Một Số Nhà Văn Với Hà Nội | VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Vương Trí Nhàn

MỘT SỐ NHÀ VĂN VIỆT NAM HÔM NAY VỚI HÀ NỘI

(Kể chuyện đời sống văn học)

Ghi chú

Như tên gọi đã ghi rõ cuốn sách này đi vào tìm hiểu ảnh hưởng của Hà Nội đối với đời sống các nhà văn Việt Nam hôm nay. Qua các tài liệu văn học sử cũng như qua các hồi ức, kỷ niệm của các nhà văn, và chủ yếu là qua chuyện trò trực tiếp với các nhà văn đang sống, tác giả cuốn sách có dịp trình bày tình cảm thiêng liêng của nhiều nhà văn với Hà Nội: đây là nơi họ học nghề, trưởng thành dần về nghề nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, đây là nơi họ có dịp tiếp xúc với các vấn đề quan trọng của đời sống xã hội, từ đó xác định cho mình một hướng viết đúng đắn. Có những nhà văn chưa viết gì trực tiếp về Hà Nội, nhưng vẫn có thể nói cùng với Hà Nội mà mình đã trưởng thành.

Qua sách, bạn đọc có dịp biết thêm một số nét tiểu sử cũng như tác phẩm của hơn 50 nhà văn thuộc các thế hệ khác nhau, từ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, qua Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Chính Hữu, Hồ Phương, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thành Long tới Bùi Minh Quốc, Đỗ Chu, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa v.v…

Một số ghi nhận bước đầu

về những mối quan hệ tốt đẹp

I

Những ngày cuối tháng chạp 1972 bắt đầu sang đầu xuân 1973, sau khi đánh thắng B52 của giặc Mỹ, Hà Nội lấy lại nhịp sinh hoạt bình thường. Các thư viện vẫn mở cửa, các buổi nói chuyện được tiếp tục. Và một trong những buổi sinh hoạt văn học kiểu đó là buổi nói chuyện của nhà văn lão thành Nguyễn Tuân tại Thư viện Hà Nội. Đặt cái mũ sắt ngay bên cạnh ngọn đèn trên bàn diễn giả – chiếc mũ sắt đã theo ông suốt những ngày chống B52 và hình ảnh ông đội mũ sắt từng được ghi lại qua một bức ảnh trên báo Văn Nghệ – Nguyễn Tuân nói tới rất nhiều xúc động đến với ông hôm đó, nhưng tôi nhớ hơn cả là cái ý ông dùng vào đề cho bài nói chuyện của mình:

– Các nhà văn hãy viết thêm về Hà Nội.

– ở nước nào cũng vậy, thủ đô là một đề tài rất quen thuộc trong văn học. Những nhà văn lớn của một nước ít nhiều vẫn viết về “trái tim lớn” của nước đó.

– Và Hà Nội đáng để chúng ta viết, còn nhiều điều để viết.

Mười mấy năm đã trôi qua, kể từ ngày nghe Nguyễn Tuân nói chuyện. Giá đi vào đọc hết mọi sáng tác đã đăng trên báo chí và in thành sách, tôi tưởng cái đề tài Hà Nội những năm qua cũng đáng được dành riêng trong một công trình nghiên cứu. Nếu điểm qua các sáng tác về thủ đô đã in ra suốt từ xưa đến nay, chắc lại càng nhiều điều lý thú nữa. Nhưng có một khía cạnh chúng tôi cũng thấy rất tâm đắc, nhân nghe Nguyễn Tuân nói chuyện, đó là: Mối liên hệ rằng rịt giữa nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ nước ta với thủ đô Hà Nội. Trong trường kỳ lịch sử cũng như hôm nay, đó là một mối liên hệ vững vàng, ổn định.

Sở dĩ chúng ta có thể và còn cần viết nhiều về Hà Nội, bởi trong cuộc đời chúng ta, Hà Nội vốn  đóng một vai trò lớn lao, đôi khi lớn lao hơn nhiều, so với chúng ta vẫn tưởng.

+

+  +

Mở đầu chương một cuốn sách viết về Cao Bá Quát mới in ra 1982, nhà nghiên cứu Nguyễn Nghiệp viết: “Dưới triều Nguyễn, Thăng Long không còn là đất kinh kỳ nữa. Cảnh vật Thăng Long cũng do đó mà trải nhiều phen biến đổi…”

Tiếp đó là những đoạn mô tả khá kỹ về thành quách, nhà cửa, sinh hoạt ở Thăng Long. Sở dĩ phải làm như vậy, vì theo Nguyễn Nghiệp, trong giai đoạn đầu trong cuộc đời Cao, từ đó hình thành tính cách Cao Bá Quát, “ông vẫn là một nhân vật của Thăng Long”, “lớn lên với Thăng Long”.

Có thể dễ dàng đồng tình với nhận định về cách làm như trên, bởi trong lịch sử văn học Việt Nam, trường hợp như Cao Bá Quát rất phổ biến. Vào cái thời mà Hà Nội còn là mảnh đất nhỏ hẹp, quê hương của nhiều danh nhân văn hoá nước ta còn chính thức thuộc về các tỉnh lân cận Bắc Ninh, Sơn Tây, Hà Đông, Hưng Yên… Hà Nội vẫn được nhắc nhở trong các tiểu sử của họ, bởi đây là nơi họ học hành để khôn lớn nên người. Xã hội phong kiến Việt Nam phát triển thoi thóp suốt đêm trường trung cổ, không đủ tạo ra được những thành thị lớn, từ đó hình thành nên giới trí thức chuyên nghiệp. Nhưng trong cái đêm ròng đen tối đó, giữa bao nhiêu làng xóm bịt bùng, Hà Nội vẫn luôn luôn là một thứ đốm sáng, ảnh hưởng toả rộng ra các vùng lân cận. Từ cuối đời Trần, ngôi trường bên sông Tô của Chu Văn An, đã là một thứ “Trung tâm đào tạo trí thức”. Về sau dưới triều Lê, hoặc sang đầu triều Nguyễn, bao nhiêu nhà trường của ông đồ Cao Huy Giảng (thân sinh ra Cao Bá Quát) vẫn giữ được nhịp sinh hoạt đều đặn, tiếng bình văn sang sảng của Bùi Huy Bích, Nguyễn Văn Siêu… nổi tiếng một thời, khiến nhiều gia đình từ các làng xóm xa xôi cũng cố gửi con cái đến học, và trong giới “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò” đó, không thiếu những người sau này ở lại với lịch sử văn học.

Các tài  liệu viết về “Bà chúa thơ nôm” đều có ghi rõ: tuy ông Hồ Phi Diễn, thân sinh ra Hồ Xuân Hương, quê ở tận Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh, nhưng từ lâu, ông đã ra Bắc dạy học kiếm sống. Trước khi sinh Hồ Xuân Hương, gia đình ông đồ Diễn sống ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, phía bắc thành phố, gần khu vực Hồ Tây. Lúc Hồ Xuân Hương lớn lên, gia đình lại dọn về thôn Tiên Thi, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, tức là mạn gần Hồ Gươm. Và như vậy, thì mặc dù có trôi nổi đi đến đâu nữa, Hồ Xuân Hương của chúng ta cũng Hà Nội “từ đầu đến chân”, từ thời con gái đi học, bên cạnh nhiều học trò con trai, đến lúc trở thành nhân vật được nhiều người biết tiếng, và cảm thấy mọi vui buồn của cuộc đời có lẽ cũng chỉ là chuyện thường tình.

Êm ái chiều xuân tới khán đài

Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai

Từ đầu thế kỷ XX, Hà Nội tiếp tục đóng vai trò trung tâm của văn hoá, giáo dục cả nước, học sinh người các tỉnh khác về học ở Hà Nội càng nhiều, không phải ngẫu nhiên những Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc Phan… ít nhiều đều có quen biết nhau từ thời đi học. Dù nguyên quán nơi đâu, mỗi người trong họ đều coi Hà Nội là quê hương thứ hai của mình, sống và viết với tư cách người Hà Nội.

Một vai trò khác mà thủ đô có được trong cuộc đời của nhiều nhà văn: sau khi đã học hành đầy đủ ở quê nhà, họ lên Hà Nội lập nghiệp; ba mươi sáu phố phường vừa là môi trường mở ra cho họ “kiếm sống” , vừa là “những trường đại học” của họ, và chính ở đó, tài năng của ngòi bút mỗi người có dịp nảy nở đầy đặn hơn cả. “Góc thành Nam, lều một gian”, nơi ấp ủ những suy nghĩ của Nguyễn Trãi trước khi vào Thanh Hoá với Lê Lợi là Đông Quan. Suốt thời Lê Mạt, Nguyễn Sơ, cha con anh em nhà họ Ngô Thì nhào về quê ít lâu lại bổ ra Thăng Long, nên mới chứng kiến được nhiều cảnh, nhiều “pha” đáng nhớ, trong thời ly loạn, như họ từng ghi lại trong Hoàng Lê nhất thống chí. Trong cuộc đời toàn tâm toàn ý nghiên cứu y học để lo trị bệnh cứu  người, chuyến lên kinh chẩn bệnh cho chúa Trịnh không thể phai mờ trong ký ức Hải Thượng Lãn Ông, khiến ông phải dành cho nó một thiên ký sự riêng. Còn Nguyễn Du? Chỉ với một bài Long thành cầm giả ca, đánh dấu hưng vong của thời đại, ta đủ hiểu tình yêu của ông đối với Hà Nội sâu sắc biết là ngần nào. Trong khói lửa chinh chiến liên miên, với Nguyễn Du, cũng như với nhiều nhà văn, nhà thơ xưa, Hà Nội vừa là cái gì luôn đổi thay, vừa là cái gì đó còn mãi.

Nhân đây, có thể nói thêm rằng cái ảnh hưởng mà thủ đô để lại trong đời văn của một người không chỉ do bằng thời gian người đó ở thủ đô dài hay ngắn. Có khi, chỉ một hay vài chuyến đi ngắn ngủi thôi cũng đã gây ra một “tình yêu sét đánh” – cố nhiên là tình yêu giữa nhà văn với thủ đô – để rồi cả đời văn của người đó thay đổi. Xưa đã như thế, ngày nay cũng như thế. Mà trong sự bừng tỉnh của con người, thì thời gian không được đo tính bằng những thước đo thông thường: nó phải được đo bằng những thay đổi to lớn để lại trong tâm trí người ta.

II

Trong lời bạt viết cho cuốn Sống mãi với thủ đô (tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng) in ra 1961, nhà văn Nguyễn Tuân từng đưa ra một nhận xét chung:

“hình như hầu hết danh nhân, anh hùng cổ kim nước ta đều là những con người Hà Nội. Các vị ấy có thể quê quán gốc tích ở “ngũ tỉnh đàng trong, tứ tỉnh đàng ngoài!” nhưng cái đoạn trội nhất của các bậc ấy vẫn là diễn ra trên mảnh đất thủ đô.

… Cũng là một điều đúng vậy, khi mọi người bảo rằng thủ đô là cái nơi kết tinh mọi phong vị nhân tài của một dân tộc đời này qua đời khác. Cho nên những con người Thủ đô bao giờ cũng bén nhậy sắc cạnh hơn những người khác với tất cả những ưu điểm và nhược điểm của nó, với tất cả cái trí cái dũng, cái tài, cái tật của nó”.

Ngay từ 1943, nhà văn Vũ Ngọc Phan trong cuốn Chuyện Hà Nội (Nhà xuất bản Bách Việt) cũng có những nhận xét tương tự. Ông nhắc tới một tình cảm của người đương thời là đi đâu cũng nhớ Hà Nội. “Nhiều ông từ mãi Cà Mâu, từ Sài Gòn, từ Quy Nhơn, từ Quảng Nam hay từ Huế lù lù dẫn ra Hà Nội, người ở đôi ba tháng, kẻ ở vài ba năm, có người chỉ vẻn vẹn dăm ba ngày, cũng mắc cái bệnh nhớ nhung Hà Nội, như những người đã quen sống, quen chết ở Hà Nội rồi”. Trong những lý do nảy sinh tình cảm đó, có lý do chân chính sau đây: Hà Nội là nơi người ta có thể học hỏi dễ dàng. “Những người ở Huế, Sài Gòn ra chơi đều thán phục Hà Nội về những cửa hàng sách…. Người ta khen Hà Nội là một nơi mà người thiếu niên ham muốn quốc văn dễ học, dễ khảo cứu, dễ tìm tòi…” Sau khi “nhại” ca dao cổ bằng hai câu lục bát mới:

Mười năm bút mực giang hồ

Có về Hà Nội cơ đồ mới nên.

Vũ Ngọc Phan lấy giọng người trong cuộc để nói về vai trò của Thủ đô với người cầm bút bấy giời: “ông muốn viết hay, viết tài đến đâu thì viết, tha hồ ông vẽ rồng, vẽ phượng, tha hồ ông nhả ngọc phun châu, nhưng nếu ông cứ yên chí ông là một nhà đại văn hào hay một nhà đại ngôn luận, rồi ông viết những sách những báo chí lưu hành quanh quẩn trong một vài tỉnh xa lắc mà Hà Nội không biết đến, tôi đố ông có thể trở nên một nhà văn hay một nhà báo có tên tuổi trên văn đàn hay trong báo giới Việt Nam”.

Vậy là Hà Nội còn có vai trò trọng tài, vai trò khẳng định các giá trị. Một ví dụ:  trước năm 1933, Thiếu Sơn vốn người Bắc vào Sài Gòn làm công chức bưu điện, và có viết một số bài phê bình trên báo Phụ nữ tân văn. Nhưng khi tập hợp các bài phê bình đó lại, làm nên tập Phê bình và cảo luận thì Thiếu Sơn cảm thấy phải gửi ra Hà Nội mới yên tâm. Một nhà xuất bản thủ đô đã in cuốn sách này của ông: Nhà Nam Ký. Một ví dụ khác: tập thơ đầu tay của Chế Lan Viên, tập Điêu tàn cũng in ra ở Hà Nội, dù tác giả không sống hẳn ở ngoài này. Có thể nói, cho tới trước 1945, vai trò của Hà Nội với tư cách một trung tâm văn học, hoàn toàn được nhất trí, suốt từ Nam đến Bắc.

