LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CUỐN THÁNH KINH (Phần 1)
Có thể bạn quan tâm
- Trang Chủ
- Giới Thiệu
- Tài Liệu
- Ơn Gọi
- Tin, Thông Báo
- Giáo Hội
- Suy Niệm
- Hình Ảnh
- Audio Đạo
- Video
- Trang Nhạc
- Vườn Thơ
- English Info
- Liên Kết
- Sức khoẻ
- Bài Mới
- Hiệp Hội MTG Tại Thế
- Liên Lạc
- Login
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CUỐN THÁNH KINH (Phần 1)11/3/2013 1 Comment LỊCH SỬ HÌNH THÀNH QUYỂN THÁNH KINH Linh mục Augustinô Nguyễn Văn Trinh VÀI LỜI DẪN NHẬP Thánh công đồng Vaticanô II dạy chúng ta về sách Cựu Ước như sau: Lý do sự hiện hữu của nhiệm cục cứu rỗi thời Cựu Ước, là để chuẩn bị và tiên báo ngày xuất hiện của Chúa Kitô, Đấng Cứu chuộc muôn loài (x.Lc 24,44; Ga 5,39; 1 Pr 1,10) và ngày khai nguyên Vương quốc của Đấng Mêssias, đồng thời biểu thị các biến cố ấy dưới nhiều hình bóng khác nhau (x.1 Cr 10,11). Thích ứng với hoàn cảnh nhân loại sống trước thời cứu độ do Chúa Kitô thiết lập, các sách Cựu Ước trình bày cho mọi người biết Thiên Chúa là ai và con người là ai, đồng thời trình bày Thiên Chúa công bình và nhân từ đối xử với loài người như thế nào, tuy có nhiều khuyết điểm và tạm bợ, nhưng các sách ấy minh chứng khoa sư phạm đích thực của Thiên Chúa. Do đó, các kitô hữu phải thành kính đón nhận các sách này, vì chúng diễn tả một cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Người, những tư tưởng khôn ngoan và hữu ích về đời sống con người, những kho tàng kinh nguyện tuyệt diệu, và sau cùng ẩn chứa mầu nhiệm cứu rỗi chúng ta" (Dei Verbum 15). Tại Việt Nam, mãi sau cuộc Cách Mạng 1975, chúng ta mới có được một quyển Kinh Thánh trọn bộ của linh mục Nguyễn Thế Thuấn; rồi đến năm 1999 quyển Kinh Thánh trọn bộ của nhóm PVCGK ra đời. Thế là chúng ta mới có hai quyển Thánh Kinh trọn bộ. Trước cuộc Cách mạng, ai muốn đọc Kinh Thánh trọn bộ phải đọc bằng ngoại ngữ. Dù biết rằng "Thánh Kinh và Thánh Truyền họp thành một kho tàng thánh thiện duy nhất chứa đựng lời Thiên Chúa và được ủy thác cho Hội Thánh" (DV 10), thế nhưng sự thiếu thốn về mặt bản văn, khiến chúng ta chỉ giữ đạo theo một kiểu truyền thống và truyền khẩu. Sau cuộc Cách Mạng 1975, chúng ta có được Kinh Thánh trọn bộ trong tay, nhiều người cố gắng đọc, thế nhưng Kinh Thánh là quyển sách của đức tin, trải qua biết bao nhiêu thời gian, thế hệ, thể loại văn chương, phong tục.nhất là nằm dưới lịch sử chiến đấu của một dân tộc, nên rất khó hiểu. Với sự khao khát của giáo dân, giáo sĩ càng phải đào sâu, tìm hiểu quyển sách niềm tin này để hướng dẫn giáo dân. Chính trong cố gắng này, chúng ta tìm hiểu sơ qua cuộc hình thành của quyền Thánh Kinh. Trước khi đi vào chủ đề, có một vài nhận định sơ khởi cần phải chú ý để có thể hướng dẫn cách đúng đắn hơn: Nhiều người chưa quen với Thánh Kinh, khi cầm một quyển trong tay, đều cho rằng các tác phẩm Thánh Kinh hình thành theo trật tự đã được sắp xếp trong quyển sách. Theo quan niệm này, thì bài tường trình Sáng tạo, vì nằm đầu quyển sách, nên được coi như phần cổ nhất trong Kinh Thánh. Cũng như đối với sách Tân Ước, người ta cũng cho việc hình thành theo trật tự đã được trình bày theo sách, các Phúc Âm, tiếp đến là sách Công vụ, các thư Phaolô.và kết thúc bằng Khải Huyền. Họ cho cách sắp xếp này là theo trình tự thời gian hình thành. Nhiều người đọc sách Thánh, xem Thiên Chúa mặc khải cho con người mà không chú ý gì đến trình độ phát triển của con người, môi trường văn hóa, trình độ hiểu biết của con người. Họ cho Thiên Chúa tự mặc khải cho Ađam cũng như cho Abraham, hay Môisen hay ngôn sứ Isaia. Từ khi Norbert Lohfink nêu câu hỏi: "Abraham dâng lễ vật cho Thiên Chúa nào?", bấy giờ người ta mới chú ý đến trình độ đón nhận của loài người. Chúng ta biết rằng quyển Cựu Ước được hình thành trong vòng 1000 năm, trải qua biết bao biến chuyển