MC Mong – Wikipedia Tiếng Việt

MC Mong
Ảnh chụp MC Mong vào thời điểm tháng 4 năm 2009
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhShin Dong-hyun
Sinh4 tháng 9, 1979 (45 tuổi)Seoul, Hàn Quốc
Thể loạihip hop
Nghề nghiệpRapper, Nhạc sĩ, Người dẫn chương trình radio, diễn viên, người dẫn chương trình TV
Năm hoạt động1998–20102014-nay
Công ty quản lýIS Entermedia Group (2009–2010), M.A Wilddog Entertainment (2003-2005, 2009), Fantom Entertainment (2006-2008), Wellmade Yedang, DreamT Entertainment (2016-2017), Million Market (2019-nay)
Hợp tác vớiPeople Crew, Dalmatian, Crown J, HaHa, Noh Hong Chul, Seo In Young, Kim Tae-Woo, Lena Park, Park Hyo Shin, Kang Gary, Minah, Ailee, SG Wannabe, Jo Sungmo, Defconn, Jung Eun-ji, Eunha, Park Boram
MC Mong
Hangul신동현
Hanja申東泫
Romaja quốc ngữSin Dong-hyeon
McCune–ReischauerSin Tong-hyŏn
Nghệ danh
HangulMC 몽
HanjaMC 夢
Romaja quốc ngữMC Mong
McCune–ReischauerMC Mong

Shin Dong-hyun (tiếng Triều Tiên: 신동현; sinh ngày 4 tháng 9 năm 1979), được biết tới với tên gọi MC Mong nghệ danh Mong (tiếng Hàn: MC몽), là một ca sĩ hip hop, nghệ sĩ thu âm, nhà soạn nhạc, dẫn chương trình đài phát thanh, diễn viên và nhân vật truyền hình nổi tiếng những bài hát mang phong cách lạc quan. Anh là một trong những nghệ sĩ hip hop thành công nhất ở Hàn Quốc. Anh nổi tiếng vào đầu những năm 2000 với tư cách là một diễn viên trong phim sitcom Nonstop, trước khi ra mắt alum, 180 Deg e, vào năm 2004. Anh cũng là một thành viên của chương trình tạp kỹ, 2 Days & 1 Night trong thời gian từ năm 2007 đến 2010. Năm 2010, anh bị cáo buộc tội trốn nghĩa vụ quân sự, sau đó anh bị cấm xuất hiện trên các mạng truyền hình lớn của Hàn Quốc. Năm 2014, anh trở lại với album, Miss Me Or Diss Me, đứng đầu các bảng xếp hạng sau khi phát hành.[1][2][3][4]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Âm nhạc và diễn xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

MC Mong ra mắt lần đầu tiên vào năm 1998 với vai trò là thành viên nhóm hip hop People Crew.[1] Giữa những năm 1999 và 2002, nhóm phát hành ba albums: Hiphop Spirit Forever, 태산북두, và We Believe We Can Fly.[2] Tuy nhiên, sự phá cách của MC Mong không đến từ rap mà là từ diễn xuất, khi anh xuất hiện trên bộ phim sitcom Nonstop 4 vào 2003. Khả năng diễn xuất của anh trong chương trình này đem lại cho anh sự nổi tiếng.[5]

Vào năm 2004, anh ra album đầu tay với vai trò là rapper, 180 Degree. Năm sau, anh phát hành album thứ hai, có tiêu đề, His Story.[1] Năm 2005, Mong cũng có một vai trong bộ phim truyền hình, Sad Love Story.[6]

Nổi tiếng

[sửa | sửa mã nguồn]

Album thứ ba của MC Mong vào năm 2006 - The Way I Am, cho thấy một khía cạnh nghiêm túc hơn của một rapper, chứ không phải hình ảnh vô tư vốn đã nổi tiếng từ trước của Mong. Ca khúc "Secret" liên quan đến việc ly hôn của bố mẹ anh và mối quan hệ không mấy tốt đẹp của anh với bố mình.[7] Album cũng có sự góp giọng của các khách mời là ca sĩ Nhật Bản Lisa, ca sĩ Hàn Quốc Park Hyo Shin và Ivy, đứng đầu các bảng xếp hạng sau khi phát hành, đánh bại các "tên tuổi lớn" như Rain và Se7en.[8][9]