Từ 1946 đến 1954, đất nước trải qua cuộc kháng chiến trường kỳ, đầu não chỉ huy kháng chiến ở Việt Bắc: đời sống văn học cũng nảy nở từ đấy. Nhưng từ 1955 trở đi, thì ở miền Bắc, vai trò của Hà Nội lại được khôi phục. Chỉ có điều cách hiểu về văn học bây giờ đã khác. Ngoài lớp nhà văn cũ, một lớp nhà văn mới trưởng thành từ kháng chiến, nhiều người trong họ từ Việt Bắc theo đoàn quân chiến thắng tiến về Hà Nội, chứ không phải từ quê nhà lên học hành lập nghiệp ở thủ đô như xưa. Các tiêu chuẩn về văn học được xác lập lại. Nhà văn ngày nay không thể quanh quẩn viết về sinh hoạt Hà Nội mà phải đến với đồng ruộng, công xưởng trên cả nước. Nhưng Hà Nội vẫn là nơi để các nhà văn học tập về nghề nghiệp, trau dồi bản lĩnh. Dư luận văn học ở Hà Nội vẫn là dư luận thông minh và đáng tin cậy nhất. Vẫn có thể nói là giữa đời văn của nhiều người và Hà Nội có một mối quan hệ tốt đẹp.

Tóm lại, nhìn vào thực tế trước cũng như sau 1945, người ta đều có thể nhận ra một sự thực: Hà Nội có vai trò đáng kể trong việc hình thành giới trí thức, từ đó, tạo ra bề rộng và bề sâu của sinh hoạt văn hoá trong cả nước. Đây là “sân khấu chính” của mọi diễn biến văn học, là nơi ủ ấp mọi thí nghiệm, nâng đỡ mọi tài năng, mà cũng là nơi nói lên tiếng nói cuối cùng nhằm đánh giá chất lượng sáng tác. Đặt một đời văn trên khung cảnh Hà Nội, người ta dễ dàng nhận ra những đường nét chủ yếu của đời văn đó.

III

Ngoại trừ những bài nghiên cứu có tính chất phê bình văn học hoặc văn học sử, đời sống văn học ở nước ta thường ít được nhận diện bằng những trang sách miêu tả cụ thể. Đến sinh hoạt văn học của cả một thời, một giai đoạn cũng ít được phác ra đầy đủ, đừng nói hình tích hành trạng của từng nhà văn. Tư liệu thiếu, vì không ai để công góp nhặt. Ví dụ như chung quanh mối liện hệ giữa các nhà văn và Hà Nội như nói ở trên, hiện chưa có ai tập hợp cho được đầy đủ.

Chỗ thiếu hụt ấy, hoạ may có trí tưởng tượng mới bù đắp nổi.

Tôi ước ao đến một lúc nào đó, có một nhà văn để công làm một tập truyện ngắn chung quanh câu chuyện quan hệ giữa các tác giả văn học và Hà Nội. Một buổi sáng nào đó trong gió rét, Nam Cao ra bến sông Hồng trở về quê, theo sau có thằng nhỏ nhà người quen gánh hộ mấy cái ghế mây mà ông tả trong Trăng sáng. Buổi tối trước khi Nguyễn Huy Tưởng từ giã Hà Nội để lên chiến khu dự Quốc dân đại hội. Hoặc lùi về trước sau những chuyến đi xa. Hồ Xuân Hương trở lại Hồ Tây; Còn Cao Bá Quát cũng lần chần ở Hà Nội vui với bạn bè vài ngày, trước khi lên nhậm chức giáo thụ Quốc Oai, để rồi tham gia vào một cuộc khởi nghĩa. Cái đêm mất ngủ của Nguyễn Du, sau khi gặp lại “Người gẩy đàn đất Long Thành”; một buổi chiều Tản Đà ngồi dịch Đường thi và viết thuê câu đối, v.v… Những tình tự ấy, mỗi cái đáng để viết thành một truyện ngắn, tất cả xâu chuỗi lại với nhau, tạo nên những chân dung văn học thú vị.

Phần tôi, trong cuốn sách này, tôi muốn ghi nhận một ít điều có thực trong số những ảnh hưởng mà Hà Nội để lại trong đời văn, một số nhà văn hôm nay. Anh đến Hà Nội từ năm nào? Những suy nghĩ của anh về đời sống văn học Hà Nội xưa và nay? Trong sinh hoạt nói chung và sinh hoạt văn học Hà Nội nói riêng, anh muốn tiếp nhận điều gì là chủ yếu, đâu là những điều thiếu đi, anh sẽ cảm thấy toàn bộ đời văn của mình thay đổi? v.v… Cuốn sách do vậy mang dáng dấp một thứ “câu chuyện nghề nghiệp”, chứ không phải một công trình nghiên cứu văn học.

Song đó là ước muốn!

Còn khi thực hiện, ngay từ khâu sưu tầm tài liệu, chúng tôi đã gặp phải những hạn chế không dễ gì vượt qua được.

Thoạt đầu, trong ý định chúng tôi dự tính làm những cuộc phỏng vấn với hàng loạt nhà văn. Ai dè, một việc tưởng là thật dễ dàng, lúc bắt tay vào làm mới thấy nảy sinh nhiều khó khăn. Không phải nhà văn nào cũng thấy cách làm việc đó là cần thiết! Một số khác không đồng tình với tất cả các câu hỏi của chúng tôi, mà chỉ muốn đi vào một số khía cạnh bản thân coi là quan trọng. Có những nhà văn do tính chất của sáng tác có liên quan nhiều đến Hà Nội, lẽ ra cần được nói kỹ, nhưng lại thường rất bận rộn hoặc đang ở xa, thành thử chúng tôi không thể tiếp xúc trực tiếp, mà phải thông qua các bài phát biểu, trả lời phỏng vấn trên báo chí, hoặc lời kể của bạn bè, rồi tổng hợp tất cả để viết lại. Hình thức cuốn sách do đó không thể thuần nhất, trước khi đưa ra những cuộc phỏng vấn với tính cách một ít trường hợp tiêu biểu, phần chính trong mỗi chương sách là những đoạn do người viết sách đứng ra kể.

Nhân đây, cho phép chúng tôi có được ít dòng xin lỗi: một số chi tiết đời riêng, hoặc những câu trò chuyện bâng quơ khi bạn bè gặp nhau ít nhiều có được khai thác. Dụng ý của chúng tôi chỉ là muốn giúp bạn đọc hiểu đời sống văn học trong vẻ sinh động của nó.

Mặc dù đã hết sức cố gắng tìm tòi tài liệu và khai thác những phương tiện hỗ trợ khác, song công việc của chúng tôi còn bị hạn chế về nhiều mặt. Theo thống kê sơ bộ, hiện nay chúng ta có khoảng gần bốn trăm cây bút đã là Hội viên Hội Nhà văn, ngoài ra còn rất nhiều cây bút khác đang là Hội viên các hội văn nghệ các tỉnh và có nhiều người đang viết rất khoẻ, biết đâu sẽ thành chủ lực trong đội quân sáng tác nay mai. Mỗi đời văn đó, có cách hình thành riêng, và nói hẹp ra, thì cũng tiếp nhận toàn cảnh văn học theo những cách riêng để làm nên bản lĩnh của mình. Trong khi đó, cuốn sách của chúng tôi chỉ giới hạn trong những câu chuyện liên quan đến vài chục người và nhân đó nhắc thêm vài chục người khác. Chắc chắn đó là một thiếu sót, rất mong các đồng nghiệp và bạn đọc lượng thứ.

Phần thứ nhất

Từ 1945 về trước, mặc dù bị thực dân Pháp tìm đủ cách hạn chế, thủ đô Hà Nội vẫn là một trung tâm văn hoá lớn, nơi sinh hoạt văn học luôn luôn sôi nổi, mà cũng là nơi có nhiều cơ quan báo chí và xuất bản có uy tín. Bởi vậy, đời văn của nhiều cây bút nổi tiếng đều gắn bó với Hà Nội. Sau đây là một số ví dụ. Trong khi nêu ra ảnh hưởng của sinh hoạt văn học ở thù đô với quá trình vào nghề của các nhà văn này, trong một số trường hợp có thể, chúng tôi cũng phác hoạ thêm những khía cạnh ảnh hưởng của Hà Nội, trong đời văn của họ những năm gần đây (từ 1954 trở đi)

Hoàng Ngọc Phách

Mỗi khi nghe nhắc Tố Tâm, chúng ta nhớ tới một thời đã lâu lắm, thời của Quả dưa đỏ, giải thưởng Khai trí Tiến Đức, thời của những Trần ai tri kỷ, Đài gương của Tản Đà, thời thơ Tương Phố, và Kim sinh luỵ, Bút quan hoài của Trần Tuấn Khải.

Sự thực, tác giả Tố Tâm mới mất cách đây hơn chục năm, năm 1973, và trước đó, những năm năm mươi, sáu mươi, ông vẫn đứng tên chung với Lê Thước, Trương Chính trong một số công trình nghiên cứu. Ông sinh năm 1896, tức là sau Tản Đà 8 năm, sau Ngô Tất Tố 2 năm, trước Tú Mỡ 4 năm, Nguyễn Công Hoan 7 năm. Khi ra số đặc biệt Các nhà văn Việt Nam (1982), trong mục ( Các nhà văn đã quá cố), báo Văn nghệ đã ghi tên Hoàng Ngọc Phách, có lẽ vì những lý do đó.

ở đây, chúng ta sẽ nói thêm: Hoàng Ngọc Phách cũng chính là một trong những nhà văn Việt Nam hôm nay mà sự nghiệp sáng tác gắn với Hà Nội, do ở Hà Nội mà viết, và ban đầu cũng viết ngay về những nét sinh hoạt của Hà Nội.

Nguyên ông vốn người Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nhưng ngay từ khi mười ba tuổi, tóc còn để chỏm đào, đã ra Hà Nội, học ở một trường tư thục thuộc ấp Thái Hà sau đó, học tiểu học ở trường Hàng Vôi (nơi đã đào tạo ra Tú Mỡ, Vũ Trọng Phụng, Vũ Đình Liên, v.v…) rồi học trường Bưởi bốn năm. Thời thanh niên của Hoàng Ngọc Phách gắn liền với những kỷ niệm về các trường học này của Hà Nội, cũng như ở trường Cao đẳng Sư phạm về sau. Trong Tố Tâm, có đoạn nhìn ra Hồ Tây, nhân vật Đạm Thuỷ tự kể:

– Tôi nhớ khi còn học trường Bưởi bên cạnh hồ này, mấy anh em ra đứng bờ hồ, ném thia lia, thả thuyền giấy, chơi đùa hớn hở, phong cách xem như bỡn cợt với mình.

Trong khi đi học, Hoàng Ngọc Phách đã sống đúng như thế.

Thời gian học ở trường Bưởi, Hoàng Ngọc Phách phần nhiều làm thơ, theo các thể thơ cổ. Khi lên Cao đẳng Sư phạm, ông mới viết văn xuôi. Tuy vậy, Tố Tâm, đứa con một của tác giả trong lĩnh vực tiểu thuyết, là một thành công đáng kể. Tác phẩm trở thành cái mốc trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX. Trong dịp trả lời một nhà báo đến phỏng vấn, Hoàng Ngọc Phách giải thích một cách giản dị, đại ý nói sở dĩ tiểu thuyết được hoan nghênh (trước 1945 đã in cả thảy bốn lần), vì lúc ấy dân mình “đang cần một cuốn tiểu thuyết như thế”. Điều đó nói lên rằng ông đã nắm bắt rất trúng “khí hậu” văn học đương thời, nhất là những đòi hỏi của thanh niên.

Nhìn lại nội dung tập sách, có điều lý thú là các nhân vật chính trong Tố Tâm đều mang cốt cách Hà Nội khá rõ. Quê họ ở đâu không biết, nhưng họ lớn lên ở đây, và sống với không khí chung quanh một cách rất hoà hợp. Năm 1973, trong bài viết nhân dịp Hoàng Ngọc Phách qua đời, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan cho biết:

“ Những nhân vật trong Tố Tâm đều phảng phất giống những thanh niên Hà Nội năm xưa ấy. Tố Tâm “nền” lắm. Cô là con nhà gia giáo, nên bao giờ cũng đi xe sắt – tức xe kéo bánh sắt – chứ không bao giờ đi xe cao su như bọn me tây. Cô rất diện nhưng cũng chỉ diện tới mức bịt khăn lụa đen, thứ khăn mốt nhất thời bấy giờ”.

Đây có lẽ là một trong những lần ít ỏi hình ảnh con người Hà Nội được miêu tả kỹ đến như thế!

Trường hợp Hoàng Ngọc Phách và Tố Tâm chứng tỏ một hiện tượng xã hội có thực hồi đầu thế kỷ này: Đó là sự tập trung của giới trí thức mới chung quanh Hà Nội. Dù là của những tỉnh rất xa, khi đã ra đây, họ nhập vào không khí sinh hoạt chung. Và cái mà họ miêu tả trong tác phẩm của mình, ban đầu thường là những sinh hoạt của Hà Nội. Cuộc sống bấy giờ có cái phía ổn định của nó, và khi bắt gặp hình ảnh đời sống quanh mình trong tác phẩm, người ta hoan nghênh thì cũng là chuyện thường tình.

Sau Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách không viết tiểu thuyết nữa, các hoạt động khác như dạy học, khảo cứu đã lôi cuốn ông.

Nguyễn Công Hoan

Với tư cách tác giả tiểu thuyết Bước đường cùng và nhiều truyện ngắn ghi lại tình cảnh bần cùng của người nông dân Việt Nam trước 1945 như Thịt người chết, Chiếc quan tài, Đi giày, Công dụng của cái miệng v.v… Nguyễn Công Hoan có vẻ như một tác giả của nông thôn. Các tài liệu nghiên cứu cũng thường nhấn mạnh ông từng dạy học ở nhiều vùng thuộc các tỉnh xa: ở Kinh Môn, ở Trà Cổ, ở Lào Cai, Thái Bình, v.v…

Nhưng chính Nguyễn Công Hoan đã học ở trường Bưởi Hà Nội từ khi chưa đầy mười tuổi. Ông còn nhớ rất rành mạch cuộc sống khi nội trú trong trường, khi ra trọ ở Hàng Hài (phố Hàng Bông hiện nay)… Nói chung nhiều mặt đời sống Hà Nội những năm ấy, còn được ghi lại trong các tập Đời viết văn của tôi, Nhớ và ghi. Nào là vụ dịch tả ở Hà Nội hè 1914; nào cảnh người ngoài phố giàu có bấy giờ còn đi xe ngựa song mã, độc mã, các thày giáo ở trường Bưởi còn đội khăn, đi giày ta, bít tất trắng.  Nào những hiệu bán sách vở giấy bút, nào hiệu cho thuê xe đạp để tập, v.v… Chúng ta có thể nhận xét tuy còn nhỏ tuổi, nhưng cậu học sinh này rất hóm, nghịch, hay tò mò để ý mọi chuyện, và hay phá quy tắc “vượt rào” làm chuyện ngược đời. Mặt khác, từ nhỏ, Nguyễn Công Hoan đã quen với nhân tình thế thái người phường phố, thành thạo sự đời, và chả coi cái gì làm quan trọng. Đấy là những đặc tính ăn sâu vào cách nhìn của ông trước đời sống. Thành thử, tuy không phải bao giờ cũng trực tiếp đả động đến chuyện Hà Nội, nhưng trong cái nhìn của ông, chất Hà Nội rất rõ.