trong lịch sử về đủ mọi mặt, từ một dân du mục, sang địch cư, rồi thời kỳ quân chủ, chuyển sang nô lệ phải luôn luôn đấu tranh, suy tư và nhận thức con người phải chịu ảnh hưởng của môi trường cũng phải biến chuyển theo; niềm tin cũng không ngoại lệ. Về vấn đề tên tác giả của các sách Thánh, người ta quen thuộc với Môisen là tác giả quyển Ngũ Thư, thánh Phaolô là tác giả 14 lá thư. Người ta gắn tên tác giả với tính chất Linh Hứng và Mặc Khải. Nếu như có sự nghi ngờ về tác giả, lập tức người ta gán cho là lạc đạo, là người phủ nhận Lời Chúa. Khoa Thánh Kinh ngày nay tiến rất xa, nhờ các công tác khảo cố, khoa tìm hiểu về lịch sử, nhất là các tìm hiểu về văn hóa, kinh tế, chính trị không những của Do Thái mà các nước chung quanh xứ Do Thái. Một khám phá mới làm chuyển đổi thật nhiều cách suy nghĩ về Thánh Kinh. Tỉ như cuộc khám phá ở Qumran vào năm 1947, đặt nhiều vấn đề về Gioan Tẩy Giả và ngay Đức Giêsu? Hai vị này có thuộc về cộng đoàn Qumran hay không? Ít ra người ta đã tìm được những tư tưởng của Qumran trong lời nói của Đức Giêsu. Chính vì thế chúng ta có những nhận định như sau: Cách sắp xếp các tác phẩm trong quyển Thánh Kinh hoàn toàn không dựa vào thời biểu của cuộc hình thành các sách. Người ta sắp xếp theo một lịch sử cứu độ, nghĩa là từ Sáng tạo đi dần đến kết thúc thế giới (Khải Huyền). Những người sắp xếp kinh bộ không chú tâm đến sự hình thành của từng quyển sách Thánh. Ngược lại ngày nay muốn hiểu một quyển sách Thánh, chúng ta phải cố công đặt sách lại môi trường của nó, do đâu mà quyển sách này được hình thành, hoàn cảnh nào mà tác giả đã trứ tác.Chính cố gắng này sẽ làm rõ ý nghĩa chứa đựng trong sách nhiều hơn. Quyển Thánh Kinh dù sao cũng là một tác phẩm văn chương. Con người cũng như các sự kiện đứng trong nhiều chiều kích lịch sử. Nếu như quyển Cựu Ước hình thành trong vòng 1000 năm, thì cũng trong thời gian đó, Thiên Chúa tiếp xúc với loài người; nhưng Người chỉ tiếp xúc con người theo trình độ hiểu biết của họ. Vì thế phải chấp nhận có một quá trình phát triển các chân lý tôn giáo ngay trong sách Thánh. Muốn hiểu được quá trình này, chúng ta cũng phải tìm hiểu lịch sử phát triển từng thời kỳ về mặt chính trị, triết học, văn hóa, cũng như đời sống tôn giáo. Theo thói quen, người ta gán cho Môisen là tác giả quyển Ngũ Thư. Ngày nay, người ta thấy trong Ngũ Thư có quá nhiều truyền thống khác nhau của nhiều tập thể khác nhau, nên khó mà gọi Môisen là tác giả được. Cũng như trong 14 lá thư được gọi là của thánh Phaolô, nhiều lá thư chỉ được hình thành sau khi thánh nhân đã được phúc tử đạo, nhất là các lá thư mục vụ hay thư Do Thái. Nếu như người ta khám phá và nêu lên sự thật này, thì không thể nói rằng người ta phủ nhận sách Thánh. Sự linh hứng của một quyển sách thánh không nằm trong tên tác giả, nhưng được xác định do Huấn quyền của Hội Thánh. Nếu như từ trước đến nay người ta vẫn coi sách Khải Huyền là do thánh Tông đồ Gioan viết nên, ngày nay, người ta khám phá, vị đó không phải là Gioan Tông đồ mà là một vị khác, thì không phải vì sự khám phá này mà sách mất đi linh hứng. Hai ngàn năm qua, mọi Kitô hữu đều tìm hiểu Thánh Kinh, nhưng thật ra ai dám vỗ ngực nói rằng mình đã thấu đáo hết? Các nhà Thánh Kinh chỉ tìm tòi theo cách khoa học; nhưng niềm tin không phải là khoa học. Một câu Lời Chúa có thể biến đổi cả cuộc đời, nhiều thánh nhân đã minh chứng điều này. Tác động của Thánh Thần mới làm cho Lời Chúa sống động và nhập thể trong con người chúng ta, chứ không phải khoa học. CỰU ƯỚC I. MỘT VÀI GHI CHÚ QUAN TRỌNG Trước khi đi vào quyển Cựu Ước có vài điểm chúng ta cần chú ý. Quyển Sách Thánh mà chúng ta quen gọi là Thánh Kinh, gồm hai phầm Cựu Ước và Tân Ước. Cựu Ước là Sách Thánh làm nền tảng đức tin cho Do Thái giáo. Trọn bộ quyển Kinh Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước là nền tảng đức tin cho Kitô giáo. Một khi đã được gọi là Sách Thánh, chúng ta phải trang trọng với sách này vì chúng chứa đựng mặc khải, những chân lý cứu độ cho chúng ta. Vì thế có những điểm cần phải ghi chú. A. CỰU ƯỚC LÀ TÁC PHẨM CỦA CẢ DÂN TỘC ISRAEL Cuộc hình thành quyển Cựu Ước kéo dài trong vòng 1000 năm; cho nên phải có rất nhiều tác giả tham gia vào từng thời đại bổ túc quyển sách Thánh này. Các tác giả này không sáng tác một tác phẩm văn chương, nhưng ghi lại niềm tin của một dân tộc. Niềm tin này được lưu truyền trong dân, từ truyền khẩu trong một thời gian dài, cho đến khi có chữ viết, nhưng mãi đến thời của Đavít - Salomon, bấy giờ nhà nước mới ra lệnh sưu tập và chép lại thành văn; đồng thời cũng có văn nhân bắt đầu sưu tập các truyền khẩu để sử dụng cho một chi tộc hay một vùng trên đất nước. B. GHI CHÉP LẠI THÀNH VĂN Như chúng ta đã thấy quyển Cựu Ước được hình thành trong một thời gian dài gần 1000 năm, từ truyền khẩu bước sang văn bản. Cũng như các sử thi, khó mà tìm lại được nguồn gốc, huống chi là tác giả. Những người soạn thành văn bản đã thu tập các truyền khẩu lại, nhưng có khi không chép lại đúng y truyền khẩu, nhưng có sửa chữa cho thích hợp với hoàn cảnh của tác giả, của cộng đoàn mà ông ta đang sống. Mỗi lần ghi chép là mỗi lần có sửa chữa lại, đều với một ý đồ rõ rệt. Điều chúng ta phải tìm là ý đồ này. Chúng ta đều biết, Thánh Kinh là Lời Chúa, vì chứa đựng mặc khải. Nhưng mặc khải của Thiên Chúa lại được rao giảng dưới văn tự của loài người, phải kinh qua đầu óc của con người. Và con người, như chúng ta biết, luôn luôn phải lệ thuộc vào hoàn cảnh văn hóa, kinh tế, chính trị. Hoàn cảnh cụ thể làm cho Lời Chúa mang tính hiện sinh nhiều hơn: mặc khải cắm rễ vào lịch sử loài người ! Mặc khải phải chịu sự hạn hẹp của tâm trí người viết, trình độ văn hóa, hoàn cảnh chính trị cụ thể. Qua tất cả những điều kiện này, con người nói lên niềm tin của mình. Để có thể tìm hiểu rõ mặc khải, chúng ta cũng phải biết đến các hoàn cảnh này. C. DÂN ISRAEL SUY NGHĨ VỀ LỊCH SỬ DÂN TỘC CỦA MÌNH Thánh Kinh không phải là ký sự, dù viết về lịch sử; cũng không phải là tài liệu lịch sử nhờ đó mà người ta có thể tìm lại quá khứ. Đây là quyển sách nói lên niềm tin của mình. Không một tác giả nào là phóng viên chiến trường cả, cũng không ai là nhân chứng cho một sự kiện nào cả. Khi lịch sử đã đi qua, người ta mới nhìn lại; lấy đức tin mà nhìn lại! nhìn để thâm tín rằng: Thiên Chúa luôn hiện diện với dân tộc mình. Thế nhưng, dù nhìn lại quá khứ, cũng có nhiều cách nhìn: trong thời đại độc lập tự do, người ta sẽ nhìn "Cuộc xuất hành ra khỏi Ai Cập" khác hơn là khi dân tộc bị thống trị. Đồng thời, với cái nhìn chủ quan, mỗi người sẽ giải thích một cách khác, một vị vua có cái nhìn của một vị vua, một ngôn sứ có cái nhìn của một ngôn sứ; cũng như ngày hôm nay, cùng một sự kiện, nhưng nhà chính trị sẽ giải thích khác hơn là nhà kinh tế.Tỉ như, có hai bài từơng trình sáng tạo ! Có ít nhất 5 sách Thánh nói về sự kiện "Cuộc nổi dậy của anh em Maccabê": Đaniel, Étte; Giu-đi-tha; 1 & 2 Maccabê. Đương nhiên mỗi sách sẽ nhìn theo cách chủ quan của mình; và chúng ta cũng nhớ, người viết chỉ viết để củng cố đức tin cho cộng đoàn hiện sinh của mình. Chúng ta sẽ gặp rất nhiều thí dụ như thế trong quyển Sách Thánh Cựu Ước. Như thế chúng ta sẽ thấy dân Israel đọc lại lịch sử của mình cách sống động, chứ không bị hạn hẹp là trình bày lại quá khứ. D. ĐỌC VỚI NIỀM TIN Dân Israel đọc lịch sử của dân tộc với đức tin, có nghĩa là: Họ đọc thấy Thiên Chúa luôn hiện diện với dân tộc của mình, "đồng hành với dân, lang thang với dân" trong thời du mục; hiện diện nơi một thánh địa để chăm sóc dân; vui với dân, nhưng cũng xử phạt khi dân bất trung. Qua tất cả mọi sự kiện hạnh phúc hay khổ đau, bình