Lương Khải Siêu – Wikipedia Tiếng Việt
| Lương Khải Siêu | |
|---|---|
| Sinh | 23 tháng 2, 1873Tân Hội, Giang Môn, Quảng Đông, Nhà Thanh |
| Mất | 19 tháng 1, 1929 (55 tuổi)Bắc Kinh, Trung Hoa Dân Quốc |
| Nghề nghiệp | Học giả, nhà báo, triết gia, nhà cải cách |
Ảnh hưởng bởi
| |
Ảnh hưởng tới
| |
Lương Khải Siêu (1873 - 1929), tự là Trác Như, hiệu là Nhiệm Công, bút hiệu là Ẩm Băng Tử, Ẩm Băng Thất chủ nhân. Ông là nhà tư tưởng và là nhà hoạt động chính trị Trung Quốc thời cận đại.
Thân thế và sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Lương Khải Siêu sinh ngày 23 tháng 2 năm 1873 tại làng Tân Hội, nằm trên một hòn đảo thuộc Giang Môn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc trong một gia đình nông dân bậc trung. Cha ông tên là Lương Bảo Anh, mẹ ông là người họ Triệu. Thuở nhỏ, ông theo học tại Học hải đường Quảng Châu.
Theo phái tân học
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1890, ông đỗ cử nhân.[1] Mùa thu năm 1891, ông đến gặp Khang Hữu Vi (1858-1927) lúc bấy giờ đang dạy học tại Vạn Mộc thảo đường Quảng Đông. Nghe ông này bài xích cựu học, Lương Khải Siêu tin theo, tôn Khang Hữu Vi làm thầy, rồi trở thành người lính xung kích của phái tân học.
Năm 1892, Khang Hữu Vi mở lớp dạy học ở Quảng Đông và làm thư ký cho thầy trong việc biên soạn sách. Năm 1894, Khang Hữu Vi lên Bắc Kinh, làm quen với các danh sĩ như Hạ Tăng Hựu, Đàm Tự Đồng,...
Cùng thầy đề xướng biến pháp
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 7 năm 1894, quân Nhật Bản không tuyên chiến đã tấn công và đánh chìm quân hạm của Trung Quốc gần Nha Sơn (Triều Tiên). Sau đó, quân đội nhà Thanh còn đại bại trước quân đội Nhật thêm mấy trận nữa...[2]
Bị một nước nhỏ là Nhật đánh thua, nhiều kẻ sĩ Trung Quốc bỗng thức tỉnh. Họ nhận ra rằng cần mà phải thay đổi chế độ và duy tân mọi mặt mới chấn hưng được nước nhà. Trong số ấy, có Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu là người hăng hái nhất. Bởi ngay sau đó, nhân đến Bắc Kinh dự thi Hội, Khang Hữu Vi liền tranh thủ vận động được 1.300 sĩ tử cùng ký tên vào Bức thư vạn chữ (Vạn ngôn thư) của mình, đề nghị Hoàng đế không phê chuẩn điều ước Mã Quan với Nhật và cần làm gấp cuộc biến pháp duy tân (nói vắn là biến pháp). Trong khi đó, Lương Khải Siêu cũng đã thảo thư với nội dung tương tự, kèm theo chữ ký của 190 cử nhân tỉnh Quảng Đông.
Sau đó, hai thầy trò cùng vào dâng thư, nhưng thư không đến được tay Hoàng đế, vì bị Viện đô sát ở Thanh đình từ chối. Tuy nhiên, việc làm này của hai ông đã gây chấn động lớn ở kinh thành. Bởi từ thế kỷ 12, đời Nam Tống đến bấy giờ (cuối thế kỷ 19), mới lại thấy một phong trào học sinh dâng thỉnh nguyện lên Hoàng đế.[3]
Tháng 6 năm 1896, Khang Hữu Vi (lúc này đã đỗ Tiến sĩ, đang làm ở bộ Công) và Lương Khải Siêu lại dâng thư đề nghị biến pháp. Lần này nhờ có thầy dạy Hoàng đế là Trạng nguyên Ông Đồng Hòa,[4] giúp đỡ nên thư mới đến tay Hoàng đế.[5]
Sau đó, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu được Hoàng Đế Quang Tự cho mời vào cung. Khi nghe hai ông trình bày chủ trương biến pháp xong, Hoàng đế tỏ ý rất đồng tình.