Không bao giờ ông tỏ ra ngây thơ dại dột mắc lừa người khác. Dân con buôn Hà Nội có định “chơi” ông thì ông “chơi lại, chứ không kém cạnh” (chữ của Nguyễn Công Hoan trong Đời viết văn của tôi).

Cũng chính là ở Hà Nội, mà Nguyễn Công Hoan làm quen với những người viết văn, viết báo đương thời, và sống trong giới những người làm nghề này một cách thoải mái, Nguyễn Công Hoan kể: Do trọ học ở Hàng Hài, mà ông sớm làm quen với Tản Đà. “Ông Tản Đà thấy tôi khôi ngô, lanh lợi, nên tuy tôi ít tuổi hơn ông nhiều, nhưng ông không coi tôi như trẻ con”. Mối giao tình giữa Nguyễn Công Hoan và Tản Đà kéo rất dài, đến nỗi, sau này, có người ngạc nhiên, tại sao một người trữ tình duyên dáng như Tản Đà, lại rất thân với một người bông phèng, tinh quái như Nguyễn Công Hoan. Và người ta bảo tác giả Bước đường cùng là một thứ “quái thai” của tác giả Khối tình con (!). Có điều là dù bông phèng thế nào, bao giờ Nguyễn Công Hoan cũng dành cho Tản Đà những dòng rất trân trọng.

Không những làm quen với Tản Đà, Nguyễn Công Hoan còn gặp gỡ nhiều nhân vật có tiếng hồi ấy, như Mâu Châu Nguyễn Mạnh Bổng, Ngẫu Trì Trịnh Đình Rư và nhiều người khác . “Tôi thích đến chơi với các nhà văn ấy. Tôi coi họ  như các anh. Họ cũng coi tôi như em nhỏ. Tôi đến với họ, chỉ để nghe chuyện hơn là để góp chuyện… Nhiều lần trí tò mò của tôi được thoả mãn. Họ rất tinh quái. Những buổi đến với họ, dù ngồi đến khuya, tôi cũng không tiếc thì giờ, khi về còn lấy làm khoan khoái”.

Nguyễn Công Hoan thường bảo mình viết văn do năng khiếu và người ta nói chung viết được là do trời sinh ra, không có bài bản nào sẵn, không có trường sở nào dậy được. Nhưng chẳng phải cái môi trường trong đó có Tản Đà và những người vừa kể đã thúc đẩy ông đến với nghề văn một cách mạnh mẽ?

Về sau, dù đi dạy học ở xa, Nguyễn Công Hoan thường vẫn gắn bó với đời sống văn học Hà Nội. Ông biết tường tận xu hướng cách làm ăn của từng tờ báo. Có khi nghỉ hè, ông về Hà Nội để trông nom báo giúp bè bạn, như giúp Đỗ Văn trông nom tờ Nhật Tân hoặc bàn với Tản Đà việc tái bản An Nam tạp chí. Nơi Nguyễn Công Hoan gắn bó nhiều hơn cả là nhà Tân Dân. Vũ Đình Long là chỗ quen biết với ông từ hồi đi học, khi bắt đầu ra Tiểu thuyết thứ bẩy, có bàn kỹ với Nguyễn Công Hoan. Nhiều tác phẩm của ông đã in ở đấy.

Thế còn sáng tác? Trên đây, chúng ta đã nói Hà Nội mang lại cho ông một cái nhìn. Do những thành thạo của người “kẻ chợ”, đi nhiều biết nhiều, ông không bao giờ rơi vào lý tưởng hoá cảnh điền viên ở nông thôn như một số nhà văn lãng mạn thường làm.

Mặt khác, ông vẫn viết nhiều về chính “chốn thị thành”. Vốn liếng của tác giả khá phong phú. Chính ta có thể lọc ra ở truyện ngắn Nguyễn Công Hoan những chi tiết liên quan đến nhiều lớp người.

– Phu xe, nhà thổ nghèo, không có cả chỗ hành nghề (Người ngựa và ngựa người); các loại ăn mày, ăn cắp “nghiệp dư” bất đắc dĩ (Bữa no đòn, Cái vốn để sinh nhai; dân đi ở ngu ngơ bị cả chủ lừa (Thằng Quýt).

– Các loại me tây hoặc lưu manh mới nẩy nòi làm giàu, học đòi: Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Cô Kều gái tân thời.

Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn miêu tả cảnh đào kép ở các rạp hát rẻ tiền hoặc lớp công chức nhỉnh hơn một chút (Tôi cũng không hiểu tại làm sao v.v…)  Như tác giả kể trong Đời viết văn của tôi, truyện Đào kép mới được viết khi ông đang ở Nam Định, nhưng nhiều chi tiết lại lấy ở hai rạp tuồng Năm Chấn và Thông Sang ở Hà Nội mà Nguyễn Công Hoan quen từ thuở nhỏ. Hà Nội đã cung cấp một kho vốn sống vô tận, tác giả còn dùng đến nó trong nhiều năm về sau.

Ngô Tất Tố

Khi Tản Đà mất (1939, Nguyễn Công Hoan có viết một bài kể chuyện những lần gặp Tản Đà, trong đó có một lần gặp ngay ở báo quán của nhà thơ, khi ông đang phải dúm dùm chèo chống An nam tạp chí. Cảnh sống của Tản Đà thật eo hẹp: “Tôi buồn ngủ phải nằm ghé vào bàn đèn thuốc phiện bày ở phản cạnh bàn làm việc của ông mà giấy má, muối, vỏ trứng, bụi hoả lò bừa bãi”.

Nhưng đó cũng là cảnh sống của nhiều nhà báo khác ở Hà Nội những năm ấy, chẳng hạn như Ngô Tất Tố. Từ quê hương ở Lộc Hà (trước thuộc Từ Sơn Bắc Ninh, nay thuộc Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) ra thủ đô, thậm chí vào lục tỉnh Sài Gòn làm báo. Ngô Tất Tố vẫn giữ cốt cách  một nhà nho nghèo. Một đồng nghiệp cũ của ông mô tả ông đầu xứ này thường ăn vận như một kẻ thất thế: “chiếc áo the đã sờn, chiếc khăn xếp không có tuổi, cây ô đen tương đối, đôi giầy trăng trắng gọi là…” Nơi báo quán Ngô Tất Tố làm việc cũng là nơi những anh Dậu, chị Dậu ở quê hương ông đến than thở một vài điều oan ức, vay một hào, hoặc nhờ xem lại ít chữ nghĩa trong các đơn kiện. Nghĩa là tuy ở Thủ đô, Ngô Tất Tố vẫn liền lặn với quê hương ông trong tình cảm, công việc; ông như một thứ đại sứ đặc biệt sống ở giữa Hà thành này để phát ngôn hộ cho những người nông dân nghèo khổ.

Lại nói tiếp chuyện ăn ở của giới những người cầm bút lúc ấy. Một nhà báo đương thời kể họ thường trải chiếu nằm sàn gác với nhau. ăn uống thì nhờ cả ở một hàng cơm nào đấy. ăn xong lại về bàn công việc. Và bàn xong, bắt tay vào viết luôn. Nghĩa là sống suốt ngày với tờ báo của mình. Những người có gia đình ở Hà Nội còn thế, nữa là những người lên đây lúc đầu có một mình như Ngô Tất Tố. Với ông, sống ở Hà Nội có nghĩa là sống để mà viết.

Cho mãi tới 1946, theo trí nhớ của Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố còn hiện ra như một ông già tóc ngắn hoa râm, áo dài khăn xếp, v.v… Về đường ăn mặc, Ngô Tất Tố bao giờ cũng vẫn là chính mình, không mấy thay đổi. Một tờ báo đương thời giễu ông “suốt đời không biết ăn kem Bờ Hồ”.

Nhìn bề ngoài, người ta dễ lẫn ông với một ít ông đồ già lạc lõng giữa Hà Nội “kinh thành hoa lệ”, mà Vũ Đình Liên từng phác ra trong một bài thơ nổi tiếng, từ năm 1936.

Thế nhưng, trong việc vận dụng ngòi bút để vạch mặt chỉ tên những truyện ngang trái của xã hội thực dân và phong kiến trên báo chí hàng ngày, thì Ngô Tất Tố không chịu kém ai. Từ 1942, trong Nhà văn hiện đại (quyển ba) Vũ Ngọc Phan sau khi bảo rằng “ông là một tay kỳ cựu trong làng văn, làng báo Việt Nam”, thuộc vào loại “những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu tây và được người ta kể vào hạng nhà nho có óc phê bình, có trí xét đoán, có tư tưởng mới”, còn nói rõ thêm:

… “Về đường văn nghệ, ông đã theo kịp cả những nhà văn thuộc phía tân học xuất sắc nhất”.

“Ngô Tất Tố là một nhà nho mà đã viết được những thiên phóng sự, những thiên tiểu thuyết theo nghệ thuật Tây phương và ông đã viết bằng một ngòi bút đanh thép, khiến cho người tân học phải khen ngợi”.

Chắc chắn rằng chỉ lên “góp mặt với đời” trên Hà Nội, ngòi bút của Ngô Tất Tố mới có những bước chuyển rõ rệt như vậy.

Theo Nguyễn Đức Bính kể, Ngô Tất Tố là loại nhà báo chỉ đi bộ từ nhà đến toà soạn – lúc này, đâu ông đã có một hiệu thuốc ở đường Sinh Từ, phố Nguyễn Khuyến hiện nay(1) – nhưng có thể viết đủ chuyện năm châu bốn bể trên mặt báo. Công phu tu luyện để có thể đạt tới một trình độ như thế, chắc phải lớn lắm.

Thế Ngô Tất Tố – nhà văn, nhà báo – có viết gì về Hà Nội không? Dĩ nhiên là có. Trong các tiểu phẩm của ông, in lại trong Ngô Tất Tố tác phẩm, tập 1, chúng ta bắt gặp những đoạn ông chửi bọn đồng cốt lừa bịp ở đền Hàng Trống, hoặc có cả một phóng sự ngắn mang tên Dao cầu thuyền tán, tố cáo các loại lang băm. Đối với bọn văn sĩ tư sản dùng ngòi bút để xúi giục người ta đi vào con đường hư hỏng kiểu “vui vẻ trẻ trung”, Ngô Tất Tố cũng có những đòn đả kích thậm tệ. Nói chung, trong các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, đời sống Hà Nội hiện ra  như một thứ kẻ chợ lộn xộn, ồn ào, phồn vinh giả tạo, một nhà nào như ông thấy rất chướng tai gai mắt (tuy nhiên, trong hoàn cảnh lúc ấy, ở nông thôn thì đời sống cũng rất đen tối!. Chỉ riêng trong Lều chõng, chúng ta thấy Hà Nội hiện lên với nhiều nét đẹp, người Hà Nội từ những cô hàng bán giấy bút, cho đến ông chủ quán trọ cũng đều hết sức tài hoa, lịch thiệp. Lều chõng thường vẫn được mô tả như là một tác phẩm có những nét tự truyện. Bởi vậy, với Lều chõng, có thể nói Ngô Tất Tố đã ghi nhận một phần những ảnh hưởng mà Hà Nội để lại trong cuộc đời những kẻ sĩ tương tự như ông. Bấy giờ mức độ xâm nhập của văn minh Tây Âu vào xã hội Việt Nam còn là hạn chế. Hà Nội chưa có vẻ sầm uất với nhiều nét sinh hoạt thị dân rõ rệt như sau này. Nhưng lên Hà Nội, lớp học trò như Đào Vân Hạc vẫn cảm thấy có gì thật thoải mái, họ dễ dàng tìm được chút tự do lặt vặt như xuống xóm cô đầu… cô đầu lúc ấy còn là một thú chơi thanh nhã hoặc thăm thú các nơi. Điều có ý nghĩa quan trọng hơn: lên đây, những kẻ gọi là nhân tài các tỉnh có dịp trò chuyện, “đấu” với nhau để tự kiểm tra sức học, trình độ năng lực của mình. Riêng với Đào Vân Hạc, thì trong những dịp thi cử, chàng cảm thấy cái vô nghĩa của con đường hoan lộ mà việc học đã mở ra và chàng cả quyết sống theo lối ở ẩn giữa đời. Đấy cũng là những kết luận mà chỉ những kẻ sĩ tương đối từng trải mới có được.

Tóm lại, Lều chõng đã cho chúng ta thấy chân dung tinh thần Ngô Tất Tố như một nhà nho, để rồi từ đó ta phải hình dung ra thêm Ngô Tất Tố… nhà văn, nhà báo. Tuy nhiên, đối với quá trình tư tưởng của ông trong cả hai chặng đường này, Hà Nội vẫn có một vai trò không gì thay thế được.

Thạch Lam

Trong số những phố phường cũ ở Hà Nội, phố Hàng Bạc thật có duyên với văn học: Nguyễn Tuân, Thạch Lam đều sinh ở đấy; Vũ Trọng Phụng đã sống ở đấy nhiều năm. Trong văn chương, Nguyễn Tuân không tả cụ thể Hàng Bạc nhưng như sau đây chúng ta sẽ thấy, ông thường tả rất kỹ khu trung tâm thành phố, chung quanh hồ Hoàn Kiếm. Vũ Trọng Phụng cũng thường nhắc tới trong các phóng sự tiểu thuyết của mình cảnh ăn chơi của những Tạ Hiền, Sầm Công, Hàng Buồm cách Hàng Bạc không xa. Riêng Thạch Lam có khác. Thuở nhỏ, ông theo gia đình về ở mãi cái huyện xa vùng Hải Dương (Cẩm Giàng) và Thái Bình (Tân Đệ), sau mới về học ở Hà Nội và ra làm báo. Lúc này, gia đình ông khi thì ở Hàng Bún, khi lên Yên Phụ. Có điều trong văn Thạch Lam, khu vực từ Đồng Xuân tới Bờ Hồ vẫn rất quen thuộc; nhân vật Hiệp trong Cô áo lụa hồng (tập Gió đầu mùa) từng mũ đội lệch, miệng ngậm thuốc lá” đi dạo đủ các phố Hàng Ngang, Hàng Đường, Chợ Đồng Xuân, Hàng Lược… Và quan trọng nhất là cái cốt cách ra cảm thấy trong văn Thạch Lam. Đó là một giọng văn bình dị mà lại tinh tế, như người Hà Nội từng trải thanh lịch, tiếng nói Hà Nội dễ dàng, sang trọng. Nói Thạch Lam là một trong những nhà văn Hà Nội tiêu biểu, chính bởi những lý do đó.