an hay bị lưu đày, họ đọc được một sự kiện duy nhất: Thiên Chúa hoạt động vì dân. Nếu đọc lại quá khứ, họ tìm xem, Thiên Chúa nói gì với họ qua sự kiện quá khứ; Họ nhìn xem, nhân vật được kể đến đã xử sự như thế nào với Thiên Chúa trong hoàn cảnh cụ thể: nếu vua Đa-vít, con người lý tưởng của dân, mà còn sa ngã, thì hiện tại họ phải sống như thế nào, để khỏi phải sa lầy. Nhất là trong thời lưu đày ở Babylon, họ say mê đọc lại lịch sử của dân tộc, xem lại các hoạt động anh hùng của các tổ phụ để củng cố đức tin và niềm hy vọng. Anamnesis là động lực, như chất dầu thắp lên niềm hy vọng: Thiên Chúa đã làm, hoạt động của Người chưa hoàn tất, vì thế con người có quyền hy vọng. Thiên Chúa là Đấng trung tín; Người sẽ thực hiện những gì đã hứa. Đức tin và Hy vọng là hai động lực sống hằng ngày của người Do Thái, nhờ qua việc đọc Thánh Kinh. II. VÀI NÉT CHÍNH CỦA LỊCH SỬ ISRAEL Trước khi tìm hiểu cuộc hình thành các tác phẩm Cựu Ước, chúng ta cũng nên nhìn lại những giai đoạn chính của lịch sử dân Israel. A. KHỞI NGUYÊN (ST 1-11) THỜI CÁC TỔ PHỤ (ST 12-50) Trong thời kỳ người Hysos cai trị ở Ai Cập, khoảng 1720-1560 tcn, các tổ phụ sang Ai Cập. (Xh 12,40-41): "Thời gian con cái Israel ở Ai Cập là bốn trăm ba mươi năm. Vào đúng ngày chấm dứt bốn trăm ba mươi năm đó, toàn thể các đạo binh của Đức Chúa đã ra khỏi Ai Cập.") B.THỜI MÔISEN VÀ GIÔSUA Cuộc Xuất hành được thực hiện vào khoảng năm 1250 và 1230 tcn (Có thể dưới thời Vua Pharaon Ramsès II) Giữa khoảng 1220 và 1200 Giôsua tiến vào Palestina. C. THỜI CÁC THỦ LÃNH ĐẾN THỜI SALOMON Thời các Thủ Lãnh khoảng 1200-1030 tcn. 1125 tcn Debora và Barak chiến thắng người Canaan tại Taanach. 1050 tcn chiến thắng người Philistin tại Aphek. 1040 Thủ lãnh và cũng là ngôn sứ Samuel bắt đầu hoạt động Vua Saul (1030-1010 tcn) đóng đô tại Gibea. Chiến thắng người Ammoniter và Philistin. Thua trận tại Gilboa. Saul chết. Vua Đavít (1010-970 tcn). Chiến Giêrusalem khoảng 1000. Vua Giuđa, sau đó cả Israel. Tạo một vương triều. Salomon, Vua cho cả Giuđa và Israel (972-933 tcn). Năm thứ 4 của triều đại, xây Đền Thờ Giêrusalem trong vòng 7 năm (1 V 6,37-38) D. HAI VƯƠNG QUỐC GIUĐA VÀ ISRAEL (931-721) (Cuộc ly khai [1 Vua 12]: ly khai về chính trị [1V 12,20- 25; 2 Sb 11,1-4]: "Khi toàn thể Israel nghe tin ông Gia-róp-am đã về nước, thì sai người mời ông tới đại hội và phong ông làm vua cai trị toàn thể Israel; chỉ còn một mình chi tộc Giu-đa là theo nhà Đa-vít" (1V 12,20). Tiếp đến là ly khai tôn giáo: 1 V 12,26-33) 1. Hai vương quốc thường xuyên bất hoà Năm 747 tcn Tiglath-Phalassar III, vua Assyrie, lên ngôi, áp dụng chính sách đế quốc trên các nước nhỏ chung quanh: Hoặc làm chư hầu và phải nộp thuế, hoặc bị tiêu diệt. Vương quốc Israel kháng cự và Giuđa chịu thuần phục. Vua Menahem (746-737) chịu trả thuế; vua Péqahya (736-735) quá ngắn; vua Osée (732-724) lại tìm liên minh với Ai Cập, chống lại Assyrie. 722/721 Sargon II (722-705) của Assyrie chiếm Samarie, bắt dân chúng đi lưu đày. Chấm dứt vương quốc Israel miền bắc. (Về nguồn gốc người Samarie: 2 Vua 17,24-41). Vua Akhaz của Giuđa (736- 716) không những trả thuế cho Assyrie, mà còn nhờ Assyrie chống lại liên minh Péqah và Récin của miền bắc, vì không tham gia vào liên minh chống Assyrie. Vua Ezékias (716-687) liên minh với Babylon và Ai Cập chống Assyrie. Năm 700, Sennakérib bao vây Giêrusalem: Ezékias nộp thuế ! Assyrie yếu, nên phải liên minh với Babylon, chống lại liên minh Ai Cập; nhưng năm 612, Ninivê, thủ đô của Assyrie bị Babylon đánh chiếm. Lợi dung thời cơ, vua Josias (640-609) giành lại độc lập và thu hồi một phần đất lớn. (Tìm được sách Đệ Nhị Luật: 2 Sb 34, 14-21; 2 Vua 22,8-13; canh tân phụng vụ Josias). Tiếc rằng ông đã bị giết trong trận với Pharaon Néko. Từ năm 605, Joiaqim (609-597) thần phục Babylon, nhưng