Để chuẩn bị cho công cuộc biến pháp, tháng 7 năm 1896 tại Bắc Kinh, Khang Hữu Vi cho ra báo Trung ngoại ký văn (Văn chương chép việc trong ngoài) và lập Cường học hội vào tháng sau, rồi giao cho Lương Khải Siêu làm Chủ bút và làm lãnh đạo hội.
Kể từ lúc ấy, Lương Khải Siêu viết báo, dịch sách ở Đại học đường, và cùng các thành viên trong hội đi diễn thuyết nhiều nơi, lập ra Cường học hội ở các tỉnh lớn như Thượng Hải, Nam Kinh, Hồ Nam, v.v...Ngoài ra, ông còn cùng bạn bè là Đàm Tự Đồng, Hoàng Tuân Hiến, Đường Tài Thường, Uông Khang Niên ra tờ Thời vụ báo (Báo thời sự) ở Thượng Hải và tờ Tương học báo tại Hồ Nam...
Trên tờ Thời vụ báo, ông lần lượt cho đăng bài Luận báo quán hữu ích vu quốc sự (Bàn về báo quán có ích lợi cho quốc sự) và Biến pháp thông nghĩa (Nghĩa chung của biến pháp), gây được tiếng vang trong và ngoài nước. Trong thời gian này, ông còn soạn bảng Tây học thư mục biểu, liệt kê ra 300 loại sách đã phiên dịch từ tiếng Âu Mỹ ra tiếng Trung Quốc trong hơn 20 năm, để mọi người biết mà tìm đọc.
Phái thủ cựu lo sợ trước ảnh hưởng của tư tưởng duy tân do hội này đề ra, nên ra lệnh cấm vào tháng 1 năm 1897. Thế nhưng, các hội vẫn hoạt động được bằng những tên gọi khác.[6]
Ngày 11 tháng 6 năm 1898 (Mậu Tuất), công cuộc biến pháp bắt đầu bằng hàng loạt các sắc lệnh của Hoàng đế, như mở trường học, làm đường sắt, cải cách chế độ thi cử, giảm biên chế các tổ chức hành chính, luyện tập quân đội theo lối mới, v.v...Trong khoảng chưa đầy ba tháng, hơn một trăm đạo chiếu được ban ra, làm cho cả trong triều lẫn ngoài tỉnh xôn xao. Đúng là "toàn biến" và "tốc biến" như khẩu hiệu đã đề ra. Lúc này Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu đều được Hoàng đế phong chức Kinh khanh[7] để có điều kiện lo cho công việc.
Cuộc biến pháp đang tiến hành, thì vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của phái thủ cựu (sử gọi là Hậu đảng), mà người đứng đầu là Thái hậu Từ Hi.
Đàm Tự Đồng, một thành viên của phái duy tân, thấy Thái hậu Từ Hi cản trở công cuộc đổi mới, bèn khuyên Hoàng đế Quang Tự đoạt lấy chính quyền. Hoàng đế nghe lời bèn triệu Viên Thế Khải lúc đó đang thống lĩnh 7.000 quân về Bắc Kinh bàn việc, có ý dùng quân của Viên để bao vây Di Hòa Viên.
