Marc-André Ter Stegen – Wikipedia Tiếng Việt

Đối với bài viết này, họ là ter Stegen, không phải Stegen. Marc-André ter Stegen
Ter Stegen khởi động trong màu áo Barcelona vào năm 2018
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Marc-André ter Stegen[1]
Ngày sinh 30 tháng 4, 1992 (32 tuổi)[2]
Nơi sinh Mönchengladbach, Đức
Chiều cao 1,87 m (6 ft 2 in)[3]
Vị trí Thủ môn
Thông tin đội
Đội hiện nay Barcelona
Số áo 1
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1996–2010 Borussia Mönchengladbach
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2009–2011 Borussia Mönchengladbach II 18 (0)
2009–2014 Borussia Mönchengladbach 108 (0)
2014– Barcelona 288 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡
Năm Đội ST (BT)
2007–2008 U-16 Đức 7 (0)
2008–2009 U-17 Đức 16 (0)
2009–2010 U-18 Đức 8 (0)
2010–2011 U-19 Đức 5 (0)
2012–2015 U-21 Đức 13 (0)
2012– Đức 42 (0)
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Đại diện cho  Đức
FIFA Confederations Cup
Vô địch Nga 2017
Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu
Vô địch Đức 2009
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 22 tháng 9 năm 2024‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 10 tháng 9 năm 2024

Marc-André ter Stegen (phát âm tiếng Đức: [ˌmaʁk ʔanˈdʁeː teːɐ̯ ˈsteːɡn̩, - ʔãˈdʁeː -] ;[4] sinh ngày 30 tháng 4 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho đội tuyển bóng đá quốc gia Đức và là đội trưởng của câu lạc bộ La Liga Barcelona.[5][6][7] Nổi tiếng nhờ khả năng chuyền bóng, kỹ thuật xử lý bóng và khả năng phản xạ siêu hạng,[8][9] anh được đánh giá là một trong những thủ môn xuất sắc nhất thế giới trong thế hệ của mình.[10][11][12][13][14] Nổi tiếng với khả năng phản xạ, chuyền bóng và chơi chân,[15] anh thường được mệnh danh là Bức tường Berlin vì khả năng phản xạ và kiểm soát bóng của mình khi còn là một thủ môn.[16]

Sau bốn mùa giải ở Bundesliga với Borussia Mönchengladbach, ra sân 108 trận ở giải VĐQG, anh gia nhập Barcelona với giá 12 triệu euro vào năm 2014. Anh đã giành được cú ăn ba trong sự nghiệp của mình trong mùa giải đầu tiên ở Tây Ban Nha, chơi cho Barcelona tại Copa del Rey và UEFA Champions League.

Ter Stegen đại diện cho Đức ở một số cấp độ trẻ và ra mắt đội tuyển quốc gia vào năm 2012. Anh là thành viên của đội tuyển Đức lọt vào bán kết UEFA Euro 2016 và giành được FIFA Confederations Cup 2017, và cũng là thành viên của đội tuyển Đức tham dự FIFA World Cup 2018.

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Borussia Mönchengladbach

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải 2010–11

[sửa | sửa mã nguồn]

Ter Stegen bắt đầu sự nghiệp ở đội bóng quê hương Borussia Mönchengladbach. Trong nửa đầu mùa giải 2010–11, anh đã khẳng định mình là ngôi sao của đội dự bị của họ và thường xuyên được thấy trên băng ghế dự bị của đội một. Trong khi anh ấy đang tận hưởng một mùa giải tương đối thành công, điều tương tự lại không thể xảy ra với các đồng nghiệp ở đội một của anh.[17] Đội bóng cấp cao của Mönchengladbach dường như đã thất bại trong nỗ lực tránh xuống hạng, và vào ngày 14 tháng 2 năm 2011, huấn luyện viên Michael Frontzeck được thay thế bởi Lucien Favre, với đội bắt nguồn từ xếp cuối Bundesliga, chỉ tích lũy được 16 điểm sau 22 ngày thi đấu.[18]

Kết quả của đội sớm được cải thiện, nhưng phong độ thất thường của thủ môn số một Logan Bailly đã khiến đội bóng lùi lại. Mặc dù anh có thể tạo ra những màn trình diễn mang tính chiến thắng như trận đấu với Werder Bremen, nhưng những màn trình diễn này rất ít và thường xuyên bị hủy bỏ bởi những trận đấu không hấp dẫn. Những người hâm mộ Mönchenladbach đã nhanh chóng làm mất uy tín của tuyển thủ Bỉ, với một số cáo buộc anh đã nỗ lực nhiều hơn cho sự nghiệp người mẫu hơn là bóng đá. Sự tiến bộ của Ter Stegen cho đội dự bị đã không được những người ủng hộ chú ý, và người quản lý mới tràn ngập yêu cầu bắt thần đồng trẻ tuổi này tham gia giải đấu. Favre cuối cùng đã mất kiên nhẫn với Bailly, và vào ngày 10 tháng 4 năm 2011, để anh ta ngồi dự bị thay cho Ter Stegen trong trận đấu với 1. FC Köln. Cầu thủ trẻ người Đức đã không gây thất vọng, và hàng thủ đã thể hiện sự chắc chắn chưa từng thấy trước đây. Anh ấy giữ vị trí của mình trong đội trong phần còn lại của mùa giải, giữ 4 trong số 5 trận có thể xảy ra trong 5 ngày thi đấu gần nhất khi Mönchenladbach tránh xuống hạng qua vòng loại trực tiếp. Trong trận đấu này, anh ấy đã trở nên nổi bật với màn trình diễn ở vị trí cuối cùng trước nhà vô địch cuối cùng Borussia Dortmund, thực hiện một chuỗi pha cứu thua đẳng cấp thế giới khi Mönchengladbach ấn định chiến thắng nổi tiếng 1–0.[cần dẫn nguồn]