đến năm 602 lại liên minh với Ai Cập chống Babylon. Nabuchodonosor (604-562) của Babylon bao vây Giêrusalem, thành này đầu hàng: lưu đày lần 1: vua Joiakin (597) bị lưu đày (2 Sb 36; 2 Vua 24,10-16) Sédécias (597-587), con của Josias, nổi lên chống Babylon năm 589 588 Giêrusalem bị bao vây; tháng 8 năm 587 tcn Giêrusalem bị tấn chiếm; bắt Sédécias; tàn phá Đền thờ Giêrusalem; lưu đày lần 2 (2 Vua 25,8-21); tháng 10 tỉnh trưởng Guedalias bị ám sát. 2. Năm 582/581: lưu đày lần 3 Palestina Bị Ba Tư Thống Trị (538-333) 538 chiếu chỉ của Cyrus, vua Ba tư, (551-529) chiếm Babylon vào năm 539, cho phép người Do Thái từ Babylon trở về, dưới sự dẫn dắt của Sheshbacar. Thiết lập bàn thờ tế tự. 520/515 xây dựng Đền thờ Giêrusalem lần 2 (dân Samarie chống việc xây Đền thờ - Esd 4,6t.) 458 Esdras hoạt động tại Giêrusalem; đọc Ngũ Thự 455 Néhémie hoạt động lần đầu tại Giêrusalem; xây tường thành khoảng 440/400 hoàn tất các tác phẩm: Malachie, Gióp, Thánh vịnh, Giona, Sử biên niên - Esdras-Néhémie. 3. Palestina Bị Hy Lạp Thống Trị (333-63) 332 Palestina bị quân đội Alexandre đại đế (356-323) đánh chiếm. 320-200 Palestina thuộc về nhà Lagides (Ptolémé). Năm 250 bản dịch Septuginta đầu tiên tại Alexandrie. Hoàn tất sách Giảng viên và Esther. 200-142 Palestina thuộc về nhà Séleucides 167 sắc chỉ của Antiochua IV Epiphane (175-164) cấm tôn giáo Do Thái: bỏ việc thờ Yahvê chuyển sang thờ Zeus trong đền thờ Giêrusalem. Khởi đầu cuộc nổi dậy của Mattathias Hasmonée 166 Judas, biệt danh Maccabê, tiếp nối người cha (166-160): 164 chiếm lại và thanh tẩy đền Thờ Giêrusalem (Lễ Cung Hiến). Tác phẩm Đaniel. Jonathan (160-143); Simon (143-134) 142-63 Palestina được độc lập; Jean Hyrcan, con Simon, (134-104); Aristobule I (104-103); Alexandre Jannée (103-76); Alexandra (76-67); Hyrcan II và Aristobule II tranh chấp ngôi vua và quyền thượng tế. Tại sao Pompée lại vào được Giêrusalem? Đó là nhờ vào sựphân hóa của các nhóm chính trị trong dân Do Thái. Aridtobule II dựa vào nhóm Sađucée để chống lại anh mình là Hyrcan II; Hyrcan lại dựa vào nhóm Pharisêu, đồng thời cũng liên kết với với Antipater, tổng trấn vùng Idumée, mảnh đất nằm ở phía nam Giuđê. Cả hai phe dùng nhiều quà cáp dâng cho Pompée; nhưng với mưu lược của Antipater, rằng ngã về phía Hyrcan II. Pompée kéo quân vào vây Aristobule II tại Giêrusalem. Sau ba tháng, quân Rôma tràn vào Giêrusalem, tàn sát các tư tế, xâm phạm Đền Thờ. Đó là ngày Lễ Tạ Tội (Lv 16) năm 63 tcn. Palestina bắt đầu nằm dưới ách đô hộ của La Mã. Nhà Maccabê Năm Sách Cuộc nổi dậy 167 1 Mcb 1 & 2 Judas Maccabê 166-160 1 Mcb 3,1 - 9,22 Thanh tẩy Đền Thờ 164 Jonathan 160-143 1 Mcb 9,23 - 12, Simon 143-134 1 Mcb 13 - 16 Độc lập 142 Vương triều Hasmonê Jean Hyrcan I 134-103 Alexandre Jannée 103-76 Alexandra 76-67 Aristobule II 67-63 Chấm dứt sự độc lập của Do Thái Jean Hyrcan II 63-40 Antigone 40-37 Hérode le Grand 37 tcn - 4 scn 4. Palestina Bị La Mã Thống Trị (63 tcn - 135 Scn) La Mã cho dẹp vương triều Hasmônê, chỉ cho Hyrcan II là Thương tế và "ethnarque - thủ trưởng nhân dân". Nhờ quà cáp và mưu lược, Hérode Cả, con của Antipater, được lòng Sénat Rôma. Công nghi. Rôma cho phép ông chiếm Palestina và làm vua. Năm 37, ông chiếm Giêrusalem và cai trị đến năm 4 scn. Năm 20/19 tcn bắt đầu tái thiết Đền thờ Giêrusalem. Năm 4 scn Auchelaus sang Rôma để được phong vương, nhưng bi. Auguste bắt lưu đày tại Vienne xứ Gaule vào năm 6scn; miền nam thuộc chế đô. Tổng Trấn. Cuộc nổi dậy của Judas người Galilée (xem Cv 5,37) và người Pharisêu Sađoq (nguồn gốc của nhóm Zelote). Năm 66 scn mùa hè, Tổng trấn Gessius Florus (64-66) đã lấy 17 nén bạc trong Đền Thờ, dân chúng chế nhạo. Florus giận cho đóng đinh vài người Do Thái có trách nhiệm; một cuộc nổi dậy làm ông sợ, phải chạy khỏi thành phố. Bất ổn tại