Một Số Giải Pháp Tăng Quyền Tự Chủ, Tự Chịu Trách Nhiệm Trong Các ...
Có thể bạn quan tâm
Mục đích chủ yếu của việc giao quyền làm chủ cho hệ thống giáo dục đại học có thể hoạt động một cách có hiệu quả và đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của xã hội. Thể chế tự chủ cao hơn là yếu tố then chốt tạo ra sự thành công của các cuộc cải cách đại học, đặc biệt là những cuộc cải cách nhằm đa dạng hoá và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả.
Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cơ quan Nhà nước và các cơ sở đại học của mình, sự phân chia quyền lực và giám sát nào vẫn đảm bảo việc Nhà nước thực hiện “chức năng quản lý vĩ mô” trong khi vẫn tăng khả năng tự chủ của các cơ sở đại học nhằm giải phóng năng lực tiềm tàng và sự nhiệt tình của cơ sở. Quyền được tự chủ cao hơn, được tham gia nhiều hơn là cơ sở để xây dựng ý thức trách nhiệm của các cơ sở đại học, cũng như các phương thức giám sát nhằm giảm thiểu tính cơ hội, tệ tham nhũng và chi tiêu kém hiệu quả.
1. Tự chủ của các trường đại học
Có thể hiểu khái niệm tự chủ là tự mình có quyền và có thể kiểm soát được những công việc của mình. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, đào tạo của các trường đại học cũng chịu sự tác động của các quy luật trong cơ chế thị trường, đặc biệt là quy luật cung cầu, quy luật giá trị... Trường đại học đào tạo không chỉ đáp ứng nhu cầu nhân lực cho khu vực nhà nước mà phải đáp ứng nhu cầu mọi thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân và đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Để thực hiện mục tiêu đó trường đại học phải thực sự có quyền tự chủ trong công tác đào tạo. Đào tạo không chỉ theo kế hoạch Nhà nước, mà còn đào tạo theo hợp đồng với các tổ chức sử dụng lao động, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân với khả năng của nhà trường; (trường đại học được mở rộng chỉ tiêu tuyển sinh theo khả năng của trường).
Theo quy định của Luật Giáo dục Việt Nam, trường đại học có quyền tự chủ trong năm lĩnh vực sau đây: 1) Xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy; 2) Tổ chức tuyển sinh, đào tạo, công nhận tốt nghiệp; 3) Tổ chức bộ máy; 4) Huy động, quản lý, sử dụng nguồn lực; và 5) Hợp tác trong và ngoài nước. Tuy nhiên, mức độ tự chủ chưa được quy định cụ thể. Như vậy, có thể xác định năm lĩnh vực hoạt động chính của trường đại học, cao đẳng nơi có tác động của quyền tự chủ như sau:
1.1. Tự chủ trong quản lý điều hành nhà trường;
Ở nhiều nước phương Tây, có tới bốn cấp quản lý tồn tại trong các trường đại học: Bộ môn, Khoa, Ban Giám hiệu và Hội đồng Nhà trường. Hội đồng nhà trường thường là cấp quản lý không điều hành học thuật và có xu hướng không can thiệp vào lĩnh vực học thuật. Ở bên ngoài nhà trường, chính phủ trung ương là cơ quan quy định khung cho việc ra quyết định ở trường đại học.
Tại Việt Nam, Cấp trường là cấp điều hành và quản lý toàn bộ hoạt động của nhà trường, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, Ban giám hiệu cùng với các đơn vị chức năng tham mưu giúp việc gồm: các phòng, khoa, trung tâm. Cấp khoa là cấp quản lý các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của ngành trực thuộc. Cấp bộ môn trực tiếp triển khai về học thuật trong các hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ. Các trung tâm có nhiệm vụ triển khai các ứng dụng khoa học công nghệ, các hoạt động chuyển giao công nghệ và phục vụ đào tạo.