Mùa giải 2011–12

[sửa | sửa mã nguồn]
Ter Stegen với Borussia Mönchengladbach năm 2011

Vị thế thủ môn số một của Ter Stegen càng được củng cố khi Bailly được cho đội bóng Thụy Sĩ Neuchâtel Xamax mượn và chiếc áo số 1 được giao cho Ter Stegen, người trước đó đã mặc áo số 21.[cần dẫn nguồn]

Trong kỳ chuyển nhượng mùa hè, Bayern Munich đã thành công trong việc theo đuổi đội trưởng của Schalke 04 Manuel Neuer. Tuyển thủ Đức có trận ra mắt trước Mönchenladbach của Ter Stegen tại Allianz Arena. Tuy nhiên, trận đấu đã không diễn ra như các chuyên gia dự đoán, khi Ter Stegen tạo ra một màn trình diễn đầy cảm hứng khác trong khi người đồng đội Neuer mắc lỗi khiến Bayern nhận thất bại 1–0. Sau trận đấu này, Borussia Mönchenladbach bắt tay vào một thử thách khó có thể giành được danh hiệu, với Ter Stegen và cầu thủ trẻ Marco Reus là nguồn cảm hứng cho Mönchengladbach.[cần dẫn nguồn]

Mùa giải 2012–13

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau sự ra đi của Reus đến Borussia Dortmund và Dante đến Bayern Munich, Ter Stegen nổi lên như ngôi sao chính của Mönchenladbach trong mùa giải. Anh lại là sự lựa chọn số một, và vào tháng 2 năm 2013, có thông tin cho rằng Ter Stegen đã ký thỏa thuận trước với câu lạc bộ La Liga Barcelona.[19] Thương vụ này sau đó đã bị chính anh từ chối.[20]

Mùa giải 2013–14

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi được liên hệ chặt chẽ với Barcelona, Ter Stegen vẫn ở lại Mönchenladbach trong mùa giải mới. Vào ngày 6 tháng 1 năm 2014, anh từ chối một thỏa thuận mới từ câu lạc bộ,[21] làm dấy lên những đồn đoán về tương lai của anh ấy. Trong trận đấu sân nhà cuối cùng của mùa giải, chiến thắng 3–1 trên sân nhà trước Mainz 05 ngày 5/5, Ter Stegen gửi lời chia tay đầy nước mắt tới Borussia Mönchenladbach.[22]

Barcelona

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải 2014–15

[sửa | sửa mã nguồn]
Ter Stegen khởi động cho Barcelona năm 2014

Vào ngày 19 tháng 5 năm 2014, Ter Stegen được công bố là thủ môn mới của câu lạc bộ Tây Ban Nha Barcelona, ​​với thủ môn người Chile Claudio Bravo, sau sự ra đi của Víctor Valdés và José Manuel Pinto, có hiệu lực trong kỳ chuyển nhượng mùa hè.[23] Vào ngày 22 tháng 5 năm 2014, anh ký một hợp đồng 5 năm sẽ giữ anh ở lại câu lạc bộ cho đến tháng 6 năm 2019. Phí chuyển nhượng là 12 triệu euro (9,7 triệu bảng) và điều khoản mua đứt được đặt thành 80 triệu euro (63,6 triệu bảng).[24] Sau khi chuyển đi, Ter Stegen cho biết việc gia nhập câu lạc bộ là một bước đi đúng đắn và anh hướng tới mục tiêu ổn định tại câu lạc bộ.[25]

Ter Stegen dính chấn thương trước trận đấu đầu tiên của mùa giải.[26] Do chấn thương này, huấn luyện viên Barcelona Luis Enrique đã chọn Bravo trở thành thủ môn xuất phát của giải đấu, nơi anh giành được Zamora Trophy. Ter Stegen, cuối cùng đã không thi đấu trong các trận đấu trong chiến dịch vô địch quốc gia của Barça.[27] Tuy nhiên, Ter Stegen đã được chọn làm thủ môn số một trong cả hai mặt trận Copa del Rey và UEFA Champions League. Anh có trận ra mắt ở giải đấu thứ hai vào ngày 17 tháng 9, giữ sạch lưới trong chiến thắng 1–0 trên sân nhà trước APOEL.[28] Anh đã giúp Barcelona giành chiến thắng trận chung kết Copa Del Rey trong nước trong mùa giải đầu tiên, chiến thắng 3–1 trước Athletic Bilbao vào ngày 30 tháng 5 năm 2015.[29] Một tuần sau, anh thi đấu trong trận chung kết Champions League tại Olympiastadion ở Berlin, giành chiến thắng 3–1 trước Juventus.[30][31] Anh đã giành được giải thưởng "Cứu thua xuất sắc nhất" nhờ pha cứu thua ngoạn mục vào lưới Bayern Munich, trong trận lượt về của bán kết Champions League.[32]

Mùa giải 2015–16

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải thứ hai của anh mở đầu bằng chiến thắng ở UEFA Super Cup 2015 trước Sevilla ở Tbilisi vào ngày 11 tháng 8. Dẫn trước 4–1, sau đó anh để thủng lưới thêm ba bàn nữa để đưa trận đấu bước vào hiệp phụ, trong đó Barcelona thắng 5–4.[33] Anh ra mắt La Liga vào ngày 12 tháng 9 năm 2015 trong trận đấu với Atlético Madrid, trận đấu mà Barcelona thắng 2–1.[34]

