“Màu Tím Hoa Sim” - Bi Kịch Của Hữu Loan - Phụ Nữ Online

1.

Một ngày, sau khi hai miền thành một, một người đàn ông tóc đã hoa râm bước xuống ga Sài Gòn trên chuyến tàu Thống Nhất. Trên sân ga, người hành khất già, cụt chân đang ôm guitar hát những lời u buồn: “Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt/ Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai/ Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về…”.

Người đàn ông già khựng lại. Ông thấy một điều thân quen, như có đời mình trong câu hát ấy. Ông yêu cầu người hành khất hát lại lần nữa, rồi thẫn người, nước mắt ứa ra. Ông vét hết số tiền mình có trong túi, bỏ vào chiếc ca nhựa rách đang đặt dưới sân ga của người hành khất, nói: “Đó là tôi”. Ông bỏ đi, dáng như đổ trong chiều. Đó là nhà thơ Hữu Loan, và đó là lần đầu tiên ông nghe được bài hát Những đồi hoa sim, lời hát lấy từ bài thơ Màu tím hoa sim của mình.

2. Cho đến bây giờ, giới văn chương Việt Nam vẫn kể nhau nghe câu chuyện đó mỗi khi nhắc về “án văn Hữu Loan” đầy ray rứt, dù không ai xác định được đó là câu chuyện thật hay chỉ là giai thoại. Kể và tin, vì dù có thật hay không, nó cũng khắc họa rất rõ về bài thơ Màu tím hoa sim và cuộc đời của Hữu Loan.

Nhà thơ Nguyễn Hữu Loan sinh năm 1916 ở Nga Sơn, Thanh Hóa. Ông được đánh giá là nhà thơ tài ba của dòng thơ kháng chiến chống Pháp. Sau khi đất nước sang giai đoạn đổi mới, Màu tím hoa sim của ông mới được “minh oan”, lưu hành rộng rãi. Ngoài Màu tím hoa sim, ông còn có bài thơ Đèo Cả, Cũng những thằng nịnh hót… rất nổi tiếng.

Sau này, ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nhu và có với nhau 10 người con.

Ban đầu, bài thơ chỉ là một bản viết tay, rồi được truyền miệng rộng rãi, sau đó mới được Nguyễn Bính đăng trên tờ Trăm Hoa, phía dưới là lời đề: “1946, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh”. Người phụ nữ của ông, người vợ mà ông chỉ được sống nghĩa tào khang vỏn vẹn hai tuần vì “Tôi ở đơn vị về, cưới nhau xong là đi”, đã nằm sâu trong đất lạnh chỉ ba tháng sau ngày cưới. Bà chết đuối khi giặt quần áo bên bờ sông.

Bài thơ ấy mở ra chuỗi ngày đầy bất trắc của “kẻ sĩ” tài hoa Hữu Loan, nó bị cho là “ủy mị”, “tiểu tư sản”, “làm giảm sức chiến đấu”. Ông mang tội làm nhụt nhuệ khí, làm chùng trái tim người trên chiến trận, mang tội nghĩ đến tình riêng khi đất nước còn khói lửa.

Hữu Loan, từ một người của văn chương, chính trị, từng là chủ bút báo Chiến sĩ của Sư đoàn 304 ở Liên khu IV và biên tập viên tạp chí Văn nghệ, trở về Thanh Hóa, phải đẩy xe cút kít vào núi lấy đá mỗi ngày đem về bán, để kiếm bữa ăn. Trên mộ người vợ ông, vẫn bình hương đó - chiếc bình mà vào ngày cưới, vợ ông đã cắm vào một bó hoa rất xinh. Bà dừng lại ở tuổi 17, còn ông đi tiếp cuộc đời gian truân, trong nỗi đau đến mức ông phản kháng lại tất cả những ai, những gì không cho ông được phép đau.

Bài thơ Màu tím hoa sim ông vẫn để đó, dù ông đã không còn những ngày hành quân nữa. Vào ngày ông mất ở tuổi 95 (năm 2010), một kiến trúc sư nổi tiếng đã ghi dòng cảm xúc tiễn biệt: “Đó là bài thơ hay nhất mà tôi từng đọc trong đời mình!”.

3. Nhiều người cho rằng, trong “liên làng” văn - nhạc của Việt Nam, Màu tím hoa sim là bài thơ độc nhất vô nhị. Tính “độc nhất” của bài thơ ở chỗ, cảm xúc trong đó không có ranh giới đối tượng: là bài thơ xuất phát từ “bên đây” nhưng lại được “bên kia” yêu thích như thể viết cho mình.

Theo các bạn văn của Hữu Loan, bi kịch của đời ông bắt nguồn từ việc ông quá khái tính. Ông không chấp nhận được những ý kiến sai lệch (trong đó có nhận định về bài thơ Màu tím hoa sim), mà ông gọi nôm na là quản lý kiểu “làm văn nghệ”, nên bỏ chiến trường, về quê.