Năm 2007, Mong đóng vai chính trong bộ phim truyền hình chuyển thể từ một bộ truyện tranh mạng của Hàn Quốc, The Great Catby. [10] Cùng năm đó, anh bắt đầu tổ chức MC Mong's Donggo Dongrak trên đài SBS, và anh cũng đã tham gia vào chương trình truyền hình thực tế nổi tiếng, 2 ngày & 1 đêm với tư cách thành viên chính thức. Vào tháng 7 năm 2008, việc 2 ngày & 1 đêm phát sóng cảnh MC Mong hút thuốc đã gây nên nhiều tranh cãi. Chương trình đã phải công khai xin lỗi khi không chỉnh sửa cảnh này, vì tất cả các đài truyền hình lớn của Hàn Quốc đã đồng ý không phát sóng cảnh hút thuốc trước nửa đêm từ năm 2004.[11][12]

MC Mong đã phát hành album thứ tư của mình, Show's Just Begun , vào năm 2008. Đĩa đơn đầu tiên của album, "Circus" đã trở nên vô cùng nổi tiếng, giành vị trí số một trong năm tuần liên tiếp trên 1 chương trình âm nhạc truyền hình, Music Bank . Và tiếp nối "Circus", anh ấy đã cho ra mắt đĩa đơn "Feel Crazy."

Năm 2009, anh phát hành album thứ năm, Humanimal . Doanh số đặt trước của album đạt hơn 55.000 bản và các bài hát của album đã đứng đầu nhiều bảng xếp hạng âm nhạc ngay sau khi được phát hành. MC Mong cũng đã viết đĩa đơn, "Jin Shil, Even If You're in Heaven" để dành cho nữ diễn viên quá cố Choi Jin-sil đã tự tử một năm trước.[13] Công ty quản lý của MC Mong cho biết doanh số cho đĩa đơn này sẽ được quyên góp cho từ thiện.[14]

Tạm dừng sự nghiệp và quay lại

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2010, sự nghiệp của MC Mong bị đình trệ khi anh bị buộc tội trốn nghĩa vụ quân sự bằng cách nhổ răng còn khỏe mạnh để được miễn. Cuối cùng anh đã bị kết án tù treo sáu tháng vì tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự.[15] Sau khi bị tuyên án, hai đài truyền hình lớn, Korean Broadcasting System (KBS) và Munhwa Broadcasting Corporation (MBC) đã cấm MC Mong xuất hiện trên các chương trình của đài.[4]

Anh trở lại vào năm 2014 với album, Miss Me Or Diss Me, đứng đầu 9 bảng xếp hạng âm nhạc Hàn Quốc ngay sau khi phát hành. Mặc dù album rất thành công, MC Mong vẫn nhận được phản ứng gay gắt từ công chúng vẫn còn tức giận vì vụ việc trốn nghĩa vụ quân sự của anh.[16]

Năm 2015, MC Mong tổ chức concert đầu tiên sau 6 năm.[17] Anh cũng cho ra mắt đĩa đơn "Love Jumble," từ EP Song For You, bài hát đã đứng đầu các bảng xếp hạng sau khi phát hành.[3]