Chẳng may việc đó bị tiết lộ (chính Viên phản Hoàng đế Quang Tự, vì thấy Từ Hi và phe cánh của bà hãy còn mạnh).[8] Thái hậu Từ Hi vội vàng trở về Bắc Kinh, họp Hoàng đế Quang Tự và các đại thần lại. Quát mắng tất cả một hồi, bà tuyên bố rằng Hoàng đế đau, bà phải thính chính trở lại, và sai quân đem giam Hoàng đế Quang Tự ở Doanh Đài, trong hồ Tây Uyển.[9]
Sau đó, bà ban lệnh cấm sĩ dân dâng thư, phế bỏ cục Quan báo, đình chỉ việc lập học hiệu, dùng lại lối văn tám vế để chọn kẻ sĩ, bỏ khoa thi đặc biệt về kinh tế, bỏ các tổng cục nông công thương, cấm hội họp, cấm báo quán và cho truy nã các Chủ bút...Tóm lại là chỉ trong một hai tuần, bà đã làm cuộc "toàn hủy" và "tốc hủy" các cải cách của Hoàng đế Quang Tự. Sử gọi vụ đấy là Chính biến Mậu Tuất (1898), là Bách nhật duy tân (Cuộc cải cách trăm ngày).[10]
Chạy thoát sang Nhật Bản
[sửa | sửa mã nguồn]Cuộc biến pháp bị hủy bỏ, những người đề xướng đều bị quan quân đi lùng bắt. Nhờ hay trước, Khang Hữu Vi trốn vào sứ quán Anh ở Thượng Hải, rồi sang Nhật. Lương Khải Siêu, sau khi việc xảy ra mới trốn qua đấy. Đàm Tự Đồng không chịu trốn nên bị giết cùng với năm người nữa, được người đời gọi tôn là "Lục quân tử" (trong đó có em của Khang Hữu Vi là Khang Quảng Nhân).
Ở Nhật, Khang Hữu Vi lập đảng Bảo hoàng mong lật đổ Thái hậu Từ Hi, phò trợ Hoàng đế Quang Tự lên nắm lại vương quyền. Lương Khải Siêu xuất bản báo Thanh Nghị để ủng hộ Hoàng đế Quang Tự và công kích Từ Hi. Tức giận, Từ Hi yêu cầu Anh, Nhật giao cả hai cho bà, nhưng không thành công vì họ coi hai ông là phạm nhân chính trị.
Nhưng không lâu sau, vì thấy cuộc cách mạng Pháp (1789-1799) và sự tranh giành chính quyền ở các nước thuộc Trung Mỹ, Nam Mỹ gây nhiều chết chóc và hỗn loạn quá; Khang Hữu Vi bèn đòi Thanh đình phải cải cách quốc gia theo quân chủ lập hiến. Lương Khải Siêu theo thầy, cho ra tờ Tân Dân tùng báo để cổ súy cho chính thể này.[11]
Từ đó cho tới năm 1901, Lương Khải Siêu lúc thì ở Nhật, lúc thì ở Hạ Uy Di (Hawaii), Nam Dương, châu Úc,...viết báo để cảnh tỉnh dân tộc mình.
Việc làm này của hai ông có ít nhiều tác dụng, bởi sau liên quân tám nước kéo vào Bắc Kinh, dẫn đến hòa ước Tân Sửu (1901), thì Thái hậu Từ Hi buộc phải cho khôi phục lại những sắc lịnh mà cuộc biến pháp đã đề ra để mua chuộc lại lòng dân lúc bấy giờ đang oán hận.
Tuy nhiên, việc ban bố Hiến pháp thì mãi đến năm 1908, Thanh đình mới thực hiện, nhưng liền bị cho là lập hiến hình thức, bởi quyền vua vẫn còn rất lớn, mà quyền dân thì rất ít.[12]
Nói gọn, trong 13 năm sống lưu vong, Lương Khải Siêu lập đảng Tiến bộ, làm báo (làm Chủ bút cho các báo Thanh Nghị báo, Tân Dân tùng báo, Tân tiểu thuyết) và viết sách cổ vũ cho công cuộc cải cách chính trị ở Trung Quốc.