Trước đây có một số trường chỉ áp dụng mô hình 2 cấp (Trường – Phòng/ Khoa) nhưng sau một thời gian do sự phát triển quy mô của các trường ngày càng lớn dần, mô hình 2 cấp ở một số khoa trong các trường bộc lộ một số khó khăn cho công tác quản lý, đặc biệt là công tác chuyên môn nên các trường đã tổ chức theo 3 cấp và thực tế cho thấy mô hình quản lý 3 cấp hoạt động tốt và phù hợp hơn.
1.2. Tự chủ tài chính
Tự chủ tài chính phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài chính được cung cấp và thái độ của nhà tài trợ về việc sử dụng nguồn tài chính đó. Ở hầu hết các nước, nguồn tài chính lớn nhất cho hoạt động của các trường đại học được chính phủ cấp trực tiếp hay gián tiếp. Các nguồn tài chính này dùng cho xây dựng trường sở, mua sắm thiết bị, chi phí thường xuyên và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, học phí, hợp đồng cung cấp dịch vụ, các khoản vay và thu phí khác cũng là nguồn thu lớn của các trường đại học.
Tự chủ về tài chính bao gồm tự chủ về các nguồn thu, chi. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ đã nói đến việc giao quyền tự chủ tài chính cho các “đơn vị sự nghiệp dịch vụ công”, trong đó có các trường đại học. Bước đầu có sự chủ động về tự chủ tài chính, nhưng mới chỉ được tự chủở mức độ rất hạn chế, phần thu vẫn còn nhiều trói buộc, nhất là về học phí. Hiện nay, học phí là vấn đề bức xúc với các trường. Học phí của nước ta quá thấp, chậm thay đổi, với mức học phí hiện tại thì không thể bù đắp chi phí để các trường đào tạo có chất lượng. Học phí phải đủ bù chi phí đào tạo. Các trường sẽ phải cạnh tranh về mức học phí trong tương quan với chất lượng đào tạo để thu hút sinh viên. Mức học phí do các trường tự quyết định. Tự chủ trong việc huy động các nguồn tài chính hợp pháp (vay của tổ chức và các nhân, nhận tài trợ, viện trợ,…)
Nguồn tài chính cho giáo dục đại học xét ở cấp độ vĩ mô (toàn bộ nền kinh tế là khoản thu nhập dưới các hình thái giá trị khác nhau trong quá trình tạo lập các quỹ nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động giáo dục đại học ở mỗi quốc gia. Nguồn kinh phí giúp các trường trong việc chi tiêu nội bộ như:
- Chi thường xuyên của đào tạo: cho lương của cán bộ, giảng viên, chi phí quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ, chi cung ứng dịch vụ, chi đầu tư phát triển…
- Chi mua sắm và sửa chữa thiết bị: mua sắm, sửa chữa các thiết bị, phòng học, duy tu bảo dưỡng…
- Chi cho các hoạt động nghiên cứu khoa học: nghiên cứu khoa học, tổ chức hội thảo…
- Chi đào tạo liên kết: Ở một số trường có các hoạt động liên kết với các trường đại học khác trong cả nước hoạt một số các trường đại học quốc tế.
1.3. Tự chủ trong tuyển dụng và quản lý đội ngũ cán bộ và xác định điều kiện làm việc của họ
Quyền tự chủ của các trường đại học trong quản lý đội ngũ thể hiện ở sự tự do tuyển chọn, bố trí giảng viên và cán bộ vào các vị trí lao động cần thiết. Các cơ sở đại học còn có quyền tự chủ trong việc xác định các điều kiện cho cán bộ và đặc biệt giảng viên làm việc thuận lợi. Các giảng viên có quyền tham gia các công việc khác trong và ngoài nhà trường để tạo thêm thu nhập. Nhà nước có quyền quy định mức lương tối thiểu cho đội ngũ trên phạm vi quốc gia. Nhiều nước hiện đang sử dụng chế độ trả lương theo kết quả công việc nhằm khuyến khích những người làm việc với kết quả công việc cao. Quyền tự chủ trong quản lý đội ngũ là điều kiện để nhà trường đại học thực hiện có hiệu quả chức năng và nhiệm vụ vủa mình.