Vào tháng 3 năm 2016, Ter Stegen nói về chính sách luân chuyển của Luis Enrique: "Về lâu dài, 25 trận mỗi mùa này là không đủ đối với tôi. Quyết định là do huấn luyện viên đưa ra. Tôi hy vọng rằng phẩm chất mà tôi đã thể hiện gần đây đã được khen thưởng."[35]

Mùa giải 2016–17

[sửa | sửa mã nguồn]

Ter Stegen dính chấn thương hồi đầu mùa giải nên đã bỏ lỡ Supercopa de España và các trận đấu của giải đấu. Anh trở thành thủ môn số một của Barcelona sau khi Claudio Bravo rời đến Manchester City vào ngày 25 tháng 8 năm 2016.[36] Vào ngày 13 tháng 9 năm 2016, Ter Stegen cản phá một quả phạt đền từ Moussa Dembélé, giữ tỷ số là 1–0 và cuối cùng dẫn đến chiến thắng 7–0 cho Barcelona trước Celtic tại UEFA Champions League.[37] Vào ngày 2 tháng 10 năm 2016, Ter Stegen đã có màn trình diễn kém cỏi khi mắc hai sai lầm nghiêm trọng, khiến Barcelona phải trả giá bằng trận đấu khi cuối cùng họ để thua 4–3 trước Celta Vigo.[38] Sau đó anh ấy đã xin lỗi và nói rằng sẽ không thay đổi lối chơi của mình.[39] Sau đó anh đã nhận được nhiều đánh giá tốt cho vai trò của mình trong chiến thắng lội ngược dòng 6–1 của Barcelona trước Paris Saint-Germain ở lượt về vòng 16 đội Champions League vì pa phạm lỗi nghiêm trọng từ tiền vệ PSG Marco Verratti ở phần sân đối phương – dẫn đến bàn thắng quan trọng ở phút 94 của Sergi Roberto, giúp Barcelona tiếp tục săn đuổi chức vô địch Champions League. Kết quả là Barcelona đã đủ điều kiện tham dự tứ kết Champions League, nơi cuối cùng họ bị loại bởi Juventus.[40][41] Ter Stegen thậm chí còn tỏ ra quyết đoán hơn ở giải đấu thứ hai El Clásico mùa đó khi thực hiện 12 pha cứu thua đáng kinh ngạc trong chiến thắng 3–2 tại Santiago Bernabéu trước Real Madrid, giúp Barcelona sống sót trong cuộc đua giành La Liga trong khi kém Real Madrid 3 điểm.[42][43]

Mùa giải 2017–18

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 29 tháng 5 năm 2017, Ter Stegen ký hợp đồng mới với Barcelona, giữ anh ở lại câu lạc bộ cho đến năm 2022, với điều khoản mua lại tăng lên 180 triệu euro.[44]

Vào ngày 14 tháng 10 năm 2017, Ter Stegen đã thực hiện một số pha cứu thua quan trọng, bao gồm hai cú sút đúng chỗ của Antoine Griezmann của Atlético Madrid, trên đường dẫn đến trận hòa 1–1 tại sân vận động mới được xây dựng lại Wanda Metropolitano, bảo toàn thành tích bất bại của Barcelona trong mùa giải La Liga 2017–18.[45] Vào ngày 28 tháng 10 năm 2017, Ter Stegen đã tạo ra một màn trình diễn phi thường trước Athletic Bilbao trong chiến thắng chung cuộc 2–0 cho Barcelona, ​​từ chối Aritz Aduriz trong thế đối đầu và thực hiện một nỗ lực lặn xuất sắc từ cùng một đối thủ với năm phút còn lại trên đồng hồ.[46] Tính đến ngày 20 tháng 11 năm 2017, Ter Stegen, với sự hỗ trợ của sự hướng dẫn của người quản lý vào thời điểm đó Ernesto Valverde, cùng với phong độ tốt của đồng đội và hậu vệ Samuel Umtiti, là nguyên nhân khiến Barcelona có ít bàn thắng nhất thừa nhận bất kỳ câu lạc bộ nào trong top 5 giải đấu hàng đầu châu Âu, chỉ với bốn bàn thua.[47] Vào ngày 22 tháng 11 năm 2017, Ter Stegen cản phá được cú sút ở phút 90 của Paulo Dybala của Juventus, tương tự như cú sút anh ghi vào lưới Ter Stegen trong trận thua tại Champions League mùa trước.[48] Kết quả này đủ tốt để đảm bảo một trận hòa và vị trí nhất bảng D, giúp Barcelona đủ điều kiện vào vòng đấu loại trực tiếp UEFA Champions League 2017–18. Tại thời điểm này, Ter Stegen đã cản phá được 23 trong số 24 cú sút trúng đích gần nhất của anh ấy với tỷ lệ cứu thua là 96%.[49]

Vào ngày 17 tháng 4 năm 2018, Ter Stegen lần đầu tiên được đeo băng đội trưởng Barcelona trong trận hòa 2–2 gặp Celta Vigo tại Balaídos khi vắng mặt đội trưởng thường xuyên Andrés Iniesta và Lionel Messi, với cầu thủ sau bắt đầu từ băng ghế dự bị.[50]