Theo Thanh Tịnh kể lại, thì bề ngoài Thạch Lam dáng cao cao, thân hình mảnh khảnh, ăn nói điềm đạm, mới gặp người ta dễ lầm là một nhà giáo hơn là một nhà văn. Qua văn ông, chúng ta đoán ông sống thanh đạm, chăm lo nhiều tới cuộc sống nội tâm, không bị cuốn theo ngoại cảnh ồn ào. Ông tôn trọng mọi người, sợ làm phiền người khác, nhưng lại giữ được sự độc lập trong đầu óc và không phải là không phóng túng trong nếp nghĩ. Chắc chắn là ông không sống hùa theo mọi người. Chả thế mà viết văn giữa Hà Nội, bạn bè với nhiều đồng nghiệp trưởng giả, ông vẫn dửng dưng với mọi tiện nghi vật chất, và chỉ tìm thấy niềm vui trong một mái nhà tranh trông ra Hồ Tây ở Yên Phụ (làng Yên Phụ có con đường lát gạch và hồ Ao Vả, chứ không phải đường phố Yên Phụ!). Ông sống như thế cho đến những ngày cuối cùng trong đời. Theo nhiều tài liệu cho biết, ông chết vì bệnh lao, khi mới hơn 30 tuổi. Nhưng đọc văn ông cũng như xem cách sống của ông, thấy ở Thạch Lam tất cả đều đã đến giai đoạn chín, ổn định.

+

+  +

Trong một thiên truyện mang tên Phê-ra-guýt, thủ lĩnh của đám phàm ăn, Ban-dắc từng nêu một nhận xét, như một con người phải xấu hổ khi làm điều đê tiện. ở đó, cũng có những phố cao thượng, những phố quả thực lương thiện, những phố trẻ trung mà công chúng chưa kịp có ý kiến về đức hạnh của chúng: tiếp đó, có những đường phố hung bạo… những đường phố đáng kính, những phố luôn luôn bẩn và những phố  lúc nào cũng sạch, những phố lao động làm ăn buôn bán. Tóm lại, những đường phố ở Pa-ri có những tính chất của con người và vẻ ngoài của chúng gợi cho ta những ý nghĩ nhất định mà ta không cách gì cưỡng lại được”.

ý nhà văn hào Pháp ở đây chỉ muốn nhấn mạnh khuôn mặt các thành phố thường đa dạng. Pa-ri là vậy, Hà Nội của chúng ta là vậy, và Hà Nội được phản ánh trong các tác phẩm văn học cũng vậy. Qua văn Nguyễn Công Hoan, chúng ta đã bắt gặp một số mẫu người kẻ chợ, láu, học đòi, bạc bẽo, bất nhẫn, qua văn Vũ Trọng Phụng, ta biết thêm một Hà Nội của xã hội thực dân phong kiến với những mưu đồ xoay xoả, những vụ bịp lớn, một con đường lưu manh hoá sẵn sàng mở ra với mọi thanh niên. Nhưng Hà Nội đâu phải chỉ có thế? Mãi mãi vẫn còn một Hà Nội nhạy cảm tế nhị, giàu lòng thương xót người khác, một Hà Nội rất tử tế, sang trọng nếu có thể nói như vậy. Như ở tác phẩm Thạch Lam chúng ta đang xét. Qua Một cơn giận, nhân vật xưng tội tự kể về một tình thế trớ trêu: do bực mình, nóng nảy, lạnh lùng, v.v… tóm lại trong một trạng thái tâm lý không bình thường, anh đã vô tình đẩy người khác (ở đây là một phu xe nghèo khổ vào bước đường bất hạnh. Nhưng sự tỉnh táo đến rất nhanh, kèm theo là sự xót xa ân hận, và những hành động cụ thể, để sửa chữa, vớt vát lại tình thế, khiến người đọc truyện không khỏi cảm động. Qua Một cơn giận, ta cảm thấy tác giả có cách nhìn vào đời sống khá thấu đáo, lại biết thông cảm với mọi lầm lẫn ở mình và xung quanh. Con người Hà Nội, con người thành thị ở đây có những nét đáng yêu, đáng vì nể chứ không chỉ thuần có lạnh lùng, vô trách nhiệm, như người nọ, người kia vẫn mô tả.

Một trong những  mô-tip thấy trở đi trở lại vài lần trong truyện ngắn Thạch Lam: một người thành phố về thăm quê hương của mình. Trong Trở về là thế, trong Dưới bóng hoàng lan là thế. Rồi Những ngày mới lại càng kỹ hơn, tỉ mỉ hơn. Trừ trường hợp nhân vật Tâm trong Trở về thấy chán ngán, ngại ngùng (anh ta gần như bỏ chạy khỏi nông thôn), còn trong hai truyện kia, nhân vật chính đều rất thiết tha với quê hương. Họ tìm thấy ở đấy những gì tượng trưng cho sự trong sạch, sự bền chắc trong tình cảm. Nói như ngày nay chúng ta thường nói, trở về với làng quê, đối với một số nhân vật trong Thạch Lam, là trở về với cội nguồn của đời sống. ở đó, ta tiếp nhận được đời sống ở cái phần chân chất nhất, trong lành nhất của nó. Đấy cũng là điều Thạch Lam muốn nhắc nhở chúng ta. Trong đoạn văn viết về cốm rất nổi tiếng, trong tập Hà Nội ba mươi sáu phố phường.

“Cơn gió mùa hạ lướt qua vùng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá như báo trước mùa về một thứ quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy khi đi qua những cánh đồng xanh mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đọng lại, bông lúa càng ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời”.

Nét đặc biệt của Hà Nội của chúng ta là thành phố luôn luôn gắn bó với các vùng nông thôn xung quanh, nhiều người lên đây làm thợ, buôn bán, đi học, thậm chí làm quan, đã sống hàng đời ở Hà Nội rồi, vẫn không khỏi thoáng qua một chút run rẩy khi nhớ về quê cũ. Trước rất nhiều nhà văn khác, Thạch Lam đã kêu lên như thế, tiếng kêu của ông nhẹ nhàng, nhưng đầy sức thuyết phục.

Nguyễn Tuân

Không những chỉ sinh ở phố Hàng Bạc, mà Nguyễn Tuân còn chính là người gốc ở một vùng đất ngoại thành nổi tiếng: làng Nhân Mục (làng Mọc); tức ông đồng hương với Đặng Trần Côn.

Nhà văn Tô Hoài kể: có những lần Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân về Dục Tú, quê Nguyễn Huy Tưởng. Nghe Nguyễn Huy Tưởng kể chuyện thành cũ Cổ Loa gần đấy, Nguyễn Tuân cũng hào hứng nhắc đến quê hương mình. Bấy giờ là thời Tây Sơn đánh quân Thanh. Một mũi quân do đô đốc Bảo chỉ huy. Sau khi đánh tan quân Thanh ở đầm Mực, cánh quân này trên đường tiến ra Đống Đa: theo Nguyễn Tuân, thể nào họ cũng vu hồi lên Kim Giang, Kim Lũ rồi tập kết ở bốn làng Kẻ Mọc mà Nguyễn Tuân gọi một cách tự hào là Kẻ Mọc chúng tôi.

Lớn lên một chút, Nguyễn Tuân cùng gia đình đi “tha hương” ở nhiều nơi, Nam Định, Thanh Hoá và cả các tỉnh sâu vào trong nữa. Nhưng theo Nguyễn Tuân kể với chúng tôi, dù làm ăn ở đâu, năm nào bà cụ thân sinh ra ông cũng dẫn ông về Hà Nội ít ra là một lần, và thường vào dịp Tết.

Năm 1923, mười ba tuổi, cậu bé Nguyễn Tuân học ở một trường tư Hà Nội, trường Trương Minh Sanh, rồi sau đó mới chuyển về học thành chung ở Nam Định. Và khi trưởng thành, sống hẳn về nghề văn, nghề báo, thì Nguyễn Tuân cũng chuyển luôn từ Thanh Hoá ra Hà Nội, để rồi “đàn đúm”, “tụ họp” với không biết bao nhiêu là bè bạn ở đây, làm nên một thời vang bóng của ông trong nghề nghiệp.

Trong một bài viết gần đây về phim Chị Dậu, Nguyễn Tuân kể lại những ngày mới bước vào nghề làm báo, từng sống ở một toà soạn ở phố Hàng Da, cùng phòng với Ngô Tất Tố. Trong khi Nguyễn Tuân đi chơi, thì Ngô Tất Tố miệt mài làm việc. Trở về phòng, Nguyễn Tuân đã mệt lắm, nhưng nhìn những trang viết giở của người đồng nghiệp vong niên lại phải ngồi vào bàn.

Trong các tài liệu khác, chẳng hạn Một đêm họp đưa ma Phụng chúng ta cũng lại bắt gặp những trang tả lối sống, lối làm việc của Nguyễn Tuân và những nhà văn đương thời. Đại khái là các ông rất hay đi bộ, cứ diện Tây, thắt cra-vát vào mà cuốc bộ ra Thư viện quốc gia, rồi đến thăm nhau, rủ nhau ra làm một chầu rượu mạnh ở Bờ Hồ hoặc cầm những quyển sách Pháp mới mua được ở các hiệu sách trên tay vừa đi đường vừa tán chuyện. Gần, giữa mấy phố đông người Hà Nội. Xa, có khi mấy người kéo bộ sang tận xóm Thượng Cát bên kia sông Hồng, rồi sáng hôm sau lại qua chín nhịp cầu Long Biên quay về.

Vạn nhất mới phải lên xe điện!

Trong những lý do để đi bộ, nó cũng là cái thú thanh nhã nữa, có điều này hợp với nghề báo, nghề văn. Là vừa đi, người ta có thể vừa quan sát, vừa nghĩ về cái thành phố mình đang ở, liên hệ giữa những điều đọc trong sách vở với việc đang xảy ra trước mắt.

Sau này, khi đã trải qua kháng chiến trở về thủ đô, Nguyễn Tuân vẫn giữ nếp sinh hoạt như vậy. Cùng với Nguyễn Huy Tưởng đi vào những ngóc ngách phố cũ. Hoặc dạo quanh Hồ Gươm. Hoặc cùng với các bạn nước ngoài, dừng lại ở cửa Toà thị chính cũ, nay là trụ sở Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, ở cửa Câu lạc bộ Thống Nhất, v.v… Vừa đi vừa kể:

– Toà thị chính được xây dựng từ những năm 80 của thế kỷ trước.

– Câu lạc bộ Thống Nhất (nay là chỗ bán vé của Hàng không Việt Nam) xưa là trụ sở của Hội khuyến nhạc thành phố.

– Hiệu sách đầu tiên ở Hà Nội khai trương 1897. Thư viện đầu tiên ở Bắc kỳ mở cửa 1919 v.v….

Nguyễn Tuân đã thật sự trở thành một pho sử sống của Hà Nội. Nhiều trang viết của ông có thể sẽ còn mãi, bởi ghi được một cách cô đọng những cảnh sắc Hà Nội, khiến cho chúng lung linh lên, khắc sâu vào trí nhớ. Gần đây nhất, là những đoạn Nguyễn Tuân tả Hà Nội trong những ngày chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Nhưng không phải chỉ có thế. Bốn chục năm trước, Nguyễn Tuân cũng đã từng ghi lại cảnh Hà Nội tập báo động, chủ yếu là ở khu vực trung tâm thành phố.

“Vợ chồng H Ng và tôi vẫn đi một cách tò mò vòng quanh hồ Hoàn Kiếm. ánh sáng đỏ và xanh hoa lý nhà Thuỷ Tạ chảy xuống hồ tù hãm như những ống điện nê-ông có kèm những con tiện ngòng ngoèo màu sơn đỏ da chum…

Đồng hồ tay chỉ 21 giờ. Còi báo động bắt đầu. Còn gì rền rĩ thê thảm bằng. Đèn tắt một loạt. Trong tối tăm, chuông nhà thờ phụ hoạ với còi báo động (…). Tiếng còi nấc lên rồi vẳng xa như sáo gió một con diều thả về từ một cõi âm nào (…). Tiếng còi vẫn rỉ rên, rồi nấc mạnh, rồi chết hẳn (…). Tiếng còi đau khổ vẳng ngân trong bảy tám khổ vừa khoan vừa dài, vẫn nâng đỡ lấy mảnh trăng ốm, bị chém khuyết hẳn một góc…”.

Một đoạn khác:

“Thời loại điểm vào đêm kinh thành những chấm rực rỡ. Một gạch xanh cỏ non ở các ngã tư. Một chấm đỏ ở các hầm đang đào. Một bóng đèn màu nước biển ở cái bóp gác. Chung quanh và trên những đốm lửa màu ấy, đêm bao la, đêm lù mù. Trong bóng tối nhiều cái bóng thủ thỉ lướt qua”.

(Những ngọn da xanh và … những dịp còi)

Lùi về trước nữa, lần Pháp cho phá thành cổ, xây phố xá, cũng đã được Nguyễn Tuân kể lại rất có không khí, nhân khi viết bạt cho cuốn Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng.

Nếu đồng ý rằng đối với Nguyễn Tuân, Hà Nội là nơi còn in lại nhiều dấu vết lịch sử “vang bóng một thời”, nơi những người tài tử hội ngộ, chúng ta sẽ hiểu tại sao tuy đây đó tác phẩm của ông có đượm chút “hoài cổ” song lại là những trang sách có ích, nó cho thấy “bề dầy” của Hà Nội, và làm cho chúng ta trân trọng những khía cạnh truyền thống tốt đẹp.