Kỳ thực, trái với nhiều người tưởng, ông không hề có quyết định kỷ luật nào. Vì không hề bị kỷ luật nên vào năm 1989, ông được truy lĩnh lương hưu, sau 35 năm không nhận lương. “Ông nóng tính và khí phách”, nhà thơ Hữu Thỉnh có lần nhận định. Ngay cả khi làm thủ tục truy lĩnh lương hưu cho chính ông, nhà thơ Hữu Thỉnh phải đứng ra thuyết phục thì ông mới chịu ký.

Trên chiến trường, nhiều người lính nằm đêm ngửa mặt nhìn sao, nhớ lời thơ ông mà khóc: “Nhưng không chết người trai khói lửa/ Mà chết người gái nhỏ hậu phương/ Tôi về không gặp nàng/ Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối/ Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương tàn lạnh vây quanh…”. Nỗi niềm ấy, nào chỉ thuộc riêng lòng chàng trai của “phe này” hay “phe kia”…

Một đặc điểm “độc nhất” khác, Màu tím hoa sim là bài thơ được phổ nhạc, lấy cảm hứng viết nhạc nhiều nhất Việt Nam - gần chục bài. Đặc biệt, bài hát nào cũng có một đời sống riêng, được yêu thích không thua tác phẩm gốc: Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh), Áo anh sứt chỉ đường tà (Phạm Duy), Chuyện hoa sim (Anh Bằng)… Mỗi bài hát đều gắn với những giọng ca nổi tiếng. Trong đó, Những đồi hoa sim (“Nhạn trắng Gò Công” Phương Dung hát lần đầu năm 1960), được ông thích nhất.

Bài hát được viết theo điệu slow rumba, âm giai chủ rê thứ. Lời bài hát không đi theo trình tự vốn có của bài thơ mà thêm bớt, đảo ngược thứ tự, cũng không hề sử dụng trọn vẹn lời thơ của ông như Áo anh sứt chỉ đường tà hay Chuyện hoa sim… nhưng ông thích nhất, vì nó làm ông đau nhất.

“Nó buồn quá, vì nó buồn quá nên tinh thần của nó đúng với tinh thần bài thơ”, ông nói. Hay nói đúng hơn, Những đồi hoa sim khắc họa rõ nhất nỗi mất mát của ông, về người phụ nữ hai lần tiễn ông đi nhưng ông không có cơ hội nhìn mặt bà lần cuối. “Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…”, sau này, ông nhớ lại.

4. Sau Màu tím hoa sim, nhiều tác phẩm thi ca Việt xuất hiện các cụm từ rất… Hữu Loan như “tím biền biệt”, “tím cả chiều hoang”… Vì thế, một nhà phê bình đã nói, suốt một cuộc đời dài gần trăm năm, dù có rất nhiều bài thơ xuất sắc nhưng chỉ cần mỗi Màu tím hoa sim, Hữu Loan đã nhuộm tím thi đàn Việt Nam.

Năm 2004, bài thơ được một doanh nghiệp mua sử dụng với số tiền tác quyền lên đến 100 triệu đồng - số tiền tác quyền bài thơ được cho là cao nhất thời điểm ấy không chỉ ở Việt Nam mà còn ở khu vực châu Á, gây kinh ngạc đến mức nhiều người suy đoán lẫn suy diễn rằng đó là một động thái bù đắp dành cho ông. Chỉ ông là dửng dưng, ngay cả với việc sau đó có nhiều doanh nghiệp khác đưa ra những lời đề nghị hấp dẫn cho những bài thơ khác, ông cũng lắc đầu. Ông bảo: “Thơ tôi không phải để bán”.

Màu tím hoa sim được Hữu Loan viết khi nghe tin vợ mình, bà Lê Đỗ Thị Ninh, mất. Bà là con của ông Lê Đỗ Kỳ, thời ấy là Tổng thanh tra Nông lâm toàn Đông Dương. Ông và bà cưới nhau trong những ngày ông về phép từ chiến trường. Hai tuần sau ngày cưới thì ông lại lên đường, và ba tháng sau, ông được tin bà mất.

Ba người anh trong câu thơ mở đầu “Nàng có ba người anh đi bộ đội” chính là ba người anh trai của bà Ninh: Lê Đỗ Khôi (chính trị viên tiểu đoàn 315, trung đoàn 165, đại đoàn 312, hy sinh ở đồi Him Lam trong chiến dịch Điện Biên Phủ sáng 7/5/1954); Lê Đỗ Nguyên (trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) và Lê Đỗ An (tức Nguyễn Tiên Phong, nguyên Bí thư trung ương Đoàn khóa III và IV, nguyên Phó ban Dân vận trung ương).

Lương Hàn

Từ khóa » Hình ảnh Nhà Thơ Hữu Loan