Sự phát triển của một đơn vị được nhìn thấy ở 2 điểm: Sự xây dựng cơ sở vật chất đủ mạnh và phát triển đội ngũ. Trong nền kinh tế tri thức, cơ sở vật chất thôi chưa đủ làm nên uy tín của một tổ chức, nhất là đối với một trường ĐH. Bên cạnh đó phải có một đội ngũ mạnh- đủ về số lượng, khỏe về chất lượng. Có như vậy, nhà trường mới tự chủ được. Chủ trương của các trường trong xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên là: tận dụng tối đa trình độ chuyên môn cao của những giảng viên có trình độ, có học hàm học vị đang công tác tại các trường; đồng thời nhanh chóng tuyển dụng và phát triển đội ngũ cán bộ giảng viên cơ hữu trẻ.
1.4. Tự chủ trong hoạt động đào tạo, tuyển sinh
Hoạt động đào tạo gồm các nội dung như: tuyển sinh; ngành đào tạo; chương trình, giáo trình đào tạo; phương pháp giảng dạy…Tuyển sinh là một khâu quan trọng của quá trình đào tạo. Số lượng tuyển sinh phải trên cơ sở nhu cầu học tập, nhu cầu nhân lực của xã hội, phụ thuộc vào năng lực về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, tài chính, khả năng quản lý giảng dạy của từng trường. Những thông số này có thể thay đổi, biến động. Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) khó có thể có thông tin đầy đủ và chính xác về những vấn đề này. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta Bộ lại đang quyết định chỉ tiêu tuyển sinh cho từng trường. Nên chăng, Bộ trao quyền quyết định chỉ tiêu tuyển sinh cho nhà trường. Các trường tự quyết định chỉ tiêu đào tạo, báo cáo Bộ và công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để xã hội cùng giám sát chất lượng đào tạo.
Về ngành đào tạo, quá trình để trường mở một ngành đào tạo mới mất nhiều thời gian, phức tạp, khó khăn. Và cũng thật khó tìm được lý do để giải thích cho việc một chuyên viên của Bộ có ý kiến quyết định ngành nào trường được mở thay cho cả Hội đồng khoa học của trường. Hãy coi nhà trường như một doanh nghiệp, việc mở ngành đào tạo nào do trường quyết định giống như doanh nghiệp tự quyết định đầu tư sản xuất một sản phẩm mới.
Về chương trình đào tạo, Bộ xây dựng chương trình khung cho các khối ngành. Chương trình khung, hiện nay, chiếm tỷ lệ khá lớn, đến 60% thời lượng tổng chương trình.
1.5. Tự chủ trong xác định các chuẩn mực và phương pháp đánh giá
Đánh giá về cơ bản là vấn đề khá chuyên sâu trong tự chủ nhà trường và chủ yếu nằm trong tay các nhà chuyên môn. Việc đánh giá phải đáp ứng yêu cầu theo các tiêu chuẩn và chất lượng chung. Phương pháp đánh giá chủ yếu được sử dụng theo truyền thống nhà trường và ít bị can thiệp từ bên ngoài. Sự can thiệp của bên ngoài chủ yếu tập trung ở việc xác định các cơ chế, quy trình không những cho việc đánh giá mà cả quá trình giáo dục - đào tạo. Để đảm bảo quyền tự chủ, việc xác định các quy trình và thực hiện các quy trình đó là vấn đề của nhà trường, việc đánh giá và giám sát việc thực hiện các quy trình là trách nhiệm của các cơ quan quản lý bên ngoài. Như vậy, ở cấp trường, khoa và bộ môn, quyền tự chủ nằm trong tay các nhà chuyên môn. Nhà nước và công chúng cũng như người học có cách đánh giá của họ và do vậy, trường đại học cũng phải lựa chọn quy trình đánh giá đáp ứng được yêu cầu bên ngoài.