Trong khoảng thời gian ở Nhật, Phan Bội Châu (nhà cách mạng Việt Nam) có đến gặp ông (1905). Nghe lời khuyên của ông, Phan Bội Châu biên soạn quyển Việt Nam vong quốc sử (Lịch sử mất nước của Việt Nam) nhằm lên án chế độ thực dân, tuyên truyền cách mạng...[13] và phát động phong trào Đông Du, tức đưa thanh niên sang Nhật học tập để sau này trở về cứu nước.
Trở về Trung Quốc
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1911, cách mạng Tân Hợi thành công tại Trung Quốc. Năm sau, Lương Khải Siêu trở về nước được nhiều giới hoan nghênh. Ngay trong năm đó, ông ra tờ Dung Ngôn báo (Tờ báo nói lời tầm thường). Lúc này, Khang Hữu Vi cũng đã về nước, lại đề xướng chủ trương bảo hoàng (định khôi phục ngôi vua cho phế đế Phổ Nghi. Sử gọi đây là cuộc vận động phục tịch) có lẽ vì ông thấy những vụ tranh giành, rối loạn trong những năm đầu Dân quốc mà thất vọng về chế độ dân chủ.[14]
Phần Lương Khải Siêu, bởi tin tưởng Lâm thời đại Tổng thống Viên Thế Khải, và muốn qua ông này để thực hiện những tư tưởng chính trị của mình, nên ông đã nhận lời làm Tổng trưởng Tư pháp, chủ trì việc biên soạn hiến pháp (1913).
Năm sau, ông làm Tổng tài Tệ chế cục. Thấy Viên Thế Khải âm mưu xây dựng lại nền đế chế, ông phản đối quyết liệt mà không được. Buồn chán, ông xin từ chức, rồi đem đảng của mình (Tiến bộ đảng) hiệp với Đảng Cách mạng Trung Hoa (lập năm 1914) của Tôn Dật Tiên để chống lại Viên.[15]
Tháng 6 năm 1916, Viên Thế Khải mất. Lê Nguyên Hồng lên làm Đại tổng thống. Năm 1917, Lương Khải Siêu được mời làm Bộ trưởng bộ Tài chính trong nội các của Đoàn Kỳ Thụy.
Rời bỏ chính trường rồi mất
[sửa | sửa mã nguồn]Thấy cũng không thực hiện được gì, năm sau ông quyết định rời bỏ chính trường, qua châu Âu xem xét tình hình thế giới. Năm 1919, ông về nước chuyên tâm dạy học ở Viện nghiên cứu Thanh Hoa và viết sách.
Ngày 31 tháng 3 năm 1927, Khang Hữu Vi mất. Hai năm sau, ngày 19 tháng 1 năm 1929, Lương Khải Siêu cũng qua đời tại Bắc Kinh ở tuổi 56.
Tác phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]Theo thống kê chưa đầy đủ, tác phẩm của Lương Khải Siêu có:
Triết học, tôn giáo
[sửa | sửa mã nguồn]- Mặc kinh hiệu thích (Giải thích và hiệu đính kinh điển Mặc Tử)
- Mặc tử học án
- Đại thừa khởi tín luận khảo chứng (Khảo chứng Đại thừa khởi tín luận)
- Phật giáo chi sơ thâu nhập
Sử học
[sửa | sửa mã nguồn]- Tân sử học
- Trung Quốc sử tự luận
- Trung Quốc chuyên chế chính trị tiến hóa sử luận
- Tiên Tần chính trị tư tưởng sử (Lịch sử tư tưởng chính trị thời Tiên Tần)
- Trung Quốc lịch sử nghiên cứu pháp (Phương pháp nghiên cứu lịch sử Trung Quốc)
- Thanh đại học thuật khái luận (Khái luận học thuật đời Thanh)
- Trung Quốc cận tam bách niên học thuật sử (Lịch sử học thuật ba trăm năm gần đây của Trung Quốc)
- Trung Quốc học thuật tư tưởng biến thiên sử (Sử chép việc biến thiên về học thuật tư tưởng của Trung Quốc)
- Cận đại học phong chi địa lý đích phân bố
- Trung Quốc lịch sử nghiên cứu pháp
- Trung Quốc lịch sử thượng dân tộc chi nghiên cứu
- Trung Quốc thực dân bát đại vĩ nhân truyện
- Quản tử truyện (Truyện Quảng Trọng)
- Vương Kinh công truyện (Truyện Vương An Thạch)
Ngoài ra, ông còn chép những danh nhân đương thời như Khang Hữu Vi, Lý Hồng Chương; và chép cả sử nước ngoài như Ý Đại Lợi kiến quốc tam kiệt truyện (意大利建國三傑傳)., Nhã Điển tiểu sử, Triều Tiên vong quốc sử, v.v...