Cáo buộc trốn nghĩa vụ quân sự

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 9 năm 2010, các cáo buộc liên quan đến Nghĩa vụ quân sự tại Hàn Quốc đã khiến Cơ quan Quản lý Nhân lực Quân đội Hàn Quốc tiến hành một cuộc điều tra. Do sự phản đối kịch liệt của công chúng, Mong đã dừng tất cả các lần xuất hiện công khai, bao gồm cả các chương trình truyền hình. Ban đầu, theo các phóng viên, một trong những nha sĩ của anh đã công khai tuyên bố rằng ông ấy đã nhận được tiền từ Mong để loại bỏ hai chiếc răng thay vì sửa chữa chúng, nhưng MC Mong đã mạnh mẽ phủ nhận những cáo buộc này. Vào ngày 10 tháng 10, anh đã chính thức bị Tòa án quận trung tâm Seoul buộc tội vi phạm luật nghĩa vụ quân sự. Trong phiên tòa thứ hai của anh vào ngày 29 tháng 11 năm 2010, sau khi bốn trong số các nha sĩ của Mong đã đến để hỗ trợ cho vụ án, vị bác sĩ thứ năm, người trước đó đã khai rằng ông ấy đã nhổ răng số 46 và 47 cho Mong, đã thay đổi lời khai của mình. Ông ấy giải thích rằng chiếc răng số 47 bị sâu nặng, nên ông ấy đã nhổ nó ra. Vị bác sĩ này đã nhổ chiếc răng 46 của Mong vì chiếc răng đấy có 1 lỗ sâu, và giải thích rằng ông ấy không biết vì sao mà chiếc răng ấy bị sâu. Ông ấy cũng giải thích rằng MC Mong đã không chăm sóc răng miệng tốt và hầu hết răng của anh ấy đều cần được chăm sóc hoặc loại bỏ. Vị bác sĩ này cũng nói thêm rằng phía cảnh sát đã bắt ông ấy viết vào bảng tường trình những từ ngữ mang tính ép buộc, và ông ấy cũng thấy rất phiền lòng khi cứ bị làm phiền như vậy dù ông ấy không làm gì cả. Vị bác sĩ này giải thích rằng ông ấy chưa bao giờ nói chuyện với MC Mong về việc trốn nhập ngũ. Ông ấy cho rằng không giống như các báo cáo đã được gửi lên, ông ấy chưa bao giờ nhận được bất kỳ khoản tiền nào từ MC Mong vì đã nhổ răng và việc ông ấy nhổ răng cũng không phải là yêu cầu từ phía MC Mong. Phiên tòa lần ba đã được tổ chức vào ngày 20 tháng 12. Phiên tòa thứ 4, dự kiến ​​ban đầu vào ngày 24 tháng 1 năm 2011, đã bị hoãn lại cho đến ngày 8 tháng 2.

Vào ngày 11 tháng 4 năm 2011, Mong đã được xóa tội cố ý nhổ răng khỏe mạnh để được miễn nghĩa vụ quân sự nhưng vẫn bị kết án tù treo 6 tháng, quản chế một năm và 120 giờ phục vụ cộng đồng, vì liên tục đưa ra những lí do để cố tình trì hoãn nhập ngũ.[18] Tòa án thừa nhận rằng MC Mong đã thật sự trì hoãn chậm trễ tham gia nghĩa vụ quân sự, tuy nhiên, họ không thể xác định liệu anh ấy có phạm tội cố ý nhổ răng vì mục đích trốn tránh nghĩa vụ quân sự của hay không.[19]

Danh sách đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn] Bài chi tiết: đĩa đơn MC Mong
  • 180 Degree (2004)
  • His Story (2005)
  • The Way I Am (2006)
  • Show's Just Begun (2008)
  • Humanimal (2009)
  • Miss Me Or Diss Me (2014)
  • U.F.O (2016)
  • Channel 8 (2019)

Đóng phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Chương trình truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Đài Vai trò Nguồn
2003-2004 Nonstop 4 MBC [3]
2005 Sad Love Story MBC Jang Jin-pyo [6]
2007 The Great Catsby tvN Catsby [20]

Truyền hình thực tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Đài Nguồn
2007-2010 2 Days & 1 Night KBS
2008-2009 Ya Shim Man Man 2 SBS
2009 Dr Mong Goes to School Mnet
2009-2010 SNSD's Hello Baby KBS
2010 HahaMong Show SBS
2015 Unpretty Rapstar Mnet

Phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai trò Nguồn
2003 Deus Machina
2006 Riverbank Legends [21]
2007 Myodo Wild Flower [21]
2008 Space Chimps Ham III

Radio

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Nguồn
2003-2004 Haha & Mong's Young Street
2007-2008 MC Mong's Donggo Dongrak