Các hệ thống đại học trên thế giới rất đa dạng, do mỗi nước có điểm xuất phát khác nhau và trình độ phát triển cũng rất khác nhau. Nhưng nhìn chung, các hệ thống đang có xu thế chuyển dần về phía tăng cường tự chủ và tự quản. Sự kiểm tra về cung cấp tài chính hãy còn duy trì khá phổ biến. Chính sách và quyết định của nhà nước chỉ xác định khung pháp lý cho các cơ sở đại học hoạt động. Việc xác định những mức độ tự chủ nhất định cho các trường đại học là rất cần thiết để hệ thống đại học có thể đáp ứng một cách hiệu quả và mềm dẻo những thay đổi của điều kiện thị trường. Quyền tự chủ của cơ sở đại học chỉ có thể được thực hiện tốt nếu bảo đảm được quyền tự chủ về tài chính vì rằng lúc đó nhà trường sẽ không bị quá phụ thuộc vào một nguồn tài trợ duy nhất nào. Để giành được thêm quyền tự chủ, các trường đại học phải chứng tỏ được mình có khả năng xoay xở để hoàn thành tốt công việc mà không cần nhiều đến sự can thiệp từ bên ngoài để có thể được giao thêm quyền tự chủ, các trường phải có khả năng chịu trách nhiệm trước nhà nước, công chúng, người học và người sử dụng lao động.
2. Tự chịu trách nhiệm trong các trường đại học cao đẳng công lập
Tự chịu trách nhiệm là khái niệm mới trong thuật ngữ quản lý giáo dục đại học, được ghi trong Điều 55 của Luật Giáo dục. Thuật ngữ “Accountability” được sử dụng tương đương với các thuật ngữ khác nhau trong tiếng Việt như: tính trách nhiệm, sự chịu trách nhiệm, trách nhiệm xã hội. Để đảm bảo tính thống nhất, trong phạm vi bài viết tác giả vẫn dùng thuật ngữ tự chịu trách nhiệm được quy định trong Luật Giáo dục.
Để đảm bảo chất lượng đào tạo và công bằng xã hội trường đại học phải tự chịu trách nhiệm của mình, đó là trách nhiệm với với xã hội và trách nhiệm với nội bộ nhà trường, như vậy có thể hiểu “trách nhiệm” là “khái niệm của ý thức đạo đức và ý thức pháp quyền nói lên một đặc trưng của nhân cách trong việc thực hiện nghĩa vụ do xã hội đề ra”. Trách nhiệm là sự tương xứng giữa hoạt động với nghĩa vụ, là hệ quả của tự do ý chí của con người, là đặc trưng cho hoạt động có ý nghĩa của con người.
2.1. Trách nhiệm với người học, với xã hội:
Là trách nhiệm đảm bảo chất lượng như cam kết và trách nhiệm sử dụng hiệu quả và minh bạch kinh phí đóng góp của người học và của xã hội. Trong một thị trường giáo dục có định hướng đúng đắn và cạnh tranh lành mạnh, mỗi trường phải chủ động xây dựng chiến lược và mục tiêu phù hợp, xây dựng đội ngũ và cơ sở vật chất thích đáng để cạnh tranh thu hút sự đầu tư từ Nhà nước cũng như từ các nguồn khác nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của người học và nguồn nhân lực của xã hội. Khi người học và người sử dụng lao động đều có quyền tự do lựa chọn, các trường không thể đào tạo không đáp ứngnhu cầu của xã hội, không thể áp dụng mức học phí không tương xứng với chất lượng đào tạo người học mong đợi. Các trường cũng phải tích cực tìm các biện pháp thu hút học sinh giỏi thông qua các chương trình học bổng, hỗ trợ tài chính, tư vấn hỗ trợ việc làm. Thông qua cơ chế công khai, người học cũng như người sử dụng lao động có điều kiện giám sát việc thực hiện các cam kết của các trường về mục tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo và các nguồn lực đảm bảo chất lượng đào tạo. Một trường đại học đưa sai thông tin công khai hay không thực hiện đúng cam kết đã công khai sẽ không thu hút được sinh viên vào trường và giảm niềm tin của người tuyển dụng lao động và các nhà đầu tư.