Césarée và trong cả nước. Eleasar, con thượng tế Ananias, không dâng lễ hàng gnày cầu an cho hoàng đế, như thế là công khai chống lại đế quốc La mã. Tháng 9 Cestius Gallus tấn công Giêrusalem, nhưng thất bại. Người Do Thái chiếm Giêrusalem và lãnh đạo thành. Nhiều Kitô hữu bỏ thành. Năm 67-68 nhóm Zelote dưới sự lãnh đạo của Jean de Gischala và người Idumê chiếm thành Giêrusalem. Ananus và những người lãnh đạo thành đều bị giết. 69 Simon bar Giora và nhóm Sichar lãnh đạo Giêrusalem. Mùa xuân 67, hoàng đế Nerô trao trách nhiệm dẹp phản loại tại Palestina cho Vespatianô. Ông sử dụng 3 sư đoàn ở Syrie và 1 sư đoàn được tuyển mộ ở Ai Cập. Tháng 3.68 ông chiếm Pêrêa, chuẩn bị tháng 6 sẽ bao vây Giêrusalem. Nêrô qua đời, Glaba lên ngôi, nhưng lại bị ám sát ngày 15.01.69. Vespatianô được quân đội ở Alexandria tôn lên làm hoàng đế, sau đó Palestina và Syria cũng đồng tình. Oâng giao việc chiến đấu cho con là Titus để về Rôma xử lý. Trong lúc đó Giêrusalem được chia ra làm 3 khu vực: Johannes Giscala giữ Đền thờ và các vùng chung quanh; Simon bar Giora bảo vệ toàn thành; Eliasar mai phục trong Đền thờ. Phục sinh 70 Titus với 4 đạo quân bao vây Giêrusalem; nạn đói trong thành. Ngày 29.08.70 Đền thờ Giêrusalem bị cháy. Titus được quân đội tôn làm Hoàng đế (Imperator). Tháng 09.70 chiếm thánh Giêrusalem; dân thành bị giết, bị bán làm nô lệ hay làm lao công chiến trường. Hè 71, Johannes Giscala và Simon bar Giora bị hành hình, trong dịp diễu binh khải hoàn của Titus tại Rôma. Giêrusalem thất thủ, quân kháng chiến còn 3 pháo đài: Maêrôntê, Herôđianum và Massada. Hai pháo đài trên quy phục khá dễ dàng, nhưng Massada chống cự ác liệt. Phục sinh 73, Flavius Silva triệt hạ Massada: Eleasar và toàn dân trong thành đều tự tử để khỏi rơi DÂN C 84 ?S?ng ??o - Gỉa ??i HÚA ÚC CHÂU S? 209 THÁNG 3 - 2013 vào tay người Rôma Năm 130 Hoàng đế Hadrian (117-138) đến Giêrusalem: ông quyết định xây dựng lại thành phố (Aelia Capitolina) và xây một đền thờ thần Jupiter ngay trên nền đền thờ Giêrusalem 132-135 cuộc nổi dậy thứ hai của người Do Thái: Simeon ben Koseba chiếm Giêrusalem; Eleasar làm Thượng tế (Ben Koseba được Rabbi Akiba xem là Đấng Mêssias, như ánh sao được ghi trong Ds 24,17, nên đặt cho một biệt hiệu là Bar Kochba - Con ngôi sao). Ông ta bách hại người kitô hữu vì không tham gia vào cuộc nổi dậy. Tineus Rufus, Tổng trấn Giuđê, cùng với Publicus Marcellus, Tổng trấn Syrie, chận đứng cuộc nổi dậy, nhưng thất bại. Hadrian cho Julius Severus đến tiếp viện và chính hoàng đế cũng đến. Đầu năm 134 Rôma bắt đầu bao vây thành Giêrusalem. Tháng 8 năm 135 đồn Better cuối cùng của người Do Thái bị hạ; Bar Kochba tử trận. Mọi người trong thành đều bị bắt, bị bán làm nô lệ tại Mamre và Gasa. Palestina trở thành tỉnh lẽ của La Mã, không còn tên trên bản đồ thế giới. Giêrusalem thành đồn trại của quân đội La Mã. Tuyệt đối cấm người Do Thái bước vào thành này, ai vi phạm sẽ bị xử tử ! Vào thời Đức Giêsu, nước Palestina bao gồm những vùng: Giuđêa, Samaria và Galilêa; bên kia sông Giorđan còn có Pêrêa và Dekapolis. Tất cả các tỉnh thành này chỉ rộng độ 30.000 Km2. (Hiện nay chỉ còn 13.000 km2). Dân cư khoảng 2 đến 3 triệu người. Xứ Palestina, như người Do Thái thường nói "từ Dan đến Bersêba" chỉ dài độ 230 Km. Chiều ngang từ Địa trung Hải đến sông Giorđan, nơi hẹp nhất chỉ độ 20 km, nơi rộng nhất độ 130 Km. Một mảnh đất thật nhỏ, nhưng đầy biến động, như chúng ta đã thấy bên trên. Với nước Do Thái hiện nay, chúng ta có những cột mốc lịch sử như sau: Năm 476, đế quốc La Mã bên phương tây bị cuộc di dân tàn phá, nhưng đế quốc La Mã bên phương đông vẫn còn tồn tại đến 1000 năm sau. Palestina nằm trong đế quốc La Mã bên Đông. Khi đế quốc Hồi giáo hình thành, thì Palestina là những nước đầu tiên bị nằm trong đế quốc Hồi giáo. Năm 1096 bắt