Trước cách mạng, Nguyễn Tuân ở Hà Nội là chính. Ông cũng luôn luôn đi khắp nơi trên đất nước. Song, mỗi lần hoàn thành tác phẩm, ông đều trở lại thủ đô sống, cái không khí nghề nghiệp cho thật đã. Cũng có lần năm 1941, ông bị bắt và bị bắt ngay ở Hà Nội, để rồi đầy đi Vụ Bản, nhưng mấy tháng sau được tha ngay.

Lần Nguyễn Tuân xa Hà Nội lâu nhất là thời kháng chiến chống Pháp. Xa và nhớ Hà Nội lắm! Nhìn cột mốc cây số nào cũng thấy nó dẫn về Hà Nội. Và từ Việt Bắc, ông thấy nhớ đủ thứ của đời sống thủ đô hôm qua. Nhân gặp một ông hàng phở, Nguyễn Tuân viết:

“ Bây giờ là mùa hè 1948. Nắng lắm. Thêm cái bóng me và sấu lùm buổi sớm của Dốc Hàng Kèn, những giờ đi “đả phở tập thể” (chắc là “hội” những anh em làm báo, như chúng ta đã biết ở đoạn trên!). Gặp ông Xước, thủ thư cũ của Thư viện quốc gia, Nguyễn Tuân thấy xao xuyến nhớ “cả một thời thanh bình độc thư săn tàng thư lâu lá mùa thu rụng từng cái một bên đường Trường Thi”. Rồi gặp ông Cai Lộc phát hành báo; cô Lan bán hoa; anh Két đưa cốc-tay ở Thuỷ Tạ; chị Nhâm cua bể chợ Đồng Xuân; anh Khôi kính-coong v.v…

Có cảm tưởng rằng trong Hà Nội cũ, Nguyễn Tuân rất nhiều người quen biết, bất cứ ai lành nghề trong công việc của mình, đều được ông dành cho một sự ưu ái trong tâm trí. Con người hay bị kêu là khinh bạc này thực ra lại rất biết nể trọng người tài và thấm thía cái câu “nhất nghệ tinh nhất thân vinh” hơn ai hết.

Bởi chính Nguyễn Tuân cũng thế, cũng lấy nghề nghiệp làm trọng.

Những người có quen riêng Nguyễn Tuân đều biết và có ấn tượng sâu sắc về thói quen lao động nghệ thuật kỹ càng, tỉ mỉ nơi ông. Viết về cái gì, ông tìm đọc cho bằng hết các loại sách viết về cái đó để tham khảo,. Ví như trước khi viết về cầu, ông đọc cả sách về kỹ thuật dựng cầu, rồi sưu tầm hết các kiểu ảnh cầu đã làm ở nơi A, nơi B, vào cái thời gian mà ông định tả. Lương tâm nghề nghiệp không cho phép ông nói liều, nói bừa về một thứ mình không biết. Ông đọc. Ông tra xét. Rồi ông lao động cật lực trên từng câu, từng chữ, khiến cho mỗi dòng, mỗi trang ông viết ra đều mang dấu ấn nơi ông, nhiều khi không cần đọc tên người viết ở cuối bài, người ta cũng biết ai là người đã viết ra bài đó. Nếu bảo tác phẩm là một thành phẩm, một mặt hàng thì những tuỳ bút ký tên Nguyễn Tuân bao giờ cũng là thứ hàng thượng hạng, hàng kỹ, nhìn qua biết ngay, mà càng nhìn lâu càng thấy quý.

Đó chính là một khía cạnh làm nên chất Hà Nội của nhà văn này. Nếu không sợ mang tiếng là hạ thấp công việc viết văn, chúng ta có thể nói đây cũng là một nghề, nó đòi hỏi người ta phải rất công phu học hành, phải hết sức khổ hạnh. Và Nguyễn Tuân gần gũi với bao nhiêu những người thợ tài hoa khác – thợ vẽ, thợ may, thợ khâu giầy, người viết chữ đẹp, người ca sỹ hát hay, v.v… Chính họ đã mang lại cho đời sống kinh kỳ một vẻ sầm uất và một niềm tự hào chân chính.

Xuân Diệu

Trong một bài tuỳ bút mang tên Việt Nam đại hội viết từ trước cách mạng, sau in lại vào tập Triều lên (1957), Xuân Diệu từng mượn lời miền Nam để ca ngợi miền Bắc. Trong tâm trí nhà thơ, Hà Nội phải đặt trên bối cảnh toàn miền đồng bằng Bắc Bộ, mới thật rõ cá tính.

– Thưa chị, trải bốn ngàn năm, chị lại càng tươi tốt hơn bao giờ. Chị vẫn trẻ mãi như thế. Mấy thời đại qua, sông Nhị Hà vẫn là một con sông trẻ… Núi Tản Viên tinh khiết như màu trời sắt lại, hồ Ba Bể trăng soi lánh lỏi, Vịnh Hạ Long rồng nổi mây sa, con sông Thương nước chảy đôi dòng. Nhưng huyền diệu nhất là mùa đông của chị. ở tận miền Nam, em ao ước đến luôn: em cố tưởng tượng cái rét thế nào, cái sương gió thế nào. Những hôm mưa vừa mới tạnh, một trận gió lạnh bỗng xảy đến, đôi chút sương kỳ diệu phơ phất các tán cây, thành phố Sài Gòn của em nhớ thương Hà Nội hơn lúc nào hết. Từ khi đồng bào miền Bắc càng vào nhiều trong em thì những mùa mưa của em cũng như thêm gió thêm sương, thêm một vài luồng lạnh quí báu, hiếm hoi…”.

Đoạn văn diễn tả khá tinh tế những ấn tượng mà một người vốn quê khu Năm như Xuân Diệu “tiếp nhận” ở Hà Nội, ngạc nhiên về Hà Nội. Bấy giờ là 1935, nhà thi sĩ trẻ mười chín tuổi đến Hà Nội để vừa học tú tài phần thứ nhất, vừa viết văn, viết báo. Với các bạn trẻ bây giờ, Xuân Diệu thường kể: Nếu từ nông thôn lên Quy Nhơn, ông đã thấy con người được cởi mở hơn, tâm trí phong phú hơn, thì với việc ra Hà Nội, những thay đổi lại càng như kỳ diệu.

“Tôi được đi ra Hà Nội học tú tài phần thứ nhất ở trường Bưởi gần Hồ Tây. Hồ Tây lúc đó còn hoang vu hơn bây giờ nhiều, số người còn ít. Hồ Tây rất là rô-măng-tích. Có thể nói, khi ra Hà Nội, tôi có sự nảy nở lần thứ hai… Đi vào những trại trồng hoa ở Ngọc Hà, xem những cây hoà đào ở Nhật Tân, đối với tôi vào tuổi 18, 19 như một sự bừng nở, như mùa xuân mới về”.

Nếu muốn tìm hiểu thiên nhiên đã ảnh hưởng đến tâm hồn một người viết văn như thế nào, thì trường hợp Xuân Diệu tiếp xúc với miền Bắc, trước tiên là Hà Nội, đã là một đề tài thú vị.

Trên phưong diện văn học, những ảnh hưởng này sẽ rõ rệt hơn, và những ngạc nhiên trong lòng Xuân Diệu sẽ còn bùng lên mạnh mẽ hơn. ở Quy Nhơn ngày nào Xuân Diệu đã say mê thơ Tản Đà, khi nghe tin An nam tạp chí tục bản, cứ phải trốn trường ra phố thăm hỏi không thôi. Nay Xuân Diệu được gặp Tản Đà giữa toà soạn một tuần báo.

Cũng ở Hà Nội, Xuân Diệu được gặp Thế Lữ. Tác giả Mấy vần thơ đã động viên Xuân Diệu viết, đã cho đăng một số bài của Thơ thơ trên Ngày nay, và khi Thơ thơ in ra, tự tay viết những trang đề tựa. Từ những trang thơ này, Xuân Diệu sẽ vào sâu thêm giới văn học Hà Nội. Không phải ngẫu nhiên nhiều bài thơ của ông in báo rồi in lại trong Thơ thơ, bên cạnh đầu đề, có ghi thêm mấy chữ tặng một người nào đó: Chiều tặng Nguyễn Khắc Hiếu, Nhị Hồ tặng Thạch Lam, Xa cách tặng Đỗ Đức Thu, Vội vàng tặng Vũ Đình Liên v.v.. và v.v…

Những chi tiết nho nhỏ ấy chỉ xác nhận một sự thực là Xuân Diệu đã gắn bó với đời sống văn học thủ đô lúc ấy, và do được sự động viên, cổ vũ của bè bạn, đồng nghiệp… mà ngòi bút Xuân Diệu thêm hứng khởi.

Có lẽ cũng chỉ Hà Nội hồi ấy mới chấp nhận cái chất “tây” rõ rệt trong thơ Xuân Diệu và vừa chào đón nồng nhiệt vừa hướng cho nó thêm mềm mại hơn.

Rồi cũng ở đây, sự nghiệp Xuân Diệu cơ bản hình thành. Thơ thơ in ra hai lần ở Hà Nội (1938-39), đã có tiếng vang tới mức, năm 1941, khi làm Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã ghi lại lần thứ nhất Thơ thơ được in ra, như một ngày tháng đáng  nhớ trong Biểu liệt kê các tác giả và tác phẩm theo thứ tự thời gian.

Tuy nhiên, cũng ở Hà Nội, trước cách mạng Xuân Diệu nhanh chóng đi tới sự chán ngán bế tắc. Trong Những bước đường tư tưởng của tôi, ông kể:

Năm 1943-1944, ở trên cái gác Hàng Bông, tôi chạy buôn chợ đen thì không được, viết văn cứ nói mãi về cái buồn cũng hết chuyện… Tôi ngồi giở quần áo cũ ra và giữa một bóng chiều thu đông lạnh và héo xám như hoa khô”.

Những trang văn xuôi của tác giả lúc này có một không khí riêng buồn buồn, ngùi ngùi, nó là trạng thái tâm hồn tác giả đồng thời lại cho chúng ta thấy một vài khía cạnh Hà Nội trước cách mạng mà ở người khác không thật rõ.

Trong Phấn thông vàng, nhà văn tả cái nơi ở của một người bạn:

“Tôi biết nói cái gì trước bây giờ? Cái gì cũng buồn như nhau. Con đường sắc xanh không rải nhựa, dãy phố lặng lẽ, gian nhà không chút đặc biệt của ông chủ, căn phòng không sáng sủa của bạn tôi… Mọi vật đều buồn một cách lưng chừng, xui lòng tôi không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải chịu ngùi ngùi một cách vô lý”.

Và đây nữa, cái chất lưng chừng, vừa phải của một mảng đời thành phố, qua sự cảm nhận của Xuân Diệu:

“Đoạn đường chạy qua không đủ rộng để làm một đường phố, cũng không đủ hẹp để làm một ngõ hẻm, đá không chịu lởm chởm, mà chỉ hơi gập ghềnh. Nhà không chịu xấu, không chịu tồi mà lại chưng một vẻ phong lưu nghèo nghèo một ít. ánh sáng không chịu sáng, giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi chiều dài. ở chợ Hôm đang náo nhiệt bao nhiêu, thế mà vừa đi một trăm bước để vào con đường này, cuộc đời bỗng quạnh hiu, làm cho nhà cửa ngơ ngẩn”.

Có thể bảo rằng đây là một nét Hà Nội trước cách mạng rất hiếm người nhận ra, cái Hà Nội mờ mờ, nhạt nhạt, bùi ngùi như Xuân Diệu hay nói, cái Hà Nội giống như trong tranh Bùi Xuân Phái, trời đất không ra sáng, không ra tối, chỉ thấy nhà không thấy người, và những mái nhà thì tuy nhỏ nhoi, nhưng không cái nào giống cái nào.

Chính một thứ Hà Nội bùi ngùi như thế này đã quyết định những chuyển hướng trong cuộc đời và trong thơ Xuân Diệu…

Theo chính Xuân Diệu kể, thì trước khi về 61 Hàng Bông, cái gác vá áo nói trên. Xuân Diệu còn cùng với Huy Cận ở 40 Hàng Than. ở đây Xuân Diệu và Huy Cận ở trên gác, còn người ở gác dưới là nhà thơ Lưu Trọng Lư. Lưu Trọng Lư từ miền trung ra Hà Nội trước Xuân Diệu, bấy giờ đã sống bằng ngòi bút, ông nhận làm thuê cho Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san lương mỗi tháng là sáu chục đồng.

Nhưng bao nhiêu màu sắc kỳ lạ của cuộc sống Hà Nội bấy giờ không làm cho thi sĩ yên tâm. Nhìn vào đời sống Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu thấy chẳng có gì bảo đảm. Chưa đầy ba mươi tuổi mà Xuân Diệu đã cảm thấy hết cái lạnh lẽo của kiếp sống con người. Huy Cận than: “Phố không cây, ôi sầu biết bao chừng” nghe còn mơ màng. Xuân Diệu nói rõ hơn: “Cơm áo không đùa với khách thơ”, thật là cụ thể. Có lẽ là nghề viết không nuôi nổi người ta thật, nên mê văn chương, mê Hà Nội vậy, Xuân Diệu vẫn phải bỏ cả hai mà đi làm tham chính nhà đoan ở Mỹ Tho ba năm, khi Huy Cận đỗ kỹ sư canh nông nuôi được bạn rồi, hai người mới đoàn tụ.

Khi nghe tôi hỏi về những ấn tượng mà Hà Nội để lại trong tâm trí mình, Xuân Diệu ngước mắt lên thoáng nghĩ gì đó, rồi nói rằng sẽ có lúc mình viết về trời đất, nắng gió Hà Nội. Tuy nhiên, còn một điều ông đã nói ngày. Hà Nội bây giờ là cái xưởng làm việc của ông, là nơi cung cấp cho ông đủ “nguyên vật liệu” để suy nghĩ, nghiên cứu, lại tạo không khí đủ ấm, đủ nóng để cái nụ của sự sáng tạo thành hoa, cái mầm trong hạt lớn lên thành cây. Ngoài ra, phải nói là từ sau cách mạng, Xuân Diệu sống giữa Hà Nội thấy đầm ấm hơn. Ông lại hay đến với Hồ Tây rất rô-măng-tích, như ông đã nghĩ, hơn bốn chục năm trước. Lại hay đến Trại trồng hoa Ngọc Hà, tới xem đào Nhật Tân… Trong khi đường trăng- đường thơ- đường tình yêu của Xuân Diệu lúc này mở rộng ra tới tận Láng “thơm bạc hà, canh giới” thì hàng ngày, Xuân Diệu vẫn sống bên phố phường nhà cửa, những con đường đậm bóng sấu Hà Nội, và viết, lao động, với một nhịp điệu mà những người trẻ tuổi cũng phải ghen tị.