2.2. Trách nhiệm với Nhà nước:
Là trách nhiệm đảm bảo mọi hoạt động của nhà trường theo sứ mạng đã công bố và trong khuôn khổ của pháp luật, trách nhiệm sử dụng kinh phí đầu tư của Nhà nước một cách hiệu quả và minh bạch, trách nhiệm báo cáo và chịu sự giám sát của cơ quan quản lý nhà nước. Trong cơ chế tự chủ, các tổ chức hội ngành nghề, hội khoa học sẽ đóng vai trò các cơ quan giám sát về chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, giúp Bộ GD&ĐT kiểm định chất lượng và xếp hạng, phân loại các trường đại học một cách công khai, minh bạch và chính xác.
2.3. Trách nhiệm đối với chính nhà trường:
Là trách nhiệm phát triển nhà trường một cách bền vững, giữ vững và nâng cao uy tín của trường vì quyền lợi của tập thể đội ngũ cán bộ giáo viên cũng như sinh viên. Trong cơ chế tự chủ, uy tín và sự phát triển của trường phụ thuộc một cách quyết định vào năng lực lãnh đạo, quản lý và chuyên môn của chính đội ngũ cán bộ từng trường; Nhà nước chỉ tạo cơ chế thông thoáng và giúp các trường thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình
3. Các giải pháp tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam
3.1. Nhóm giải pháp vĩ mô:
Để tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học cần thực hiện một số giải pháp vĩ mô như: sau khi có Nghị định của Chính phủ về trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các trường đại học, cao đẳng, cần có các thông tư hướng dẫn theo ngành dọc của Bộ hoặc UBND các cấp, văn bản cần rõ ràng, khả thi, chuẩn xác, đúng đối tượng; thông qua và ban hành Luật Giáo dục đại học thể hiện quan điểm chỉ đạo của Nhà nước về giáo dục đại học Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế; rà soát lại các văn bản pháp quy liên quan đến quản lý hoạt động của các trường đại học và ban hành quy định chi trả cải biên, nội dung quản lý công tác đào tạo, tài chính, nhân sự... trong các trường đại học; xây dựng tiêu chí và mức độ quan hệ giữa quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường đại học.
3.2. Nhóm giải pháp vi mô
3.2.1. Tự chủ và tự chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý bộ máy
Để tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội trong tổ chức đào tạo thì bộ máy quản lý của các trường phải tiếp tục được hoàn thiện, đồng thời có sự phân công, phân cấp hợp lý giữa các đơn vị.
Đối với Hội đồng trường: thực tế những trường đã thành lập cho rằng hoạt động của Hội đồng trường có nhiều lúng túng, mang tính hình thức đối phó. Vai trò, chức năng của Hội đồng trường không rõ ràng, không đầy đủ. Quyền hạn của Hội đồng trường không được khẳng định trong cơ cấu tổ chức của hầu hết các trường. Mối quan hệ “ Đảng ủy – Ban Giám hiệu – Hội đồng trường” tại các trường còn chồng chéo, không rõ ràng. Các trường cần rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của các phòng, ban, đơn vị trong lĩnh vực đào tạo, theo hướng giao cho Phòng Đào tạo thực hiện đúng chức năng. Bên cạnh đó, có kiến nghị với Bộ GD&ĐT sớm ban hành quy định cụ thể về Hội đồng trường, về mối quan hệ giữa Hội đồng trường và Đảng ủy trường.
Nhà trường tự chủ hoàn toàn trong công tác tổ chức, nhân sự đồng thời chịu trách nhiệm trước các cơ quan nhà nước về các quyết định về tổ chức, nhân sự của mình.