Tiểu thuyết
[sửa | sửa mã nguồn]- Tân Trung Quốc vị lai ký
- Thế giới mạt nhật ký (dịch)
Tuồng
[sửa | sửa mã nguồn]- Kiếp khôi mộng truyền kỳ
- Tân La Mã truyền kỳ
Thơ văn
[sửa | sửa mã nguồn]- Thuẫn ty tập (Tập văn hiệu triệu)
- Ẩm Băng Thất tùng trứ (gồm các bài nghiên cứu và bình luận về nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực triết học, văn học và chính trị)
- Ẩm Băng Thất văn tập (Tập văn của Ẩm Băng Thất)
- Ẩm Băng Thất thi thoại (Thi thoại của Ẩm Băng Thất), v.v...[16]
Gia quyến
[sửa | sửa mã nguồn]- Tổ phụ: Lương Duy Thanh (梁維清, 1815 - 1902), đậu Tú tài cuối thời Thanh.
- Tổ mẫu: Lê thị (黎氏, 1817 - 1863), con gái Quảng Tây Đề đốc, Thám hoa Lê Đại Cương (黎大剛).
- Thân phụ: Lương Bảo Anh (梁寶瑛, 1849 - 1916), đậu Tú tài cuối thời Thanh, vì nhiều lần thi cử không đỗ cao nên ở quê nhà dạy học.
- Thân mẫu: Triệu thị (趙氏), người Tam Giang.
- Thê tử: Lý thị (李氏), tên Huệ Tiên (蕙仙), con gái Vĩnh Định Hà đạo Lý Triều Nghi (李朝儀). Anh trai bà là Lý Đoan Phần (李端棻) coi trọng tài năng của Lương Khải Siêu nên gả bà cho ông, sinh hai con trai và hai con gái.
- Dắng thiếp[17]: Vương thị (王氏), tên Quế Thuyên (桂荃), còn gọi Lai Hỷ (姑娘). Dù cùng ông tương đối ân ái nhưng vì Lương Khải Siêu kiên trì chế độ một vợ một chồng nên bà không có danh phận hay hôn ước chính thức, ông gọi bà là "Vương cô nương", sinh mười hai người con, qua đời trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa.

Từ trái qua phải: Lương Tư Ninh, Lương Tư Duệ, Lương Tư Lễ và Lương Tư Đạt, chụp năm 1934. - Con cái:
- Con trai: hai người con đầu do Lý Huệ Tiên sinh, còn lại do Vương Quế Thuyên sinh.
- Trưởng tử không rõ tên, sinh năm 1897, qua đời chỉ một tháng sau khi sinh.
- Nhị tử Lương Tư Thành (梁思成, 1901 - 1972), một trong Ngũ đại Kiến trúc sư của Trung Quốc, được coi là cha đẻ của ngành kiến trúc hiện đại, là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, dành cả cuộc đời cho việc bảo tồn di sản văn hóa và kiến trúc cổ. Vợ đầu của ông là Lâm Huy Nhân, cũng là một thi sĩ, kiến trúc sư nổi tiếng, con gái học giả Lâm Trường Dân, có với ông hai người con: con trai Lương Tòng Giới từng là một nhà hoạt động môi trường ở Trung Quốc, và con gái Lương Tái Băng từng làm phóng viên của Tân Hoa Xã. Sau khi Lâm Huy Nhân qua đời, ông tái hôn với Lâm Chu (林洙, 1928 - ?), từng theo học khoa Kiến trúc của Đại học Thanh Hoa.