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng
2003
  • 2003 Korea Entertainment Awards: Giải thưởng Nghệ sĩ mới
  • 2003 MBC Entertainment Awards: Giải thưởng Ngôi sao hài kịch
  • 2003 MBC Entertainment Awards: Giải thưởng Nghệ sĩ Sitcom
2004
  • 2004 KBS Song Festival: Bonsang Award
  • 2004 MBC Entertainment Awards: Giải thưởng Ngôi sao hài kịch
2005
  • 2005 Mnet Asian Music Awards: Popularity Award[22]
  • 22nd Korea Best Dresser: Best Dresser (Artist Category)
  • 2005 MBC 10th Music Awards: Bonsang Award
  • KBS Song Festival: Lyrics Award
  • KBS Song Festival: Giải Nghệ sĩ của năm
  • 20th Golden Disk Awards: Bonsang Award
  • 2005 SBS Music Awards: Bonsang Award
2006
  • 2006 M.net KM Music Festival: Best Hip Hop Award[23]
  • 16th Seoul Music Awards: Bonsang Award
  • 21st Golden Disk Awards: Hip Hop Award
  • 2006 MBC Entertainment Awards:Special Award
  • 2006 SBS Music Awards: Bonsang Award
2007
  • Cyworld Digital Music Awards: Bài Hát của tháng (Tháng bảy)(So Fresh)
2008
  • 23rd Golden Disk Awards: Digital Bonsang Award
2010
  • 2009 Cyworld Digital Music Awards:Bonsang Award
2015
  • 4th Gaon Chart K-Pop Awards:Bài hát của năm (November)

Thường được biết đến

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đĩa đơn MC Mong
  • 2 Days & 1 Night

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c “MC MONG (MC 몽)”. KBS World Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  2. ^ a b “MC몽 소개” [Introduction to MC Mong]. Mnet (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  3. ^ a b c Ock, Hyun-ju (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “MC Mong tops music charts with sixth album”. Korea Herald. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  4. ^ a b “KBS, MBC release list of 36 banned entertainers”. The Dong-A Ilbo. ngày 28 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2016.
  5. ^ “MC Mong debuts on screen”. KBS World Radio. ngày 29 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2016.
  6. ^ a b “MC몽, "'슬픈연가'서 욕먹지 않을 자신 있어요."”. Star News (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  7. ^ “MC Mong: More Than a Joker”. The Chosun Ilbo. ngày 17 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  8. ^ “MC Mong Sings Duet with Japanese Singer Lisa”. Soompi. ngày 20 tháng 9 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  9. ^ “Mc Mong tops the charts”. KBS World Radio. ngày 21 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  10. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên : 5
  11. ^ (tiếng Hàn) 1박2일 MC몽 담배 ‘징계설 모락’ DongA. ngày 8 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2009.
  12. ^ (tiếng Hàn) 방통심의위, '1박 2일' 흡연 장면 지도조치만 하기로 MyDaily. ngày 15 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2009.
  13. ^ (tiếng Hàn) MC몽 "故최진실 누나와의 약속 지켰죠" Yonhap News. ngày 23 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2009.
  14. ^ (tiếng Hàn) MC몽 '진실은 천국에서라도' 음원 수익금 모두 기부 Lưu trữ 2011-10-05 tại Wayback Machine Max Movie. ngày 26 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2009.
  15. ^ Park, Si-soo (ngày 11 tháng 4 năm 2011). “MC Mong gets suspended jail term”. Korea Times. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  16. ^ Sung, So-Young (ngày 10 tháng 11 năm 2014). “Scandals stick for star draft dodgers”. Korea JooAng Daily. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  17. ^ “MC Mong to make concert comeback”. Korea Times. ngày 20 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2016.
  18. ^ The Chosun Ilbo Rapper Gets Suspended Jail Term for Draft Dodging ngày 12 tháng 4 năm 2011. Truy cập 2011-10-14
  19. ^ allkpop MC Mong's draft dodging case finally comes to a close
  20. ^ “MC몽-크라운 제이, '남다른 우정' 화제”. inews24 (bằng tiếng Hàn). ngày 19 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  21. ^ a b “MC몽, 두번째 영화 '묘도야화' 크랭크 인”. Hankyoreh (bằng tiếng Hàn). ngày 24 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  22. ^ "2005 M.net Korean Music Festival Winners list" Lưu trữ 2013-02-19 tại Archive.today. MAMA. Truy cập 2014-06-12.
  23. ^ "2006 M.net Korean Music Festival Winners list" Lưu trữ 2013-01-27 tại Wayback Machine. MAMA. Truy cập 2014-06-12.
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • MBA: d26412ee-ab95-4ca3-844d-fe88583d6235

Từ khóa » Diễn Viên Nam Hàn Quốc Nổi Tiếng Năm 2000