đầu các cuộc Thập tự chinh kéo dài đến 1291, khi người Mamluk Ai Cập chiếm Giêrusalem và đặt Palestina dứơi sự cai trị của Hồi giáo. Năm 1517, người Mamluk bị người Ottoman lật đổ. Người Do Thái bắt đầu được định cư tại Palestina. Thế kỷ XIX, phong trào Zionist - Phục Quốc Do Thái bắt đầu. Năm 1878, người Do Thái bắt đầu mua đất trang trại tại Palestina để thành lập các ngôi làng. Những người nhập cư đầu tiên này được gọi là những Aliyah. Năm 1897 Chủ Nghĩa Xion do Theodor Herzl được thành lập, một năm sau khi ông viết quyển "Nhà Nước Do Thái" kêu gọi người Do Thái trở về quê hương. Đợt trở về quê hương lần thứ hai vào năm 1904. Khi Ottoman sụp đổ, người Anh cai trị vùng đất này cho đến năm 1948. 1916: Pháp và Anh ký hoà ước, đặt Palestina dưới quyền bảo hộ của Anh. Trong thế chiến thứ II (1939-45), Đức quốc xả giết hại 6 triệu người Do Thái. Người Do Thái trở về quê hương lánh nạn. Đến năm 1946 cộng đồng Do Thái đã lên đến 700.000 người. 1947: Liên Hiệp Quốc chia nước Palestina chia thành hai quốc gia riêng biệt cho người Ả rập và người Do Thái, còn Giêrusalem có một quy chế quốc tế đặc biệt. Ngày 14.05.1948: Nước Israel được thành lập. Trong vòng 24 giờ sau khi người Anh rút khỏi vùng đất này, liên quân các nước Liban, Jordan, Ai Cập và Irak phát động tấn công. Tháng Giêng.1949, Hiệp định hòa bình được ký. Israel đã giành thêm được 50% nhiều hơn số đất mà họ được cấp và được một nửa Giêrusalem. Cuộc bầu cử đầu tiên của Israel được tổ chức sau hiệp định ngừng bắn: Chaim Weizmann được bầu làm Tổng Thống, David Ben-Gurion làm Thủ tướng. Chính phủ mới được kết nạp vào Liên Hiệp quốc vào thánh 5 năm 1949. 1956: Do Thái tuyên chiến với Ai Cập. Liên Hiệp quốc lên án. Ngưng chiến. Ngày 05.06.1967 Israel cùng lúc tấn công Ai Cập, Syria và Jordan. Chỉ trong vòng 6 ngày, quân đội Israel hoàn toàn đánh bại các đối thủ. Sau hiệp định ngừng bắn, Israel đã tăng thêm diến tích gấp hai lần, chiếm Cao nguyên Golan, Bán đảo Sinai và Bờ Tây sông Jordan, cộng với toàn bô. Giêrusalem. Tổ chức Giải Phóng PLO bắt đầu tấn công vào người Israel và người Do Thái trên khắp thế giới. Tháng 10 năm 1973, quân đội Syria và Ai Cập tấn công vào Israel trong ngày Yom Kipur, Israel tổn thất nặng nề ! Cuộc chiến Vùng Vinh vẫn tiếp tục đến nay. E . TỪ LỜI SANG VĂN BẢN Quyển Cựu Ước là một tác phẩm đồ sộ, được viết trong vòng 1000 năm. Quyển Cựu Ước này cũng là sách Thánh của Đức Giêsu cũng như của các Tông đồ, thế nhưng các quyển sách Thánh này chỉ được chọn lựa để trở thành Kinh Bộ (Canon) mãi ở gần cuối thế kỷ thứ I sau công nguyên, do Công nghị họp tại Iamnia (ngày nay là Jabne), một thành phố nằm cách Jaffa khoảng 20km về phía nam. Năm 70 scn, thành phố Giêrusalem và cả Đền Thờ đều bị tàn phá. Thế là từ nay sẽ không còn hàng tư tế, không còn tế tự, không còn phụng vụ trong Do Thái giáo nữa. Công nghị Giêrusalem lánh nạn về Iamnia. Trước khi giải tán, Công nghị đã họp lại xác định Kinh Bộ, tức là xác định sách nào được thuộc về Thánh Kinh, sách nào không. Chỉ có những sách nằm trong Kinh Bộ mới chứa đựng đức tin, ngoài những sách này, tất cả đều là các sách đạo đức, không buộc phải tin giữ. Chúng ta biết Công nghị cố ý loại bỏ các sách mang tính Khải Huyền và nhất là những sách có dính dáng đến Kitô giáo. Ngày nay chúng ta quá quen thuộc với sách vở. Khi nói một tác giả quyển sách nào đó, chúng ta liền liên tưởng rằng tác giả này đã viết xuyên suốt quyển sách. Sách Thánh Kinh lại không phải thế; các tác phẩm này thường là thu tập những gì đã được truyền khẩu trong nhân gian một thời rất lâu. Có thể ngay trong một tác phẩm có nhiều đoạn thành những lớp đan xen với nhau, như trường hợp sách Ngũ Thư. Để có thể hiểu cuộc hình thành các tác phẩm Thánh Kinh, chúng ta có thể nhờ đến khoa học tham khảo về văn chương nhân gian, nhất là