- Tam tử Lương Tư Vĩnh (梁思永, 1904 - 1954), Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, là người đặt nền móng cho ngành khảo cổ hiện đại Trung Quốc. Vợ là Lý Phúc Man (李福曼), cháu gái đích mẫu của ông là Lý Huệ Tiên.
- Tứ tử Lương Tư Trung (梁思忠, 1907 - 1932), tốt nghiệp Học viện Quân sự West Point (Mỹ), sau khi về nước thì giữ chức Thượng tá Pháo binh trong Quân đoàn 19. Trong cuộc chiến chống Nhật tại Thượng Hải năm 1932, ông qua đời khi còn trẻ do bị viêm phúc mạc được chữa trị sai cách.
- Ngũ tử Lương Tư Đạt (梁思達, 1912 - 2001), tốt nghiệp khoa Kinh tế của Đại học Nam Khai, cả đời tận tụy nghiên cứu về số liệu thống kê kinh tế và lịch sử công nghiệp Trung Quốc. Vợ là Du Tuyết Trân (俞雪臻), có một con trai và hai con gái.
- Lục tử Vương Tư Quân (梁思均, 1916 - 1916), chết yểu.
- Thất tử Vương Tư Quảng (梁思廣, 1919 - 1919), chết yểu.
- Bát tử Vương Tư Lễ (梁思禮, 1924 - 2016), Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, là một trong những chuyên gia hàng đầu về hệ thống tên lửa và tên lửa đẩy, có nhiều đóng góp vĩ đại cho ngành hàng không vũ trụ Trung Quốc.
- Cửu tử Vương Tư Đồng (梁思同, 1926 - 1927), chết yểu.
- Con gái: trưởng nữ và tam nữ do Lý Huệ Tiên sinh, còn lại do Vương Quế Thuyên sinh.
- Trưởng nữ Lương Tư Thuận (梁思順, 1893 - 1966), Cán bộ Viện Nghiên cứu Văn sử Trung ương Trung Quốc, sống nhiều năm tại Canada.
- Nhị nữ không rõ tên, chết yểu.
- Tam nữ Lương Tư Trang (梁思莊, 1908 - 1986), từng theo học tại Canada và Mỹ, là Phó Giám đốc Thư viện Đại học Bắc Kinh, sau được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Khoa học Thư viện Trung Quốc.
- Tứ nữ Lương Tư Tịnh (梁思淨), chết yểu.
- Ngũ nữ Lương Tư Ý (梁思懿, 1914 - 1988), tốt nghiệp Đại học Yên Kinh, Ủy viên Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, Phó Chủ tịch Liên đoàn Phụ nữ tỉnh Sơn Đông.
- Lục nữ Lương Tư Ninh (梁思寧, 1916 - 2006), từng gia nhập Tân Tứ Quân để kháng chiến chống Nhật.
- Con trai: hai người con đầu do Lý Huệ Tiên sinh, còn lại do Vương Quế Thuyên sinh.
Nhận xét
[sửa | sửa mã nguồn]- Học giả Nguyễn Hiến Lê:
- GS. Nguyễn Huệ Chi:
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Quang Tự
- Khang Hữu Vi
- Đàm Tự Đồng
- Ông Đồng Hòa
- Bách nhật Duy tân
- Chiến tranh Thanh-Nhật
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Theo Dương Quảng Hàm thì năm sau Lương Khải Siêu đi thi Hội nhưng không đỗ (Việt Nam văn học sử yếu, tr. 403). Ngược lại, Nguyễn Hiến Lê cho rằng ông thi đỗ Tiến sĩ tại Bắc Kinh vào năm 1891 (Văn học Trung Quốc hiện đại, tr. 61). Còn các sách khác (đã dẫn ở mục tham khảo) thì không nói đến việc này.