3.2.2 Tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính
Quản lý tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện tự chủ tài chính. Đây là vấn đề then chốt nhằm đảm bảo quá trình tự chủ và tự chịu trách nhiệm được thực hiện đầy đủ, khách quan, công bằng và minh bạch.
Để tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính, các trường cần thực hiện:Phân cấp cho các đơn vị trong trường: mở rộng nguồn thu và khoán chi; hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ; quy định trách nhiệm giải trình về tài chính giữa các cấp trong trường; tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ và công khai tài chính; đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị trong trường
3.2.3. Tự chủ và tự chịu trách nhiệm phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý đào tạo – điều kiện then chốt đảm bảo trách nhiệm về chất lượng đào tạo
Với mục đích xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý có đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, tiến tới vượt chuẩn để có thể thực hiện tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong lĩnh vực đào tạo, các trường cần tăng cường phân cấp tuyển dụng tới các đơn vị; xây dựng chuẩn tuyển dụng đội ngũ giảng viên; xây dựng quy trình tuyển dụng cán bộ hợp lý; sử dụng, bố trí đúng người, đúng việc phù hợp với năng lực, sở trường của mỗi người.
3.2.4. Tự chủ và tự chịu trách nhiệm hoạt động đào tạo
Nhằm hoàn thiện các quy định, quy trình liên quan đến phân cấp, quản lý đào tạo để tiếp nhận và thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm hoàn toàn trong tổ chức đào tạo, các trường đại học cần triển khai các nội dung cụ thể như sau:
+ Tự chủ và trách nhiệm xã hội về kế hoạch đào tạo: Để khắc phục tình trạng các trường mở rộng quy mô quá lớn so với các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo và để nhà trường có điều kiện ổn định và đầu tư phát triển, phải tạo hành lang pháp lý để căn cứ vào các điều kiện bảo đảm chất lượng, nhà trường được Nhà nước giao nhiệm vụ đào tạo theo một chỉ tiêu đào tạo và giữ ổn định
Bộ GD&ĐT cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể để các trường đại học căn cứ vào đó thực hiện, tránh tình trạng các trường tuyển sinh vượt quá kế hoạch, chỉ tiêu cho phép. Tiến tới xóa bỏ cơ chế chỉ tiêu, kế hoạch tuyển sinh, các trường chủ động tuyển sinh theo khả năng đào tạo của mình và nhu cầu thị trường lao động
+ Tự chủ và trách nhiệm xã hội trong công tác tuyển sinh: Nên chăng trong khi chưa tiến hành xóa bỏ chỉ tiêu biên chế thì hằng năm cơ quan quản lý nhà nước giao chỉ tiêu “một cục” cho trường căn cứ vào quy định tỷ lệ sinh viên đối với giảng viên và tỷ lệ sinh viên có chỉ tiêu ngân sách và sinh viên ngoài chỉ tiêu.
Tiêu chuẩn tuyển sinh: Đã được quy định thông qua các quy định của quy chế tuyển sinh và xét duyệt điểm chuẩn cho từng trường.
Khu vực tuyển sinh: Có một số nhà trường giới hạn khu vực tuyển sinh theo địa phương hoặc khu vực. Cần cho phép mở rộng khu vực tuyển sinh một khi đã đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo.
Phương thức tuyển sinh: Việc áp dụng hình thức tuyển sinh khác với thông lệ là lấy điểm thi của 3 môn làm điểm chuẩn hiện đang còn chịu sự quản lý của nhà nước. Nên giao quyền tự chọn hình thức thi cho các trường để nhà trường tự chịu trách nhiệm về kết quả tuyển sinh của mình.
+ Tự chủ và trách nhiệm xã hội về chương trình đào tạo: Các trường căn cứ vào đặc điểm của mình có trách nhiệm xây dựng chương trình đào tạo theo khung chương trình quy định, vừa đảm bảo chất lượng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo, vừa thể hiện được thế mạnh chuyên môn của từng trường.
Tiếp tục đầu tư để mở các ngành theo hướng đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo, đảm bảo nội dung chương trình theo quy định của Bộ GD&ĐT, tiếp cận chương trình một số trường đại học quốc tế.