Mùa giải 2018–19

[sửa | sửa mã nguồn]
Ter Stegen thi đấu gặp Real Betis vào tháng 3 năm 2019

Vào ngày 12 tháng 8, Ter Stegen xuất phát với Barcelona trong trận đấu Supercopa de España 2018, trong đó câu lạc bộ đã đánh bại Sevilla 2–1 để giành chức vô địch, với Ter Stegen thực hiện một pha cản phá quả phạt đền muộn để bảo toàn chiến thắng.[51]

Ter Stegen đã giành được chức vô địch La Liga thứ tư với Barcelona và lọt vào bán kết của UEFA Champions League 2018–19, nơi đội của anh đã bị loại khỏi giải đấu sau khi thua chung cuộc 3–4 trước Liverpool, bao gồm cả trận thua 0–4 tại Anfield ở lượt về.[52]

Mùa giải 2019–20

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 28 tháng 9 năm 2019, Ter Stegen đã kiến tạo cho Luis Suárez ghi bàn thắng đầu tiên trong trận thắng 2–0 trên sân khách trước Getafe, trở thành thủ môn Barcelona đầu tiên thực hiện pha kiến tạo ở La Liga trong thế kỷ 21.[53][54] Vào ngày 6 tháng 10, Ter Stegen đánh dấu trận đấu thứ 200 cho Barça bằng trận giữ sạch lưới trong chiến thắng 4–0 trên sân nhà trước Sevilla.[55] Anh đã cung cấp một pha kiến tạo khác vào ngày 7 tháng 12 cho Antoine Griezman để ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 5–2 trên sân nhà trước Mallorca.[56] Lần đầu tiên trong sự nghiệp ở Barça, ter Stegen giữ sạch lưới 5 trận liên tiếp. Trận thứ năm là trước Athletic Bilbao trong chiến thắng 1–0 vào ngày 23 tháng 6 năm 2020.[57] Vào ngày 14 tháng 8 năm 2020, anh để thủng lưới 8 bàn trong trận thua 2–8 trước đội vô địch cuối cùng là Bayern Munich tại tứ kết UEFA Champions League 2019–20 ở Lisbon.[58]

Mùa giải 2020–21

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi kết thúc mùa giải trước, có thông báo rằng Ter Stegen đã trải qua một ca phẫu thuật đầu gối thành công và điều này khiến anh phải rời đội trong hơn hai tháng.[59] Anh ấy đã bỏ lỡ một số trận đấu và được thay thế bởi Neto.

Vào ngày 20 tháng 10, Ter Stegen gia hạn hợp đồng với Barcelona và giữ anh ở lại câu lạc bộ cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2025, với điều khoản mua đứt trị giá 500 triệu euro.[60]

Vào ngày 24 tháng 11, Ter Stegen đạt trận giữ sạch lưới thứ 100 với Barcelona trong chiến thắng 4–0 trước Dynamo Kyiv ở vòng bảng Champions League trận đấu tại Sân vận động NSC Olimpiyskiy ở Kyiv.[61]

Vào ngày 6 tháng 1 năm 2021, trong chiến thắng 3–2 trước Athletic Bilbao tại San Mamés, Ter Stegen đã có 250 lần ra sân cho Barcelona trên mọi đấu trường, giúp anh trở thành thủ môn có bàn thắng thứ năm–ra sân nhiều nhất trong lịch sử câu lạc bộ.[62]

Năm đó, anh ấy đã cùng câu lạc bộ giành chức vô địch Copa del Rey trước đội á quân trước đó là Athletic Bilbao với tỷ số 4–0.

Mùa giải 2021–22

[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải 2022–23

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 30 tháng 12 năm 2022, Ter Stegen được bổ nhiệm làm đội trưởng thứ tư của Barcelona, ​​sau khi Gerard Piqué giải nghệ giữa mùa giải.[63]

Ter Stegen đã giành được danh hiệu La Liga thứ năm với Barcelona. Dẫn đầu hàng phòng ngự Barcelona được củng cố bởi các bản hợp đồng của Jules Koundé và Andreas Christensen, Ter Stegen đã giành được Zamora Trophy đầu tiên khi chỉ để thủng lưới 18 bàn sau 38 lần ra sân. Ngoài ra, 26 trận giữ sạch lưới của anh đã cân bằng kỷ lục La Liga của Paco Liaño được thiết lập trong mùa giải 1993–94.[64] Bất chấp thành công ở La Liga của Barcelona, ​​họ đã bị loại khỏi vòng bảng Champions League và sau đó bị loại khỏi Europa League ở vòng play-off loại trực tiếp bởi Manchester United.

Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Ter Stegen trong màn trình diễn tại Chung kết FIFA Confederations Cup 2017

Năm 2009, anh tham gia vào đội chiến thắng giải U-17 châu Âu.[65]

Ter Stegen đã được khen thưởng vì màn trình diễn của anh ấy bởi Joachim Löw, người đã gọi anh ấy vào đội hình tạm thời của Đức cho UEFA Euro 2012. Anh ra mắt lần đầu tiên vào ngày 26 tháng 5 năm 2012, trong trận thua 5–3 trước Thụy Sĩ trong một trận đấu giao hữu, nhưng không lọt vào trận chung kết cho giải đấu. Anh ấy đã cản phá một quả phạt đền của Lionel Messi trong trận đấu quốc tế thứ hai trong trận thua 1-3 trước Argentina vào ngày 15 tháng 8, ngay sau khi vào sân sau khi Ron-Robert Zieler bị đuổi khỏi sân.[66]