- ^ Xem chi tiết ở trang Chiến tranh Thanh-Nhật.
- ^ Theo Lịch sử thế giới cận đại (tr. 349) và Sử Trung Quốc (Tập 2, tr. 271).
- ^ Ông Đồng Hòa (1830-1904), là người ở tỉnh Giang Tô. Năm 1856, ông thi đỗ Trạng nguyên, được cử làm Sư phó dạy Hoàng đế Đồng Trị, và sau đó là Hoàng đế Quang Tự. Ông chính là người tiến cử Khang Hữu Vi lên Hoàng đế, và cũng là người nhiệt tình ủng hộ cuộc biến pháp duy tân. Theo Thơ văn cổ Trung Hoa - mảnh đất quen mà lạ (Nhà xuất bản Giáo dục, 1999, tr. 414) và Phổ Nghi - Nửa đời đã qua [Hồi ký] (nhà xuất bản Thanh Niên, 2009, tr. 20).
- ^ Theo Nguyễn Hiến Lê, thì Khang Hữu Vi đã dâng thư lên Hoàng đế cả thảy 7 lần, nhưng đến lần thứ 7, thư mới đến tay Hoàng đế (Văn học Trung Quốc hiện đại, tr. 57).
- ^ Theo Lịch sử thế giới cận đại, tr. 350.
- ^ Kinh khanh giống như chức Quốc vụ khanh trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa (giải thích của Nguyễn Hiến Lê, Đại cương văn học sử Trung Quốc, tr. 660).
- ^ Theo Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc (Tập 2, tr.272).
- ^ Thái hậu Từ Hi còn muốn bắt Quang Tự thoái vị để đưa một người khác lên thay. Nhưng vì công sứ các nước đều phản đối, Hoa kiều ở hải ngoại đánh điện về ủng hộ nhà vua, nên bà dừng việc ấy lại. Tuy nhiên, kể từ đó Từ Hi càng thêm ghét ngoại nhân vì đã mớm cho Trung Quốc những ý tưởng về dân chủ, dân quyền mà bà cho là phản động...Đây là một trong số nguyên nhân gây ra phong trào Nghĩa Hòa Đoàn (1899-1901) mà sử cũ gọi là nạn Quyền phỉ (theo Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Tập 2, tr. 274).
- ^ Theo Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc (Tập 2, tr. 273). Lịch sử thế giới cận đại ghi Bách nhật duy tân bắt đầu từ 11 tháng 6 năm 1898 đến 21 tháng 9 cùng năm (tr. 352). Trung Quốc sử lược ghi bắt đầu và kết thúc sớm hơn một ngày (tr.428).
- ^ Theo Phan Khoang (Trung Quốc sử lược, tr.441), Nguyễn Hiến Lê (sử Trung Quốc, Tập 2, tr. 283). Tuy nhiên, Dương Quảng Hàm thì cho rằng sau khi đi du lịch hoàn cầu, trở về Nhật làm Tân dân tùng báo, Lương Khải Siêu từ bỏ chủ nghĩa bảo hoàng (là chủ nghĩa của thầy) để theo chủ nghĩa cộng hòa (tr. 403).
- ^ Thanh đình dự bị 9 năm mới hoàn thành hiến pháp. Rõ ràng là họ không thành tâm chút nào (lời phê này và chi tiết này đều căn cứ theo Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Tập 2, tr. 285).