Mạnh Phú Tư – Chế Lan Viên

Tế Hanh – Bùi Hiển

Ra với Hà Nội để vừa học, vừa viết, có khi ban đầu chưa phải đã định sống với nghề viết, nhưng do ở Hà Nội thấy nghề này hấp dẫn quá, thú vị quá mà đi vào lúc nào không rõ – đấy không chỉ là trường hợp của riêng  Xuân Diệu, mà của nhiều cây bút khác, trước cách mạng.

Chẳng hạn như Mạnh Phú Tư. Vốn quê ở Hải Dương, ông ra Hải Phòng học trước, rồi sau học ở Hà Nội, và vừa dạy từ các gia đình, vừa viết văn. Nhờ cuốn Làm lẽ (1940) được giải thưởng Tự lực văn đoàn, ông mới tiếp tục viết những cuốn khác Sống nhờ, Gây dựng, Nhạt tình, v.v…

Hoặc như Chế Lan Viên. Đến nay nhiều người còn nhắc đến chuyện thời ấy, một vụ hè, Chế Lan Viên ra đây “bám” Thư viện trung ương chỉ để đọc sách. Tờ báo phát hiện ra ngòi bút Chế Lan Viên là tờ Bắc Hà của nhóm Trần Huyền Trân, Thâm Tâm. ít lâu sau, thi phẩm Điêu tàn đánh dấu sự trưởng thành của Chế Lan Viên cũng được in ở Hà Nội.

Lại có trường hợp như Tế Hanh. Tuy chỉ ra Hà Nội ít ngày rồi về ngay, nhưng có thể nói khi đi học. Tế Hanh vẫn sống với không khí thơ ở ngoài này, nhờ thế, tập Nghẹn ngào có gì rất gần với những tập thơ khác xuất hiện đương thời.

Và đây, một trường hợp nữa, nhà văn Bùi Hiển. Theo như ông kể với chúng tôi, thì từ 1935-36, khi đnag đi học ở Vinh, ông đã sống với không khí văn học của Hà Nội. Hàng tuần cứ đến thứ năm là có chuyến tàu chở sách báo Hà Nội vào, độ 8 giờ tối thứ năm đã thấy bầy bán ở các hiệu sách lén của thành phố Vinh, và Bùi Hiển bao giờ cũng phải tìm ngay những tờ báo đó để đọc.

“Đúng là Hà Nội toả sáng trong tôi” – Bùi Hiển nhận vậy. Ông mê những tác giả đương thời nổi tiếng in trên báo chí thủ đô, đến mức có lần ngồi chép lại một đoạn văn của Nguyễn Công Hoan mà ông rất thú. Ngôn ngữ Hà Nội quả là tuyệt, có thể nói tiếng Hà Nội là tiêu biểu cho vẻ đẹp của tiếng Việt. Một vài câu ca dao dẫn vào giữa trang truyện như mấy câu:

Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn,

Chính chuyên cũng chẳng sơn son mà thờ

Vũ Trọng Phụng dẫn trong Cơm thày cơm cô, đối với Bùi Hiển, cũng đã là bài học.

Mặc dù chỉ viết về những truyện ở tỉnh nhỏ lúc ấy, hoặc về những người dân chài vùng biển, nhưng Bùi Hiển bao giờ cũng cố gắng để có một ngôn ngữ uyển chuyển, dung dị, người các vùng khác cũng có thể hiểu được. Và giới văn học Hà Nội rất hiểu những cố gắng đó của Bùi Hiển. Ngày nay và Trung bắc chủ nhật, Tiểu thuyết thứ bảy và Thanh Nghị, báo nào mà Bùi Hiển có bài gửi tới, cũng khuyến khích ông làm việc, nhiều khi còn cho đăng truyện ngắn của ông với những đoạn giới thiệu ngắn gọn, trang trọng.

Đến nay, mấy chục năm đã qua, nhưng Bùi Hiển có thể sung sướng mà nói rằng Hà Nội đã phát hiện ra mình. Cái nỗi niềm hân hoan của một người viết văn ở một tỉnh nhỏ, khi lần đầu đến với một nhà xuất bản ở Hà Nội làm việc về tập truyện ngắn đầu tay của mình, nỗi niềm đó thật suốt đời người ta không thể nào quên nổi!

Từ đây đến chỗ bỏ gia đình quê hương lên Hà Nội, sống hẳn với nghề văn bước đường không còn bao xa.

Tuy nhiên, cái điều xảy ra với nhiều người, không xảy ra với Bùi Hiển. Ông sống ở Vinh cho đến khi cách mạng mới ra họp hội nghị văn hoá toàn quốc, rồi trở về, hoà nhập vào không khí kháng chiến của quê hương.

Nguyên Hồng.

Có một nhà văn, đến nay đã mất, chúng tôi không thể tiến hành phỏng vấn, trong sự nghiệp văn học của nhà văn đó, thường thấy nói đến Sáu Kho, Hạ Lý những  xóm nghèo ở Hải Phòng, nhưng sự thật tình yêu của nhà văn này với Hà Nội cũng rất nồng nhiệt, và đã được kể lại một phần qua các hồi ký.

Nhà văn đó là Nguyên Hồng.

Khi còn đang tuổi thiếu niên đã có lần cậu bé Nguyên Hồng 13-14 gì đó, từ bỏ gia đình ở Nam Định, một mình lên Hà Nội. Lúc đó, gia đình cậu gặp khó khăn, bố chết, mẹ đi lang bạt kiếm ăn đâu tận Thanh Hoá. Là học sinh lớp nhì, có dạo cậu có thể kiếm ra tiền bằng cách viết thư hộ những người hàng xóm có người thân đi lính sang Tây, hoặc đi cao su, đi phu Tân Đảo, song vẫn không đủ ăn. Nhân nghe có người anh làm chân chữa bản in ở nhà in Viễn Đông, cậu mò lên, để nhờ anh xem có xin được việc gì không. Nhưng “nhảy dù” “ăn vạ” ở nhà người anh một ít lâu, cậu hiểu ngay ở đây không sao kiếm ra việc, và những ý định sẽ bám vào đây để sống, mua mía, mua bưởi bán rong lần hồi, hoặc đi theo một gánh xiếc nào đó, như kiếp sống của nhân vật chính trong Không gia đình rút cuộc, ý định đó cũng là một cái gì hão huyền: cậu lại phải ra tàu thuỷ trở về Nam Định phiêu bạt đi các nơi khác.

Đúng là Hà Nội đã từ chối cậu bé. Nhưng không phải vì thế mà Nguyên Hồng cảm thấy có thể xa nổi cái thành phố tuyệt vời này, vì ở đó còn có sách vở, báo chí, những gì thuộc về văn học sẽ gắn với cả đời mình. Có lần bị tù rồi được tha, trên đường từ Phúc Yên về quê, chỉ ghé qua Hà Nội mà Nguyên Hồng đã như mê đi, bước chân đưa đẩy qua không biết bao nhiêu nơi, hồ Hoàn Kiếm, Hàng Đào, Hàng Buồm, nhà ga, Gô-đa, Tràng Tiền… Cái mà người thanh niên này mê nhất là sách. Nói theo ngôn ngữ của nhà văn Nguyên Hồng về sau phải nói, đó là những cuốn sách thiêng liêng, toả sáng.

Về với Nam Định, rồi Nguyên Hồng cùng gia đình ra Hải Phòng, từ đó, bắt đầu vừa dạy tư, vừa gửi bài vở lên các báo ở Hà Nội.

Năm 1939, một sự việc làm chấn động tâm tư người thanh niên mười chín tuổi: Ông chủ nhiệm Tiểu thuyết thứ bảy kiêm chủ nhà xuất bản Tân Dân gửi thư cho nhà văn trẻ, báo rằng từ nay sẽ coi Nguyên Hồng là cộng tác viên chính thức, có trả tiền cẩn thận (trước đó nhà xuất bản chỉ in cho là may, chứ đâu đã có nhuận bút!) Nguyên Hồng lại như mê man đi với bức thư ấy. ý nghĩ phiêu diêu đủ thứ, nhưng cuối cùng, đọng lại trong một dự định: phải lên Hà Nội học thêm và trở thành một người viết cho đàng hoàng.

Gia đình lo lắng, sợ lên đấy, nhà văn trẻ sẽ đua đòi, hư hỏng đi, trong khi đó cứ ở Hải Phòng, vừa dạy tư, vừa viết thế này đã sống được rồi.

Nhưng Nguyên Hồng không chịu. “Ôi, Hà Nội, kinh đô ngàn năm văn vật! Tôi sẽ lên sống ở đấy đem cả tuổi xuân của mình chọi lại với cái quyến rũ, thách thức, lừa lọc”.

Và Nguyên Hồng xách một hòm gỗ ra ga lên Hà Nội thật. ở nhờ vào một ngôi đền, gần chợ Châu Long; và ăn, thì ăn ở các hàng cơm của phu phen, thuyền thợ.

Lần ấy, Nguyên Hồng chỉ ở Hà Nội mấy tháng, rồi nhớ Hải Phòng, ông lại trở về thành phố cảng. Nhưng ông đã thành người của cái nghề này rồi, nghề viết văn. Chẳng những thế, trong giới những người viết văn, ông lại sớm hiểu mình phải dùng ngòi bút để phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng quần chúng cần lao mà ông đã tự nguyện gắn bó.

Và thế là ông vẫn sẽ thường xuyên có mặt ở Hà Nội để liên hệ với những báo chí tiến bộ như Thời trẻ, Bạn dân, để làm quen với các đồng chí như Tô Hoài, Như Phong, và để dự những cuộc đấu tranh lớn như cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5 năm 1938, hoặc các hoạt động của Văn hoá Cứu Quốc.

Từ đây, cái nhìn của Nguyên Hồng về Hà Nội rất rạch ròi. Ông xa lạ một thứ kinh thành hoa lệ của bọn nhà giàu. Nhưng ông càng thêm yêu một Hà Nội khác, Hà Nội tranh đấu. Hà Nội đầy sức sống.

“Chiều hôm ấy (chiều 1-5-1938 – V.T.N. chú) dịu nắng thì có gió. Trời mây và các mặt nước Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, các đường cây, các tầng khối kiến trúc, các ống khói, các nhịp cầu, các bờ bãi sông Hồng cùng với phù sa chảy lư lừ đang đợi các lũ nguồn chưa bao giờ lại đẹp, rực rỡ trong nắng chiều và gió thổi lộng như bây giờ. Các đường phố Hà Nội như đang có một thứ máu mới dạt dào vậy”.

Về sau, cũng có một dạo, Nguyên Hồng cùng gia đình ở hẳn Thủ đô. Đấy là năm 1943, khi Hải Phòng bị ném bom gia đình ông chạy về Hưng Yên một hai tháng, thì lên Hà Nội, lần này, ông thuê nhà ở bãi Nghĩa Dũng. Nhà ở chật chội, đâu có một gian nhà tranh hai chục mét vuông thì nhà chủ đã kê chiếc khung cửi mất một nửa, còn một nửa mới cho thuê. Vậy mà Nguyên Hồng rất vui. Chung quanh ông vẫn là một Hà Nội lầm than, Hà Nội của người nghèo. Và dù đây là cuộc sống Thủ đô, nhưng vẫn rất gần thiên nhiên. Nhà cửa trống trải, nắng gió bao giờ cũng sẵn. Lại gần sông nước, tha hồ ra đấy mà giặt dũ, đến nước để ăn cũng không phải nước máy, mà là nước sông gánh về đổ đầy vại rồi đánh phèn. Thì ra, không phải ngẫu nhiên mà các nhà thơ trẻ những năm 70, 80, sau này còn ca ngợi Hà Nội với hương cốm vòng với những gánh rạ đi vào thành phố. Từ ba bốn chục năm trước, đấy đã là nguồn cảm hứng chi phối Nguyên Hồng và nhiều nhà văn khác.