Mặt khác, trong bối cảnh một số trường chưa có khả năng xây dựng giáo trình, tài liệu thì cơ quan quản lý có thểcho phép trường chủ động nhập các giáo trình tài liệu chuyên môn từ các trường, các nước tiên tiến trên thế giới để về giảng dạy, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm về nội dung của các giáo trình, tài liệu đó.
+ Tự chủ và trách nhiệm xã hội trong tổ chức đào tạo: Các hình thức đào tạo: Chính quy, chính quy không tập trung, vừa học vừa làm, từ xa, tự học có hướng dẫn, bồi dưỡng, bổ túc… Tuy nhiên không phải trường nào cũng được mở đầy đủ các loại hình này mà phải được cơ quan có thẩm quyền xem xét cho phép. Điều này có thể dẫn tới cơ chế xin – cho trong quản lý hành chính. Đây là vấn đề hạn chế trong quyền tự chủ của nhà trường, dẫn đến hạn chế hiệu quả và hiệu suất của các cơ sở đào tạo, không khai thác và phát huy hết tiềm năng của các nguồn lực này sẵn có và tạo nguồn lực mới cho cơ sở đào tạo. Do vậy, cơ quan quản lý nhà nước chỉ đề ra chuẩn cho các loại hình đào tạo (về nhân lực, cơ sở vật chất, quy chế đào tạo) còn để cho các trường tự tổ chức đào tạo theo chuẩn ban hành trên tinh thần chịu trách nhiệm về chất lượng và hiệu quả
Phương thức đào tạo: Đào tạo niên chế là phương thức phổ biến đại trà ở nước ta. Tuy nhiên những năm gần đây một số trường đã chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, liên kết đào tạo, đào tạo chuyển đổi là những loại hình đang được hình thành và nhân rộng theo sự quản lý của nhà nước. Các ngành nghề đào tạo: Theo khối ngành, theo lĩnh vực được quản lý chặt chẽ qua một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật – từ danh mục ngành đào tạo đến các thủ tục xây dựng hồ sơ mở ngành và phải xin được sự cho phép của các cơ quan quản lý nhà nước. Nên chỉ quy định khung thời lượng và trình độ của các môn học để các trường tự xây dựng và tổ chức đào tạo.
+ Tự chủ và trách nhiệm xã hội về giảng dạy, nghiên cứu và hướng dẫn thực hành: Cần có quy định thống nhất về giảng dạy và nghiên cứu, trên cơ sở đó từng trường có các văn bản quy định riêng của mình, chủ yếu là các tiêu chuẩn thi đua để bình chọn các danh hiệu.
Quản lý giảng dạy: Giảng dạy ở các trường đại học chưa đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục đại học, chưa thực sự là một giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo và thực hiện tốt mục tiêu đào tạo.
Quản lý nghiên cứu khoa học (NCKH): Còn chưa kết hợp chặt chẽ với giảng dạy, chưa được coi là một phương pháp giảng dạy đại học và kết quả NCKH cũng chưa được coi là một thành tích học tập tích lũy.
Quản lý thực hành, thực tập: Chưa đảm bảo chất lượng thực hành, thực tập do cơ sở vật chất không đổi mới kịp với ựu thay đổi của chương trình GDĐH.
Do vậy, Nhà nước cần giao cho nhà trường quyền tự chủ trong việc xác định cách thức quản lý giảng dạy, quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học và thực hành thực tập sao cho phù hợp với điều kiện và ngành nghề từng trường.
3.2.5. Tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kiểm tra, đánh giá
Một trong những điều kiện cơ bản để có thể giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm là mỗi trường có một hệ thống kiểm tra, đánh giá với giảng viên và học viên, từ đó từng bước đẩy mạnh phương pháp giảng dạy, phương pháp học tập, nghiên cứu nhằm xây dựng vị thế của từng trường.