- ^ Tác phẩm Việt Nam vong quốc sử được Lương Khải Siêu đề tựa và in giúp. Sau khi sách này gây được tiếng vang, Phan Bội Châu còn viết thêm nhiều tác phẩm khác, cũng nhằm mục đích tuyên truyền cách mạng. Xem thêm ở đây [1]
- ^ Sau đó, Khang Hữu Vi làm quân sư cho Trương Huân. Khi Lê Nguyên Hồng thoái vị, Trương Huân bèn đưa Phổ Nghi trở lại ngôi. Bị Đoàn Kỳ Thụy mang quân về đánh, Trương Huân thua phải trốn vào sứ quán Hà Lan. Cuộc phục tích chưa được mười ngày đã chấm dứt. Kể từ đó, Khang Hữu Vi chỉ còn ngồi viết thơ văn và đóng vai trò "di lão triều Thanh", lãnh một số trợ cấp nhỏ của chính phủ, rồi chết trong cô đơn năm 1927 (theo Nguyễn Hiến Lê, Văn học Trung Quốc hiện đại, tr. 57).
- ^ Theo Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc (Tập 3, tr. 21).
- ^ Hiện chưa tìm được bảng thống kê đầy đủ các phẩm của Lương Khải Siêu. Tạm thời, ở đây căn cứ theo Nguyễn Hiến Lê (chương viết về Lương Khải Siêu in trong Văn học Trung Quốc hiện đại, tr. 60-69) và Nguyễn Huệ Chi trong Từ điển văn học (bộ mới, tr. 896-897).
- ^ tức hầu gái từ nhà vợ được mang sang nhà chồng để hầu cận
- ^ Đại cương văn học sử Trung Quốc (tr. 660-661) và Văn học Trung Quốc hiện đại (tr. 69). Nói về tài văn Lương Khải Siêu, GS. Dương Quảng Hàm cũng có lời tương tự: Ông là một văn sĩ có thiên tài, lời hoạt bát, giọng nồng nàn khiến cho người đọc rất cảm động...(tr. 103).
- ^ Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 896-897.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu (bản in lần thứ 10). Trung tâm Học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1968.
- Nguyễn Hiến Lê, Đại cương văn học sử Trung Quốc. Nhà xuất bản Trẻ tái bản 1977.
- Nguyễn Hiến Lê, Văn học Trung Quốc hiện đại. Nhà xuất bản Văn học tái bản 1993.
- Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc (Tập 2 và Tập 3 in chung). Nhà xuất bản Văn hóa, 1997.
- Phan Khoang, Trung Quốc sử lược. Văn sử học xuất bản, Sài Gòn, 1970.
- Nguyễn Huệ Chi, mục từ Lương Khải Siêu trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng, Lịch sử thế giới cận đại. Nhà xuất bản Giáo dục, 2008.
- Ngô Chí Vinh - Vương Miện Quý (đồng Chủ biên), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc. Bản dịch từ tiếng Hoa của nhóm GS. Lương Duy Thứ (Chủ biên). Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 1994.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Từ khóa » Khải Siêu Là Ai
-
Lương Khải Siêu - Đôi Nét Về Tác Giả
-
Ông Chủ Khaisilk Là Ai? - Chân Dung Doanh Nhân Hoàng Khải Với ...
-
KHẢI SILK Là Ai Con đường Trở Thành đại Gia Của Khải Silk - YouTube
-
Tiểu Sử Ông Hoàng Khải - Nghệ Sĩ Việt
-
Lương Khải Siêu Là Gì? Chi Tiết Về Lương Khải Siêu Mới Nhất 2021
-
Đại Gia Khải Silk: Từ Triệu Phú Tiền đô đến “buôn Lụa Trung Quốc ...
-
Bộ Công Thương Nói Về Vụ Khải Silk “hô Biến” Xuất Xứ Khăn Lụa ...
-
Khải Silk Giờ Ra Sao? - Diễn đàn Doanh Nghiệp
-
Khải Silk - CafeF
-
Lương Khải Siêu Và Phan Bội Châu - Đông Tác
-
Nhà Sử Học Mới Lương Khải Siêu Và Bộ Trung Quốc Sử Trong Lý Tưởng
-
HUYỀN VIÊM - Trung Hoa - CHUYỆN TÌNH CỦA LƯƠNG KHẢI SIÊU