Vào ngày 27 tháng 6 năm 2015, anh để thủng lưới 5 bàn trong trận đấu của U-21 Đức với U-21 Bồ Đào Nha trong trận bán kết của giải vô địch U-21 châu Âu ở Cộng hòa Séc.[67]

Ter Stegen đã được đưa vào đội tuyển Đức tham dự UEFA Euro 2016,[68] nhưng vẫn phải ngồi dự bị trong suốt giải đấu, dự bị cho Manuel Neuer; Đức lọt vào bán kết và bị loại sau trận thua 0–2 trước chủ nhà Pháp.[69]

Tại FIFA Confederations Cup 2017, Ter Stegen đá chính trong tất cả các trận đấu của đội anh ấy, ngoại trừ trận đầu tiên ở vòng bảng, khi Đức giành chức vô địch giải đấu. Với màn trình diễn của anh ấy trong trận chung kết trước Chile, anh được vinh danh là Cầu thủ của trận đấu.[70]

Vào ngày 15 tháng 5 năm 2018, Ter Stegen được đưa vào đội hình 27 người của Đức tham dự FIFA World Cup 2018.[71] Huấn luyện viên Joachim Löw của Đức đã đưa Ter Stegen vào đội hình 23 người cuối cùng của Đức tham dự World Cup vào ngày 4 tháng 6 năm 2018.[72]

Vào tháng 9 năm 2019, Ter Stegen đã có một cuộc khẩu chiến nhỏ với Manuel Neuer về vị trí thủ môn số một cho tuyển Đức..[73][74]

Vào tháng 5 năm 2021, Ter Stegen bị loại khỏi danh sách tham dự UEFA Euro 2020 của Đức sau khi quyết định phẫu thuật để điều trị chấn thương gân bánh chè ở đầu gối phải.[75]

Phong cách thi đấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Ter Stegen được mô tả là một thủ môn cao lớn, nhanh nhẹn và kiên định, phản xạ nhanh, ra quyết định tốt và khả năng cản phá xuất sắc giữa các cột dọc; anh cũng mạnh mẽ trong không chiến, giỏi trong các tình huống một đối một và giao tiếp hiệu quả với tuyến sau nhờ tính cách mạnh mẽ của anh. Nhờ khả năng đọc trận đấu và tốc độ khi lao ra khỏi đường biên, anh có thể đoán trước được đối thủ ngoài vòng cấm đã phá bẫy việt vị. Là người có khả năng cầm bóng cao trong chân, anh ấy nổi tiếng với khả năng kiểm soát và phân phối bóng chính xác, đồng thời thường đóng vai trò là một thủ môn quét, nhờ khả năng đi bóng từ phía sau của anh. Anh thường sử dụng đôi chân của mình để áp sát các cầu thủ và thực hiện những pha cứu thua quan trọng theo kiểu được mô tả là 'phong cách thủ môn Đức'.[3][76][77][78][79][80][81][82] Hơn nữa, anh còn sở hữu kỹ thuật thủ môn cơ bản tốt và ý thức chọn vị trí tốt.[83] Vào năm 2020, cựu thủ môn Tây Ban Nha và Barcelona Salvador Sadurní lưu ý rằng phong cách chơi của Ter Stegen rất giống với phong cách chơi của người đồng hương Đức Manuel Neuer.[84] Được đánh giá là cầu thủ có triển vọng cao khi còn trẻ,[8] kể từ đó anh đã khẳng định mình là một trong những thủ môn xuất sắc nhất của bóng đá thế giới.[10][11][12][13][14]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Ter Stegen sinh ra ở Mönchengladbach, North Rhine-Westphalia.[85] Anh là người gốc Hà Lan thông qua cha mình.[86] Anh kết hôn với người bạn gái lâu năm của mình, Daniela Jehle, ở Sitges, gần Barcelona.[87] Vào ngày 28 tháng 12 năm 2019, cô sinh đứa con đầu lòng, Ben.[88]

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn] Tính đến 27 tháng 8 năm 2023[89] Số lần ra sân và bàn thắng theo câu lạc bộ, mùa giải và giải đấu
Câu lạc bộ Mùa giải Giải vô địch Cúp quốc gia[a] Châu Âu Khác Tổng cộng
Hạng đấu Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Borussia Mönchengladbach II 2009–10[90] Regionalliga 3 0 3 0
2010–11[91] Regionalliga 15 0 15 0
Tổng cộng 18 0 18 0
Borussia Mönchengladbach 2010–11[92] Bundesliga 6 0 0 0 2[b] 0 8 0
2011–12[93] Bundesliga 34 0 5 0 39 0
2012–13[94] Bundesliga 34 0 2 0 9[c] 0 45 0
2013–14[95] Bundesliga 34 0 1 0 35 0
Tổng cộng 108 0 8 0 9 0 2 0 127 0
Barcelona 2014–15[96] La Liga 0 0 8 0 13[d] 0 21 0
2015–16[97] La Liga 7 0 7 0 10[d] 0 2[e] 0 26 0
2016–17[98] La Liga 36 0 1 0 9[d] 0 0 0 46 0
2017–18[99] La Liga 37 0 0 0 9[d] 0 2[f] 0 48 0
2018–19[100] La Liga 35 0 2 0 11[d] 0 1[f] 0 49 0
2019–20[101] La Liga 36 0 2 0 8[d] 0 0 0 46 0
2020–21[102] La Liga 31 0 4 0 5[d] 0 2[f] 0 42 0
2021–22[103] La Liga 35 0 1 0 12[g] 0 1[f] 0 49 0
2022–23[104] La Liga 38 0 3 0 7[h] 0 2[f] 0 50 0
2023–24[105] La Liga 3 0 0 0 0 0 0 0 3 0
Tổng cộng 258 0 28 0 84 0 10 0 380 0
Tổng cộng sự nghiệp 384 0 36 0 93 0 12 0 525 0
  1. ^ Bao gồm DFB-Pokal, Copa del Rey
  2. ^ Ra sân tại Play-off xuống hạng Bundesliga
  3. ^ 2 lần ra sân tại UEFA Champions League, 7 lần ra sân tại UEFA Europa League
  4. ^ a b c d e f g Ra sân tại UEFA Champions League
  5. ^ 1 lần ra sân tại Supercopa de España, 1 lần ra sân tại UEFA Super Cup
  6. ^ a b c d e Ra sân tại Supercopa de España
  7. ^ 6 lần ra sân tại UEFA Champions League, 6 lần ra sân tại UEFA Europa League
  8. ^ 5 lần ra sân tại UEFA Champions League, 2 lần ra sân tại UEFA Europa League

Đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn] Tính đến 26 tháng 3 năm 2024[106][107] Số lần ra sân và bàn thắng theo đội tuyển quốc gia và năm
Đội tuyển quốc gia Năm Trận Bàn
Đức
2012 2 0
2013 1 0
2014 1 0
2016 4 0
2017 10 0
2018 3 0
2019 3 0
2021 3 0
2022 3 0
2023 8 0
2024 2 0
Tổng cộng 40 0

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Barcelona

[sửa | sửa mã nguồn]
  • La Liga: 2014–15, 2015–16, 2017–18, 2018–19, 2022–23
  • Copa del Rey: 2014–15, 2015–16, 2016–17, 2017–18, 2020–21
  • Supercopa de España: 2016, 2018, 2022–23
  • UEFA Champions League: 2014–15
  • UEFA Super Cup: 2015
  • FIFA Club World Cup: 2015

Quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

U-17 Đức

[sửa | sửa mã nguồn]
  • UEFA European Under-17 Championship: 2009

Đức

[sửa | sửa mã nguồn]
  • FIFA Confederations Cup: 2017

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “FIFA World Cup Russia 2018: List of Players: Germany” (PDF). FIFA. 15 tháng 7 năm 2018. tr. 12. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2019.
  2. ^ “Marc-André ter Stegen: Overview”. ESPN. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2020.
  3. ^ a b “Marc-André ter Stegen”. FC Barcelona. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2020.
  4. ^ “Ter Stegen kommt nach Hause” (bằng tiếng Đức). 26 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2018 – qua YouTube.
  5. ^ “Analyzing ter Stegen – The best of the German goalkeeper”. grup14.com. 18 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2015.
  6. ^ “Ter Stegen, following in Neuer's footsteps”. Marca. Spain. 23 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2015.
  7. ^ “Barcelona celeberate [sic] ter Stegen as "the new Manuel Neuer"”. Deutscher Fußball-Bund. 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2015.
  8. ^ a b “ter Stegen joins FC Barcelona”. bundesliga.com. 20 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2018.
  9. ^ KN, Siddhinathan (16 tháng 4 năm 2020). “How Marc-André ter Stegen is much more than a shot-stopper for Barcelona”. www.sportskeeda.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2022.
  10. ^ a b “Ter Stegen 'world's best goalkeeper'”. Football España. 23 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2018.
  11. ^ a b Talavera, Jaime; Diego García (7 tháng 12 năm 2017). “Who is the best goalkeeper in the world?”. Marca. Spain. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2018.
  12. ^ a b “Ranked! The 10 best goalkeepers in the world”. FourFourTwo. 3 tháng 1 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2018.
  13. ^ a b Edwards, Harry (9 tháng 1 năm 2018). “Barcelona 'keeper Marc-Andre ter Stegen is on Manuel Neuer's level – Xavi”. squawka.com. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2018.
  14. ^ a b “The 40 most valuable players in world football”. The Telegraph. 12 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2018.
  15. ^ KN, Siddhinathan (16 tháng 4 năm 2020). “How Marc-André ter Stegen is much more than a shot-stopper for Barcelona”. www.sportskeeda.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2022.
  16. ^ “Ter Stegen, The Berlin Wall”. MARCA. 6 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2022.
  17. ^ “Scouting Network: Marc-André ter Stegen : "The fans already had their support for Ter Stegen, and had known what this teenager was capable of, and thus demanded the new manager to utilise him and give him a taste of football at the highest level, hoping that he would deliver the goods for them"”. goaldentimes.org. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2015.
  18. ^ “Favre soll Gladbach retten” (bằng tiếng Đức). Abendzeitung München. 14 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2013.
  19. ^ “Ter Stegen signs pre-agreement with Barça”. Marca. 14 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2014.
  20. ^ Coerts, Stefan (4 tháng 7 năm 2013). “Ter Stegen laughs off Barcelona links”. Goal.com. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2014.
  21. ^ “Marc-Andre ter Stegen rejects Borussia Monchengladbach offer”. Sky Sports. 6 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2014.
  22. ^ “Transfer news: Barcelona-bound Marc-Andre ter Stegen says goodbye to Monchengladbach”. Sky Sports. 5 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2014.
  23. ^ “Llega Ter Stegen y se va Pinto” [Ter Stegen arrives and Pinto leaves] (bằng tiếng Tây Ban Nha). FC Barcelona. 19 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2014.
  24. ^ “Marc-André ter Stegen signs 5-year contract”. FC Barcelona. 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  25. ^ “I'm fulfilling my dream, says Barcelona newbie Ter Stegen”. Goal.com. 22 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2014.
  26. ^ “Ter Stegen injury confirmed”. FC Barcelona. 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2015.
  27. ^ “Claudio Bravo wins first Zamora Trophy”. FC Barcelona. 24 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2015.
  28. ^ Hunter, Graham (17 tháng 9 năm 2014). “Piqué the head boy as Barça edge past APOEL”. UEFA. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2015.
  29. ^ “Lionel Messi double gives Barcelona Cup final win over Athletic Bilbao”. The Observer. 30 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2015.
  30. ^ Haslam, Andrew (6 tháng 6 năm 2015). “Barcelona see off Juventus to claim fifth title”. UEFA. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  31. ^ West, Andy (17 tháng 5 năm 2015). “Barcelona win La Liga: 10 key factors behind their revival”. BBC Sport. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2015.