Quy chế kiểm tra đánh giá và công nhận tốt nghiệp do Bộ GD&ĐT ban hành cũng như các quy chế trước đó có nhiều điểm dành cho trường chủ động đề xuất cho phù hợp với đặc điểm của mình, tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm giới hạn quyền tự chủ của các trường (như quy định về học tập, ngừng học và thôi học hoặc các quy định về điều kiện tốt nghiệp không nên giống nhau ở các trường khác nhau). Do đó, cần có quy định giao quyền chủ động tổ chức thi tuyển cho các trường thì giao cả quyền xây dựng thang điểm và chuẩn tuyển cho các loại hình thi khác nhau của các trường khác nhau
Cần công khai hóa chuẩn đầu ra: công khai với xã hội về năng lực đào tạo và các điều kiện đảm bảo chất lượng của trường để: người học, phụ huynh, nhà tuyển dụng biết và giám sát; Thực hiện cam kết của nhà trường với xã hội về chất lượng đào tạo để cán bộ quản lý, giảng viên và người học nỗ lực vươn lên trong giảng dạy và học tập. Đổi mới công tác quản lý đào tạo, phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá và đổi mới phương pháp học tập.
Thực hiện đánh giá của giảng viên, sinh viên đối với bộ phận quản lý đào tạo, đánh giá của sinh viên đối với hoạt động giảng dạy của giảng viên. Việc lấy ý kiến phản hồi từ người học giúp nhà trường có thông tin hữu ích phục vụ công tác quản lý chung.
Kết luận: Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm là hai mặt của một vấn đề không thể tách rời. Tăng cường quá quyền tự chủ mà không đặt yêu cầu về tự chịu trách nhiệm sẽ có nguy cơ dẫn đến vô chính phủ, giảm sút chất lượng, chạy theo lợi ích trước mắt. Ngược lại, tăng cường sự chịu trách nhiệm mà hạn chế quyền tự chủ sẽ trói buộc các cơ sở đại học, không tạo ra động lực và cơ chế cho sự vận hành tự nhiên, hạn chế sự mềm dẻo, linh hoạt, khả năng đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội. Duy trì sự can thiệp đúng mức của nhà nước thông qua các công cụ pháp lý, quy chế, tài chính để rồi từ bỏ dần sự can thiệp trực tiếp vào quản lý vi mô, tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đại học là cần thiết. Mặt khác, để có thể sử dụng các lực lượng thị trường, tạo động lực cho giáo dục đại học một cách đúng mức, cần có sự tham gia của các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường vào việc điều chỉnh và nâng cao sự chịu trách nhiệm của các cơ sở đại học./.
Phan Đăng Sơn
Viện Khoa học tổ chức nhà nước
Từ khóa » Theo Cơ Chế Thị Trường Tiếng Anh Là Gì
-
THEO CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG Tiếng Anh Là Gì - Trong Tiếng Anh Dịch
-
Cơ Chế Thị Trường Bằng Tiếng Anh - Glosbe
-
Từ điển Việt Anh "cơ Chế Thị Trường" - Là Gì?
-
"cơ Chế Thị Trường" Tiếng Anh Là Gì? - EnglishTestStore
-
Cơ Chế Thị Trường (Market Mechanism) Là Gì? - VietnamBiz
-
Cơ Chế Thị Trường - Công Ty Luật ACC
-
Cơ Chế Thị Trường Là Gì? Phân Tích Cơ Chế Thị Trường Theo định ...
-
Cơ Chế Thị Trường Tiếng Anh Là Gì?
-
Cơ Chế Thị Trường – Wikipedia Tiếng Việt
-
Cơ Chế Thị Trường Là Gì? - Luật Hoàng Phi
-
Cơ Chế Thị Trường Là Gì? - Thả Rông
-
Thời Bao Cấp – Wikipedia Tiếng Việt
-
Cơ Chế Thị Trường La Gì Cho Ví Dụ
-
Thuyết "Bàn Tay Vô Hình" - Xem Thuật Ngữ - SHS