trò của giai cấp nô lệ trong nền kinh tế của Ai Cập cổ đại rất có hạn.

4. Tầng lớp thợ thủ công

Tầng lớp thợ thủ công ở Ai Cập cổ đại chia làm hai loại: Loại thợ thủ công làm việc trong các nông trang của quan lại và đền miếu, và loại thợ thủ công tự do.

Loai thợ thủ công làm việc trong các nông trang bị quản lý rất chặt chẽ nên quyền tự do bị hạn chế.

Loại thợ thủ công tự do phần lớn sống ở thành thị. Họ làm các nghề như thợ giày, thợ mộc, thợ nề, thợ đá, thợ giặt, thợ cạo v.v… . Nói chung họ phải làm việc rất vất vả nhưng đời sống rất khổ cực. Tuy nhiên trong đó có một số ít có cuộc sống khá giả. Đó là những thợ thủ công được làm việc cho nhà vua.

Về tầng lớp buôn bán thì mãi đến thời Tân vương quốc mới xuất hiện, trong đó có một số chuyên bán các thứ như lương thực, bánh, rượu, thịt v.v… do các đền miếu giao cho. Những người này đều bị lệ thuộc vào đền miếu. Ngoài ra còn có một số người buôn bán phục vụ cho tư nhân. Nói chung tầng lớp buôn bán ở Ai Cập cổ đại chưa phát triển lắm.

5. Bộ máy nhà nước.

Bộ máy nhà nước Ai Cập cổ đại được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế. Đứng đầu bộ máy nhà nước ấy là vua được gọi là Pharaông có nghĩa là “cung điện”. Pharaông là người có quyền lực vô cùng lớn, là người đứng đầu về chính trị và còn đứng đầu về tôn giáo. Pharaông Ai Cập còn được thần thánh hóa, ví dụ vua sáng lập vương triều V được nói là con của một nữ tu sỹ với thần Ra. Chính nhờ có uy quyền lớn như vậy nên nhiều Pharaông ở Ai Cập đã có thể xây cho mình những kim tự tháp nổi tiếng.

Dưới vua là một bộ máy quan lại trung ương và địa phương mà người đứng đầu là Tể tướng. Tể tướng có quyền quản lý các công việc về chính trị, tài chính, kinh tế. Quan Tể tướng cũng là quan chánh án tối cao.

Cấp hành chính địa phương dưới trung ương gọi là Châu. Viên quan đứng đầu các Châu gọi là châu trưởng. Chức quan này không những có quyền quản lý mọi công việc ở trong châu mà còn là người đứng đầu tôn giáo ở địa phương.

(Nguồn tài liệu: Nguyễn Gia Phu, Giáo trình Lịch sử thế giới cổ đại)

5/5 - (1 bình chọn)Bài viết liên quan:
  1. Lịch sử Lưỡng Hà cổ đại
  2. Lịch sử Ấn Độ cổ đại
  3. Lịch sử Trung Quốc cổ đại
  4. Lịch sử La Mã cổ đại
Lịch sử thế giớiLịch sử thế giới cổ đạiThời cổ đại

Từ khóa » Sự Ra đời Của Nhà Nước Ai Cập Cổ đại