các Sử thi, thơ anh hùng ca (Epos) trong các dân tộc có nền văn minh cổ. Có một sự năng động trong văn chương truyền khẩu, rất khác biệt trong từng dân tộc, nhưng lại có những đặc điểm giống nhau. Việc truyền khẩu này thường do những cá nhân đơn độc (tư tế, thi sĩ) truyền đạt. Nhưng việc truyền đạt này không phải tự chuyên, nhưng có cả bộ tộc là cơ quan kiểm soát để cho bản anh hùng ca không bị suy xiển. Thế nên bên cạnh tính chủ động của cá nhân, còn có tính thụ động của tập thể. Người ta cũng ghi chú sự cộng tác của các phụ nữ trong việc ghi nhớ các bản anh hùng ca này. Để giữ cho bản anh hùng ca được toàn vẹn, thường người ta tạo những vần điệu, những kỹ thuật liên kết bằng từ, bằng ý để dễ nhớ. Thường có một một chuỗi từ liên kết để nâng đỡ trí nhớ Trung tâm của bài anh hùng ca truyền khẩu của bộ tộc hay dân tộc thường là những cá nhân đơn độc, những vị anh hùng của thời quá khứ. Từ những giai thoại độc lập, không có gì liên kết với nhau trong ký ức hay trình thuật của bộ tộc, dần dần với thời gian, người ta đã nối kết lại với nhau thành một câu chuyện liên tục. Từ tiểu sử của một vị anh hùng, dần dà người ta đã hội tụ lịch sử của bộ tộc mình vào trong vị anh hùng đó. Vị anh hùng trở thành cái "Tôi tập thể" của cả bộ tộc. Có thể vị anh hùng là người thành lập bộ tộc hay một tổ tiên xa xưa, giờ đây đã trở thành biểu trưng của bộ tộc; vận mệnh của vị anh hùng phản ảnh trong vận mệnh của bộ tộc. Người ta cũng đọc tương lai mình trong hình ảnh vị anh hùng hay trong hoàn cảnh đau thương. Người ta đọc bản anh hùng ca để nhớ đến tính chất anh hùng của bộ tộc để củng cố lòng kiêu hãnh của dân tộc, sự can đảm để chiến đấu. Chính vì thế, người ta chỉ đọc bản anh hùng ca trong những ngày kỷ niệm của cả bộ tộc: ngày thành lập bộ tộc, hôn nhân, việc đăng quang một tộc trưởng, xuất binh chiến tranh, khi chiến thắng quân thù hay trong những ngày được mùa. Từ đó truyền khẩu gắn liền với lễ lạc. Người ta đọc bài ca anh hùng của quá khứ để cả bộ tộc ý thức về mình cũng như động viên để bước vào tương lai. Khi bộ tộc bước vào đời sống văn minh, có chữ viết, bấy giờ truyền khẩu sẽ bước vào giai đoạn chuyển đạt thành bản văn. Nếu bộ tộc còn ý thức về tính chất anh hùng của mình, thì Sử thi vẫn tiếp tục đi vào tâm thức của bộ tộc; ngược lại, nếu bộ tộc sa sút hay bị thôn tính, anh hùng ca sẽ bị mai một và mất đi, vì thế hệ tiếp nối không còn tha thiết với quá khứ của mình. Hiện trạng trên đất nước Việt Nam là các bản anh hùng ca của các anh em đồng bào thượng, nếu không mau mắn ghi lại, sẽ bị mai một và chúng ta sẽ mất đi những Sử thi độc đáo. Thời điểm truyền khẩu thành văn chương (thường là từ đời sống du mục bước vào đời định cư) nếu bị bỏ qua, sẽ khó mà tìm lại truyền khẩu của quá khứ. Nhờ khoa tìm hiểu văn chương cổ giúp chúng ta có cái nhìn về các bản anh hùng ca, chúng ta thử tái tạo lại truyền khẩu của dân Do Thái trong Thánh Kinh; nhưng trước đó có hai điểm quan trọng cần chú ý: Mãi cho đến cuối thế kỷ thứ IV TCN mới bắt đầu có chữ tượng hình và hình nêm, hình đinh ở … ( Còn tiếp ) 1 Comment Đặng Bá Tuấn 18/5/2022 09:25:42 amI want read it, please send good lessons for me, thanks! ReplyLeave a Reply. |
Từ khóa » Bản đồ Israel Thời Cựu ước
-
Các Bản Đồ Kinh Thánh - Church Of Jesus Christ
-
Các Bản Đồ Thuộc Về Kinh Thánh - Church Of Jesus Christ
-
Bản đồ Kinh Thánh Liên Quan đến Vùng đất Do Thái Trong Các Thời Kỳ ...
-
Bản đồ: Y-sơ-ra-ên Vào Thời Chúa Giê-su | NWT - JW.ORG
-
Tóm Lược Lịch Sử Thời Cựu Ước Và Tân Uớc - SimonHoaDalat
-
Bản Đồ Thời Tân Ước
-
Bản đồ Của Palestine Vào Thời Chúa Giêsu - Postposmo
-
Salomon – Wikipedia Tiếng Việt
-
Xung đột Israel–Palestine – Wikipedia Tiếng Việt
-
Tìm Hiểu Về Israel Qua ảnh - Nguyenhoanghai - Google Sites
-
Lịch Sử Israel, Palestine Và Jerusalem - Activephanmem