  32. ^ “Ter Stegen scoops UEFA Save of the Season award”. FC Barcelona. 27 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2015.
  33. ^ “Barcelona 5–4 Sevilla”. BBC Sport. 11 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2015.
  34. ^ “Ter Stegen feiert erfolgreiches Liga-Debüt” [Ter Stegen celebrates successful league debut]. T-Online (bằng tiếng Đức). 13 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2015.
  35. ^ “Ter Stegen drops Barcelona exit hint”. FourFourTwo. 25 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2016.
  36. ^ “Bravo Barcelona! Blaugrana right to sacrifice Chilean for Ter Stegen”. 17 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2016.
  37. ^ “Barcelona goalkeeper Marc-Andre ter Stegen comments on saving Moussa Dembele penalty”. 14 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2016.
  38. ^ “Celta Vigo 4-3 Barcelona”. BBC Sport. 2 tháng 10 năm 2016 – qua bbc.co.uk.
  39. ^ “Ter Stegen: Celta Vigo defeat was my fault, I'm really sorry”. sport. 2 tháng 10 năm 2016.
  40. ^ “Champions League 2017: Barcelona routs Paris Saint-Germain 6–1 in astonishing comeback”. CNN. 9 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
  41. ^ “Barcelona shatter PSG as Sergi Roberto caps incredible 6–1 comeback win”. The Guardian. 9 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
  42. ^ West, Andy (24 tháng 4 năm 2017). “COMMENT: Marc-Andre ter Stegen is Barca's quiet hero”. sport360.com. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2017.
  43. ^ “Ter Stegen saves the day in the Bernabéu”. FC Barcelona. 25 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2017.
  44. ^ “FC Barcelona extends Ter Stegen contract until 2022”. FC Barcelona. 29 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2017.
  45. ^ “Marc-Andre ter Stegen, or how to dominate the area”. sport. 16 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2017.
  46. ^ “Ter Stegen magical in Barca win vs. Athletic”. ESPN. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2017.
  47. ^ “Screen Shot 2017 11 20 at 8 11 01 pm”. imgbb.com. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2017.
  48. ^ Streamable – free video publishing, Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2021, truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017
  49. ^ “96% – Marc-Andre ter Stegen has saved 23 of the last 24 shots on target he has faced for Barcelona in all competitions”. @OptaJose. 22 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017.
  50. ^ “Celta Vigo 2–2 Barcelona”. BBC Sport. 17 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2021.
  51. ^ “Ousmane Dembélé's wondergoal seals Spanish Super Cup for Barcelona”. The Guardian. 12 tháng 8 năm 2018. ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2019.
  52. ^ “Liverpool 4–0 Barcelona”. UEFA. 7 tháng 5 năm 2019.
  53. ^ “Ter Stegen assist helps Messi-less Barcelona win”. ESPN. 28 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
  54. ^ “Ter Stegen makes Barcelona history with assist for Suárez”. Diario as. as.com. 28 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2019.
  55. ^ “Ter Stegen reaches 200 games at FC Barcelona”. FC Barcelona. 7 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2019.
  56. ^ “Barcelona vs. Mallorca - Football Match Commentary - December 7, 2019”. ESPN. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2019.
  57. ^ “Ter Stegen sets new goalless run record following Athletic Bilbao clean sheet”. Tribuna.com. 24 tháng 6 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2021.
  58. ^ 'I feel sorry for Ter Stegen' - Bayern's Neuer saddened to see German rival concede eight goals”. Goal.com. 15 tháng 8 năm 2020.
  59. ^ “Ter Stegen out for two-and-a-half months as Barcelona goalkeeper undergoes successful knee surgery”. Goal.com. 18 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2021.
  60. ^ “Agreement for contract extensions for Piqué, Ter Stegen, De Jong and Lenglet”. FC Barcelona. 21 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2021.
  61. ^ “Ter Stegen reaches a century of clean sheets”. Marca. 26 tháng 11 năm 2020.
  62. ^ “Ter Stegen makes 250th appearance”. FC Barcelona. 6 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2021.
  63. ^ “Ter Stegen becomes new fourth captain”. FC Barcelona. 30 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2023.
  64. ^ “Ter Stegen, Zamora Trophy winner for 2022/23”. FC Barcelona. 4 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2023.
  65. ^ “Marc-André ter Stegen”. DFB – Deutscher Fußball-Bund e.V. 11 tháng 3 năm 2014.
  66. ^ “Messi misses penalty; Argentina beat Germany”. sportsnet.ca. 15 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2013.
  67. ^ Hart, Simon (27 tháng 6 năm 2015). “Five-goal Portugal stun Germany in semi-finals”. UEFA. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2015.
  68. ^ “Meet Germany's 23-man squad for Euro 2016”. Deutsche Welle. 31 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2017.
  69. ^ “How the FC Barcelona players performed at Euro 2016”. FC Barcelona. 9 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2018.
  70. ^ “Man of The Match”. FIFA. 2 tháng 7 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2017.
  71. ^ “Holders Germany unveil Russia 2018 preliminary squad”. FIFA. 15 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2018.
  72. ^ “Germany announce final World Cup squad, with Manuel Neuer, without Leroy Sané”. Deutsche Welle. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2018.
  73. ^ Marsden, Sam (16 tháng 9 năm 2019). “Ter Stegen calls Neuer comments 'inappropriate'”. ESPN. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