  • Cố nhiên, bên cạnh những giờ phút say sưa với thiên nhiên, thì cái đập vào đầu óc Nguyên Hồng ngày ấy vẫn là một Hà Nội nhếch nhác, đau khổ, và khi bị ném bom, khi nạn đói đổ tới, thì càng thảm hại hơn. Ngòi bút Nguyên Hồng lại có dịp cực tả, từ những đống người đắp chiếu bên đường, đến cả thành phố ốm o, bệnh tật trông nhiều nhà như bỏ hoang hay có người điên bị giam giữ, người ốm yếu bại liệt đang hấp hối”. Nhiều trang của Nguyên Hồng (trong Địa ngục, Lò lửa, và các tập hồi ký) gợi chúng ta nhớ tới những bức ảnh chụp sọ người chết đói chồng thành đống lớn của Võ An Ninh. Cả hai đều là những chứng tích có ý nghĩa lịch sử.
  • Sau hoà bình lập lại (1964), gia đình Nguyên Hồng vẫn ở trên ấp Sậu – một vùng quê Hà Bắc, nhưng ông vẫn đi về công tác ở Hội Nhà văn, với các anh em khác. Những lúc rỗi rãi, ông lại cùng với Kim Lân, Tô Hoài đi dạo phố, nhất là lên mạn chợ Bắc Qua, nơi người các tỉnh mang hàng về sôi nổi, tập nập. Nguyên Hồng cảm thấy đấy là một Hà Nội đầy sức sống, khiến niềm say mê của ông không bao giờ dứt, và ông có thể hoà mình vào đó thật thoải mái.
  • Trần Huyền Trân – Thâm Tâm – Nguyễn Bính
  • Tuy đã từng viết nhiều về những cảnh sống cùng cực về các tầng lớp dân nghèo Hà Nội, một Hà Nội lầm than đau khổ, nhưng nhiều nhà văn trước cách mạng thật ra chúng chưa đến nỗi nào lắm. Họ thường là dân làm báo hoặc dạy tiểu học, sống không sung túc, thì cũng tạm đủ ăn. Đôi khi họ phải cúi xuống, mới thông cảm được với các tầng lớp mà xã hội lúc đó gọi là hạ lưu. Thậm chí có trường hợp như người ta đồn đại về Tam Lang: để viết Tôi kéo xe đâu nhà báo này đã phải làm giả phu xe, cũng đi thuê xe để hành nghề, từ bỏ những món thỏ nấu với rượu vang quen thuộc để ăn những bữa cơm hẩm chan xáo lòng bò như mọi phu xe, khiến cho nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, phải nghi ngờ “Người ta bảo cái đầu đề Tôi kéo xe là sai, vì cái thân thể tác giả mà nhiều người đã biết, tác giả không thể nào cầm hai càng xe được”.
  • Nhưng ngay trong lòng Hà Nội, thường cũng có một lớp người viết sống rất nghèo khó, như dân thất nghiệp, họ lam lũ làm văn làm báo như người khác cày thuê cuốc mướn. Báo của họ bán không chạy, sách in ra không gây được tiếng vang gì lớn. Nhưng họ vẫn gắn bó với nghề, với Hà Nội, và vừa sống vừa viết một cách thanh thản.
  • Lớp nhà văn vô sản này đại khái như Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Nam Cao, Tô Hoài.
  • Trong một bài phát biểu, nhân dịp 40 năm Đề cương văn hoá, nhà thơ Trần Huyền Trân kể:
  • – Ngày ấy tôi thường đi dạy tư và làm báo, viết truyện để sống, để có tiền đỡ thêm cho mẹ tôi nuôi các em tôi còn nhỏ vì cha tôi đã mất từ hồi tôi chín tuổi.
  • Vì quá chật chội trong túp lều vó dựng trên một ao bèo đầy nước cống mà người ta gọi là đầm Liên Hoa cạnh làng Văn Chương ở phía sau miệng Cống Trắng giữa dãy phố Khâm Thiên, túp lều mà ông dượng  – người chồng sau của mẹ tôi – dựng lên để ngày đêm kéo vó kiếm ăn, tôi với Thâm Tâm bèn thuê một căn gác nhỏ trong ngõ Sơn Nam cạnh đầm để ở. Sau này có thêm Nguyễn Bính ghé tạm cùng nương náu với chúng tôi trong thiếu thốn lần hồi.
  • Như vậy, đây đúng là một người gốc gác Hà Nội, và làm thơ, viết văn để diễn tả cái vang động của Hà Nội trong lòng mình, bắt rễ vào Hà Nội, điều đó ở ông đã trở thành thân phận, thành kỷ niệm riêng.
  • Bóng đơn đi giữa kinh thành
  • Nhìn duyên thiên hạ nghe tình người ta.
  • Trần Huyền Trân là người của thân phận bọt bèo, là người sống giữa Hà Nội (trước cách mạng) mà không thấy đây là Hà Nội của mình và thái độ trong thơ bao giờ cũng là thái độ không chấp nhận đời sống. Nhà thơ đứng đối lập với thế giới phù hoa chung quanh. Thỉnh thoảng, trong đám phù hoa ấy cũng có những bà, những cô ngó ngàng một chút tới thân phận nhà thơ, nhưng Trần Huyền Trân đã phản ứng đến cùng (bài Hỏi bà, với những câu kiểu như: Hay gì bà hỏi đến tôi – Khóc thì trái thói mà cười vô duyên.v.v…) Thơ Trần Huyền Trân vì thế xót xa, phẫn nộ, đau đớn, đơn độc một cách đầy khí phách.
  • Như các tài liệu lịch sử văn học (chẳng hạn, các tác giả viết Từ điển văn học, 1984) đã chỉ rõ Nguyên Hồng làm thơ sớm, từ khi mới có phong trào thơ mới. Bản thân ông lại có quan hệ riêng với Tản Đà, từng có bài thơ kể chuyện uống rượu và tâm sự với tác giả Khối tình con. Vậy mà, những thơ truyện in trên Tiểu thuyết thứ bảy không mấy khi được nhắc nhở hình như giới văn học chính thức ở Hà Nội, trước cách mạng vẫn chưa chính thức công nhận thơ Nguyên Hồng (đến nay 1985 tập thơ riêng của ông mới được xuất bản!). Song càng như thế, thơ Nguyên Hồng càng có khí phách. Đó là những bằng chứng về một khía cạnh khác của Hà Nội, Hà Nội lầm than nhưng cứng cỏi, nghèo túng nhưng vẫn hào phóng và giữ được nhân cách, tóm lại là một Hà Nội mà bọn giàu có trọc phú, thậm chí những kẻ nông nổi, tầm thường không dễ chấp nhận.
  • Hai người cùng thân phận với Nguyên Hồng lúc ấy là Thâm Tâm và Nguyễn Bính.
  • Thâm Tâm quê Hải Dương theo gia đình lên thủ đô từ nhỏ, học tiểu học cũng ở Hà Nội. Còn Nguyễn Bính mới từ Nam Định, Hà Đông lang bạt lên sau. Nhưng dù lên với Thủ đô sớm hay muộn, thì họ đều khổ. Giữa lòng kinh thành gió bụi, cuộc sống của họ nhiều khi rất bấp bênh và chỉ bởi lẽ thế nào cũng sống không tủi với cái nghèo, lại biết nương tựa vào nhau nên mới sống được.
  • Về đời riêng của Thâm Tâm, ngày nay chúng ta còn biết rất ít. Theo sự ghi nhớ của một ký giả đương thời, thì ông là người “đa bất mãn hoài”. Ông sống rất nghèo, hay phải đi vay tiền trước những chủ báo, chủ xuất bản mà ông viết thuê, để rồi không được thì rất ngượng, rất đau, và càng sinh phẫn.
  • Trong sáng tác, giữa Trần Huyền Trân và Thâm Tâm có những nét chung. Mặc dù không làm nhiều thơ, Tâm Tâm vẫn tạo được một ấn tượng sâu đậm “gấp” “gắt” (chữ của Hoài Thanh. Thi nhân Việt Nam trong bài Vọng nhân hành. Bài thơ nói tâm trạng chí khí của lớp người đầy phẫn uất, như Thâm Tâm, Trần Huyền Trân và bạn bè cùng nhóm. Họ “từ tứ chiếng” họp lại. Họ hiểu rằng những lời thơ thống thiết của mình có thể có ích cho xã hội “Rằng đương gió bụi thì tôi tả – Thiên hạ phải dùng thơ chúng ta” Nhưng thời thế đâu đã tới với họ.
  • Thơ ngâm dở giọng thời chưa thuận
  • Tan tiệc quân anh, người nuốt giận
  • Chim nhạn chim hồng rét mướt bay
  • Vuốt cọp chân voi còn lận đận
  • Toàn bộ những dằn vặt, những đau đớn này – gắn chặt với Hà Nội. Mở đầu bài thơ đã có nhắc: “Thăng Long đất lớn chí tung hoành – Bàng bạc gương hồ ánh mắt xanh”. ở một đoạn sau, lại láy lại: “ Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch – Ta ghét hoài câu nhất khứ hề” Sau hết, hai câu gần cuối cũng rất có không khí.
  • Ngoài phố mưa bay, xuân bốc rượu
  • Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê
  • Thơ Đường cũ có bài Xuân phân, cũng nói tới rượu ở một Hạnh hoa thôn  nào đó (Tá vẫn tửu gia hà xứ hữu. Mục đồng dao chỉ Hạnh hoa thôn), nhưng trong đó, rượu làm cho người ta say đi. ở Thâm Tâm, hình như thi nhân càng uống càng tỉnh. Chỗ cay đắng tỉnh táo ở đây, có lẽ là do không khí phố xá thành thị chăng? Nếu đúng như thế, thì thành thị (Hà Nội) trong thơ Thâm Tâm đã trở thành một yếu tố mới mẻ, và đáng ghi nhận.
  • Cũng không phải ngẫu nhiên mà về sau, Thâm Tâm bước vào hàng ngũ các chiến sĩ Vệ quốc, làm báo rất chăm chỉ và hết lòng, viết từng mục nhỏ, không bao giờ quản ngại.
  • Cùng nhóm với Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, những năm trước cách mạng, song Nguyễn Bính lại có nét khác. Thơ Nguyễn Bính không có cái phẫn, mà hồn nhiên dễ dàng hơn nhiều.
  • Nhà em ở cuối kinh thành
  • Bên hồ Trúc Bạch nước xanh men chàm
  • Đấy là mấy câu trong bài Gửi chị Trúc, những câu tự nhiên như lời buột ra đầu miệng, nhằm kể với người thân về tỉnh cảm sống của tác giả lúc ở Hà Nội. Đúng là cảnh sống của những thanh niên nghèo giữa kinh thành hoa lệ. Tuy vậy, “Chàng trai tầm thường trông lại quê quê” nay không lấy thế làm xấu hổ.
  • Nguyễn Bính không phải loại người học đòi, cũng không dễ có những mặc cảm như một số người khác ông vẫn giữ nếp sống như hồi ở các tỉnh nhỏ, ở làng quê. Nghĩa là chỉ biết những say mê của mình, những ý thích của mình, còn không ngượng nghịu về cái nghèo, cái hèn bao giờ. Hà Nội trong ông không gây ra một ngạc nhiên chấn động gì đáng kể, mà chỉ là nơi ông sống, làm việc, yêu đương như các nơi khác.
  • Cái nhìn của ông đối với Hà Nội nhiều khi thật thản nhiên, như câu thơ nọ.
  • Sáng nay sau một cơn mưa lớn
  • Hà Nội bừng lên dưới nắng vàng
  • Trong sáng tác cũng vậy, Nguyễn Bính cứ “hát những bài hát của mình” về chất thơ, trong khi Trần Huyền Trân “thật hạt” Hà Nội thì Nguyễn Bính rõ ra của chân quê: giống như chàng Exênhin, ông cũng lạc lên thành phố, song tâm hồn vẫn để ở cả mái đình, giếng nước, cái yếm lụa sồi và chỉ diễn tả cái đó mới hay.
  • Thơ Nguyễn Bính đương thời đã khá được ưa chuộng,  theo Tô Hoài nhớ, thì đây là nhà thơ duy nhất sống được bằng nhuận bút (cố nhiên là chỉ sống nghèo); không phải vì thế mà Nguyễn Bính thành thị hoá. Nhà thơ chỉ lang thang ở đây, như có lúc, sẽ lang thang lên Phủ Lạng Thương, Bắc Giang và sau này lăn lóc với tận các tỉnh phía nam.
  • Bấy giờ, Hà Nội trong Nguyễn Bính chỉ còn mờ mờ ảo ảo, không rõ rệt. Đây là những câu thơ trong bài Một con sông lạnh:
  • Chưa say, em đã say gì
  • Chúng tôi còn uống còn nghe em đàn
  • Rưng rưng ánh nến hoa vàng
  • Đôi dây nức nở muôn ngàn nhớ thương
  • Đôi dây như thế đôi đường
  • Em ơi! Hà Nội là phương hướng nào
  • (trong tập Hương cố nhân)
  • Những năm gần cách mạng, trong cơn say phiêu lưu, Nguyễn Bính vào Huế, rồi vào Nam bộ, đi đến đâu cũng giữ hồn thơ chân quê và cách sống không mặc cảm của mình. Sau khi tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, tập kết ra Bắc, trở lại Hà Nội, cũng không có chút đảo lộn gì lắm trong cách nhìn, cách viết, tuy bây giờ bạn bè của ông có đông hơn, không khí văn nghệ sôi nổi, khác hẳn trước kia. Cuối cùng, Nguyễn Bính từ giã Hà Nội cũng giản dị. Ông về Nam Định công tác, chỉ thỉnh thoảng mới lên Hà Nội có việc họp hành, sinh hoạt gì đấy. Trở lại quê hương ở ngoại thành Nam Định, ông có một nếp nhà ấm cúng. Sau thời gian “dan díu với kinh thành”, nay chàng Exênhin mới lại trở về với cái phần cội nguồn, chân chính của thơ mình !