  74. ^ “Manuel Neuer vs. Marc-Andre ter Stegen: The melodrama that threatens to spill over”. DW.com. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2019.
  75. ^ Aldunate, Ramiro (20 tháng 5 năm 2021). “Ter Stegen reflects on knee surgery: Everything has gone well”. Marca. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2021.
  76. ^ Navarro, Cristina (22 tháng 5 năm 2014). “Azulgranas have kept tabs on Ter Stegen since 10–11 season”. Marca. Spain. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2017.
  77. ^ “Ter Stegen: Super sweeper-keeper”. Marca. Spain. 6 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2017.
  78. ^ Hunter, Graham (30 tháng 8 năm 2016). “Marc-Andre ter Stegen shows why he won the Barcelona goalkeeper job”. ESPN. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2017.
  79. ^ Church, Ben (25 tháng 8 năm 2016). “Safe feet: the seven best ball-playing goalkeepers in world football”. squawka.com. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2017.
  80. ^ Corrigan, Dermot (22 tháng 5 năm 2014). “Ter Stegen had heart set on Barcelona”. ESPN FC. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2017.
  81. ^ Nesci, Gianluca (24 tháng 7 năm 2017). “Perfect player series: Building a flawless goalkeeper”. The Score. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2018.
  82. ^ Gallardo, Juan Ignacio; Rojo, Luis F. (17 tháng 10 năm 2019). “Messi: The body rules and I have to take more care of myself than before”. Marca. Spain. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2019.
  83. ^ “A meeting of goalkeepers: Sadurní and Ter Stegen”. FC Barcelona. 17 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2019.
  84. ^ “Ter Stegen and Neuer: Intimate enemies”. MARCA. 13 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2021.
  85. ^ “Marc-André ter Stegen: Profile”. worldfootball.net. HEIM:SPIEL. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2020.
  86. ^ Adams, Torsten (9 tháng 5 năm 2009). “Ich bin kein Ronaldo-Fan”. spox.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2021.
  87. ^ Smith, Alex (16 tháng 5 năm 2017). “Barcelona ace Marc-Andre ter Stegen proves he is a keeper by tying the knot”. mirror.
  88. ^ “Marc-André ter Stegen”. facebook.com. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  89. ^ “Marc-André ter Stegen”. ESPN. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2018.
  90. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2010/2011”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2023.
  91. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2011/2012”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2023.
  92. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2010/2011”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  93. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2011/2012”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  94. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2012/2013”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  95. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2013/2014”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  96. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2014/2015”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  97. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2015/2016”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  98. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2016/2017”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  99. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2017/2018”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  100. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2018/2019”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2018.
  101. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2019/2020”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2019.
  102. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2020/2021”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2020.
  103. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2021/2022”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2022.
  104. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2022/2023”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2022.
  105. ^ “Trận thi đấu của Marc-André ter Stegen trong 2023/2024”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2022.
  106. ^ “Marc-André ter Stegen”. EU-Football.info. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  107. ^ “ter Stegen, Marc-André”. National Football Teams. Benjamin Strack-Zimmerman. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn] Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Marc-André ter Stegen.
  • FC Barcelona official profile
  • Marc-André ter Stegen tại BDFutbol
  • Marc-André ter Stegen tại Soccerway
  • Marc-André ter Stegen tại fussballdaten.de (tiếng Đức)
  • x
  • t
  • s
FC Barcelona – đội hình hiện tại
  • Ter Stegen
  • Cubarsí
  • Balde
  • Araújo
  • Martínez
  • Gavi
  • Ferran
  • Pedri
  • Lewandowski
  • 10 Fati
  • 11 Raphinha
  • 13 Peña
  • 14 Torre
  • 15 Christensen
  • 16 Fermín
  • 17 Casadó
  • 18 Víctor
  • 19 Yamal
  • 20 Olmo
  • 21 De Jong
  • 23 Koundé
  • 24 García
  • Huấn luyện viên trưởng: Flick
  • x
  • t
  • s
Đội hình ĐứcBán kết Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
  • Neuer
  • Mustafi
  • Hector
  • Höwedes
  • Hummels
  • Khedira
  • Schweinsteiger (c)
  • Özil
  • Schürrle
  • 10 Podolski
  • 11 Draxler
  • 12 Leno
  • 13 Müller
  • 14 Can
  • 15 Weigl
  • 16 Tah
  • 17 Boateng
  • 18 Kroos
  • 19 Götze
  • 20 Sané
  • 21 Kimmich
  • 22 Ter Stegen
  • 23 Gómez
  • Huấn luyện viên: Löw
Đức

Từ khóa » Thủ Môn Barca