Nam Cao

  • Cũng tương tự như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, nhà văn Nam Cao vốn không phải gốc Hà Nội. Ông lại lên thủ đô hơi muộn, khi đã có vợ con gia đình, và lên để dạy học, để kiếm sống, chứ không có điều kiện để “rong chơi” như những người viết văn khác. Vợ con Nam Cao vẫn ở nhà quê, ông phải xuống tàu thuỷ về quê luôn. Lại nữa, vùng đất mà ông thông thạo cũng không thật tiêu biểu cho Hà Nội. Từ Thuỵ Chương lên Bưởi không phải phố xá sầm uất, không phải những đại lộ lớn nơi ở của những con người sang rọng, giàu có. Đây là khu vực của những người thợ Ô-mềm (nay là nhà máy bia Hà Nội), Nhà đá, La-pho (nay là Sở trồng hoa và ươm cây), Sở xe điện… là khu vực của dân xôi lúa, khoai ngô luộc gánh xuống bán dưới phố xá.
  • Trước 1945, từ quãng Bách Thảo trở lên, người ta vẫn tính là ngoại ô. Không phải ngẫu nhiên, cái vùng Hà Nội mà nhân vật Thứ trong Sống mòn cư ngụ thường được miêu tả với những chi tiết gợi nhớ cảnh sống một thị xã, một huyện lị nào đó. Nếu bảo đó là Hà Nội thì đấy là một Hà Nội lầm lụi, xiêu vẹo, nơi rất nhiều nhà lá, và có khi cả phố mới có một cái máy nước lúc nào cũng chen chúc người xếp hàng. Đèn điện chưa có, dù đèn ở ngoài đường. Cuộc sống tối tăm, tẻ nhạt.
  • Thế nhưng, xét về những ảnh hưởng của đô thị trong tác phẩm của Nam Cao, lại thấy một sự thực ngược lại là Nam Cao rất hiểu Hà Nội, Nam Cao có “đôi mắt” của người dân thành phố trong việc xem xét mọi chuyện.
  • Khi cần phải miêu tả những người dân ngoại ô, như trong Chuyện người hàng xóm, Nam Cao cho ta thấy một sự thực: Một mặt, họ sống rất cơ cực, quẩn quanh, vớ vẩn, người nọ làm khổ người kia: con đường đi tới của những Tiền, Hiền, Lộc…là con đường rơi vào truỵ lạc, bế tắc, một ít nhân từ tốt bụng giữa họ với nhau, không đủ mang lại cho họ hạnh phúc. Mặt khác, họ vẫn rất yêu vùng đất ngụ cư mà số phận đã đưa họ trôi dạt đến. Lên đây, lên Hà Nội, dẫu sao họ cũng đỡ khổ hơn so với ở nhà quê, nơi người nông dân sống trong tăm tối, bọn địa chủ và các loại hào lý tha hồ hoành hành, nơi dân cùng đinh không sao mở mắt ra nổi.
  • ở Sống mòn, mỗi khi đề cập tới các tầng lớp dân nghèo thành thị, tác giả cũng trình bày quan niệm tương tự. Một ví dụ tiêu biểu là trường hợp anh chàng  Mô, lao công ở cái trường học có Thứ dạy, lấy Hà, một người nghèo khác. Cả Mô và Hà đều hiểu rất rõ ở nhà quê, họ không đào đâu ra tiền để cưới nhau, mà giá có đi vay, thì cũng nặng nợ suốt đời. Chỉ ở cái đất không ai biết họ này, họ mới về với nhau một cách êm thấm. Một nhân vật sang trọng hơn Mô rất nhiều là hiệu trưởng Đích, người đứng ra mở trường tư để sống trên lưng San và Thứ, còn bản thân Đích đi làm công chức ở tỉnh xa; đến cuối Sống mòn, đột nhiên Đích ốm thập tử nhất sinh. Vậy mà Đích vẫn “Tuyên bố” thà chết ở Hà Nội, hơn là về quê. Thì ra, Hà Nội mang lại cho họ một chút tự do mà họ thèm khát, tự do cả trong lúc sống, lẫn trong lúc chết.
  • Chúng ta đều biết, một số nhà văn lãng mạn, nhất là cánh Tự lực văn đoàn, thường lý tưởng hoá khung cảnh đồng ruộng, thích miêu tả cây đa bến nước, hội làng với những cô gái mắt bồ câu duyên dáng…
  • Nam Cao không thế. Tuy phải đến sau cách mạng, Nam Cao mới hiểu rõ sức mạnh người nông dân, nhưng ngay ở trước 1945, Nam Cao đã diễn tả họ với những đường nét khoẻ, sắc, như Lão Hạc, Chí Phèo, và nhiều người khác. Có điều, Nam Cao không bao giờ quên chỉ rõ những lạc hậu của nông thôn và sẵn sàng cùng với các nhân vật của mình mơ ước một cuộc sống thoải mái hơn.
  • Thử nhớ lại những khía cạnh riêng trong cuộc đời Nam Cao để hiểu thêm vai trò của Hà Nội đối với quá trình sáng tác của ông.
  • Theo những tài liệu đáng tin cậy, thì ông sinh năm 1915 và sau khi học xong thành chung, còn vào Sài Gòn làm ăn một thời, định kiếm một học bổng để đi Pháp cho đến khi đau ốm, mới lại phải quay trở về Bắc, vừa dạy học, vừa viết. Vậy có thể đoán là thời kỳ mà Nam Cao sống kỹ với Hà Nội một chút phải là khoảng 1938-40 trở đi (kỹ nghĩa là không phải chỉ ghé qua, mà có đi về luôn luôn). Nhưng sáng tác ban đầu của ông lại là thơ một thứ thơ mang mầu sắc lãng mạn cuối mùa, như những câu mà một nhà nghiên cứu đã cho công bố trong cuốn chuyên khảo về Nam Cao in 1961.
  • Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh
  • Vương vấn theo ai bốn góc trời
  • Rồi để một chiều theo gió thổi
  • Bay lên thành những mảng mây trôi
  • Vậy là quá trình tư tưởng của Nam Cao là quá trình chuyển từ một thứ thơ mơ tưởng hão huyền, sang văn xuôi sắc lạnh nhìn thẳng vào cái phức tạp trăm vẻ của đời sống. Quá trình này xảy ra đồng thời với quá trình ông “vào sâu” Hà Nội, hiểu Hà Nội (cố nhiên là có cộng thêm với cả quá trình ở phiêu lưu tư tưởng từ khi học xong trung học trở đi). Từ quê lên nơi dạy học rồi lại từ đấy về quê, những cảnh ngộ bất chợt gặp trên đường, những lần theo bạn bè ghé qua các tiệm cô đầu, những ngả trở lại với gia đình nghèo khổ, những tác phẩm nước ngoài mới bán ở Hà Nội, những số báo Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san, có bài của mình và của bạn bè… bao nhiêu là ấn tượng dồn nén dần dần, rút cục đã tạo nên một Nam Cao hết sức kỳ lạ. Một mặt, ông vẫn “quê một cục”. Một ký giả đương thời kể là đi ăn với Nam Cao thấy lạ vì một người như tác giả Chí Phèo mà không biết món vây là gì, và hỏi cơm rang đã có tạp xường và trứng rồi thì cần gì phải gọi thêm vây, thịt bò cho thêm tốn.
  • Nhưng mặt khác, đọc hồi ký về Nam Cao, hoặc theo dõi những truyện Nam Cao viết trong đó, ông đội tên là những Điền, Hộ, Thứ, thấy ông ít nhiều đều đủ những ham muốn như một người. Không làm việc xấu nhưng cái gì cũng nghĩ cả, không xa lạ với cái gì hết. Và càng ngày, cái nhìn của Nam Cao càng trở nên sắc hơn, sắc nhọn trong việc phân tích mình, phân tích hoàn cảnh.
  • Trong Sống mòn, Nam Cao có nhắc tới một trạng thái tâm lý trở đi trở lại trong Thứ: Nhiều khi, do khó chịu với những người xung quanh, và cảm thấy mình bị lợi dụng quá đáng. Thứ ra bỏ trường, bỏ Hà Nội để về quê những tưởng có thể tìm thấy ở đấy nhiều thú vị. Nhưng Thứ đã nhầm! Những mè nheo cạnh khoé của những người thân lại làm rơi bao nhiêu nước mắt của Thứ, khiến không ít lần. Thứ phải xách va-li ra đi sớm hơn đã định.
  • Theo một số bạn bè và người quen cho biết, Nam Cao thường chỉ viết được về những gì có thực trong đời mình, và ở quanh mình (Người ta nói rằng chỉ có một nhân vật được nhà văn kiên trì “bịa” là người vợ. Bà vợ Nam Cao rất hiền, còn trong tác phẩm của nhà văn, người đàn bà thường lại là những nhân vật lắm điều, lắm nhời, hay chì chiết chồng con, v.v…)
  • Vậy có thể tin rằng cái tình tự nói trên của Thứ, cũng là chuyện xảy ra với chính Nam Cao. Một nhân cách trí thức đã được hình thành, hay do dự, hay hoài nghi “Cái gì đang có cũng chán, cái gì không có cũng thèm” (chữ của Tô Hoài) – Nam Cao 1944-45 không còn là cậu học trò tỉnh lẻ khờ khạo ngây thơ nữa.
  • Về mặt nghề nghiệp mà xét, có thể thấy Hà Nội là nơi Nam Cao lao vào nghề văn một cách hết lòng, nhiều khi ông đã vượt qua cả nhữn thói quen cố hữu của ông nữa. Chẳng hạn, tuy rụt rè thế, nhưng khi gặp một nhà giàu hào phóng, đọc những Đôi lứa xứng đôi, Dì Hảo, Lão Hạc, đoán người viết ra những truyện đó hẳn… kháu lắm, cho mời Nam Cao xuống Khâm Thiên để “nói chuyện văn chương cho thoả lòng”, Nam Cao cũng đã rủ Tô Hoài đi, tuy là sau đó, hai người rút lui rất nhanh, vì cảm thấy quá lạc lõng (việc này Tô Hoài cũng đã kể lại trong Tự truyện).
  • Lại đây nữa, trường hợp xảy ra với nhân vật Hộ trong Đời thừa: ở toà báo ra đang mải miết cuốc bộ về nhà đưa tiền cho vợ để còn trả nợ, lấy thuốc cho con, thế mà chỉ nghe đến một quyển sách của người bạn được dịch ra tiếng Anh, thế là Hộ đã quên tất cả mọi chuyện, sẵn sàng rủ mọi người đi uống rượu để moi thêm tin, đúng hơn để có dịp nói cho sướng miệng: nói rằng quyển sách kia đâu đã phải là kiệt tác, mình đây, mình mới có khả năng viết ra những quyển sách có giá trị thực sự, v.v… Ai đã là người viết, hẳn rất dễ thông cảm những phút bốc đồng như thế này! Chính bởi vậy, chúng ta dự đoán dù điều ấy không có thực với chính Nam Cao đi nữa, thì cũng đã đến với nhà văn trong ý nghĩ.
  • Với Hà Nội, Nam Cao đã sống trọn mọi vui buồn của một người viết. Cùng với Hà Nội, Nam Cao không bao giờ dừng lại ở những thành công tầm thường mà bao giờ cũng xác định cho mình những lý tưởng nghề nghiệp cao cả. Như cái ý nghĩ của nhân vật Hộ trong Đời thừa về một tác phẩm có giá trị “Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”.
  • Nam Cao thật đã hội đủ những điều kiện để trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ 1930-1945.

Tô Hoài

  • Không kể thời gian kháng chiến chống Pháp và không kể những đợt đi công tác ngắn ngày, thì từ nhỏ đến giờ, Tô Hoài luôn luôn sống ở Thủ đô. Tính đến đầu 1985, ông từng viết 43 cuốn sách về Hà Nội. Ngoài sáng tác văn học, có lúc ông còn trực tiếp làm công tác đường phố. Hiện Tô Hoài đang là chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội.
  • Những chi tiết ấy nhiều người đã biết, cũng như phần lớn chúng ta đã biết hai chữ Tô Hoài là do Tô Lịch và Hoài Đức ghép lại. Một người như Tô Hoài mà có viết nhiều về Hà Nội là chuyện đương nhiên! Giữa Thủ đô và một đời như đời văn của Tô Hoài, quả là có một mối quan hệ đặc biệt.
  • Tô Hoài hay kể: ông đến với nghề văn một cách rất giản dị, và bước đầu vào nghề, không thấy có gì mới lạ hơn, so với những nghề khác, như nghề bán giày ở một đại lý cho hãng Bata hay nghề dạy trẻ học mà bạn bè ông thường làm. Đại khái một lần, đi phủ hộ đê, thấy cảnh canh đê, “trống giục trống dồn”, “người lớn và trẻ con rúc ráy bên vệ cỏ” Tô Hoài liền viết truyện Nước lên gửi đăng ở Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan.
  • Nếu có thể nói vào nghề, có nghĩa là viết truyện in ra được trả tiền cẩn thận thì Tô Hoài vào nghề bằng truyện ấy. Có điều, khi đến với nó, ông vẫn có được sự bình thản, không cuống lên vì hoang tưởng, không quá choáng ngợp.
  • ở đây, có những lý do thuộc về cá tính riêng của Tô Hoài. Nhưng một phần quan trọng khác cũng là  do hoàn cảnh. Ông lớn lên và đi học ở quê ngoại vùng Nghĩa Đô. Từ nhỏ, không những đã quen với Kiều, ca dao, mà còn quen với Tứ dân văn uyển, Văn đàn bảo giám, và các loại truyện dịch Chinh đông Chinh tây, Tam hạ nam đường… Dù là gia đình chỉ làm nghề thủ công, nhưng bước vào tuổi thanh niên, Tô Hoài cảm thấy không có gì xa lạ với mọi tờ báo ở Hà Nội, và Sài Gòn lúc ấy: Nước non, Cậu ấm, Mới, Tiểu thuyết thứ năm, Tiểu thuyết thứ bảy.
  • Mới hai mươi mốt tuổi, ông đã viết câu chuyện nổi tiếng về chú Dế Mèn, trong đó cảnh bờ sông Tô Lịch với những vườn nhãn, ao chuôm, con gà ri, đôi chuột bạch… là những khung cảnh gần với ông  ở làng Nghĩa Đô của ông. Cả tư tưởng của một chàng thanh niên mới lớn lên, thích sống độc lập lại cũng thích phiêu lưu như ông diễn tả trong Dế mèn… đều là tư tưởng bao trùm trong nhiều thanh niên thời kỳ 1940-41.
  • Tô Hoài lại sớm viết hồi ký. Trong tập Cỏ dại in ra từ 1944, ông lấy chuyện gia đình, họ hàng mình để kể. Gần đây (1978). Tô Hoài có tập Tự truyện, kể lại những bước đường tư tưởng của mình khi mới đến với nghề văn.
  • óc quan sát tinh tế và tỉ mỉ đã giúp cho Tô Hoài nhớ và ghi được nhiều chi tiết về cuộc sống ở Hà Nội. Ông đính chính hộ nhiều người những cái nhầm lẫn, vì như nhiều người cứ nghĩ chung quanh Hồ Gươm: nhiều liễu, hoá ra bây giờ còn mỗi một cây, v.v. Ông lại giúp cho chúng ta tự tìm hiểu thêm về những địa điểm trong sinh hoạt thành phố (chẳng hạn, tại sao gọi là Vườn hoa canh nông?). Rồi, nguồn gốc  nem cuốn ở đâu? Nghề làm giấy ở Bưởi đòi hỏi người thợ thủ công trước đây phải khéo léo, vất vả thế nào?
  • Xét về thời gian lịch sử, ta thấy Hà Nội đã được Tô Hoài theo dõi liên tục, từ khi Pháp mới sang (Quê nhà) cho tới những năm ba mươi, bốn mươi và kết thúc bằng Cách mạng tháng Tám (Mười năm). Đó là phần ngoại thành, vùng Nghĩa Đô, Bưởi và quá lên vùng Cầu Giấy, Từ Liêm, Hoài Đức, Tô Hoài rất quen.
  • Về nội thành, những xóm rác ven hồ Bảy Mẫu cũ, đầu hoà bình lập lại được ông phác qua trong Những ngõ phố và một số nét sinh hoạt Hà Nội hồi đánh B52 được ông vẽ nên trong Người đường phố (cả hai tiểu thuyết đều được in ra 1980)
  • Viết về ngoại thành, ngòi bút ông lui tới một cách thoải mái đã đành. Ngay viết về nội thành, Tô Hoài vẫn rất ung dung. Ông không hay tả Hà Nội nhà cao cửa rộng. Trước cách mạng, khu nội thành được ông miêu tả như một nơi không thiếu gì chuyện nhảm nhí, nơi có nhiều nhân vật rất kỳ cục, nào me tây, nào nặc nô hiệu cầm đồ, đủ thứ. Từ 1954 đến nay, bà con hàng phố sống với nhau gần gũi, đầm ấm như người trong một gia đình. Thành phố nhấp nhô những dãy nhà một tầng thấp, bên trong mỗi nhà xanh lên những giàn hoa lý, cây cảnh, cây, cây hoa mộc trong chậu.
  • Thành phố với những mái lợp phi-brô xi măng trắng, hay những miếng giấy dầu đen nhoáng, cạnh cửa sổ vải hoa treo dò phong lan tai trâu xanh dày… Đấy là Tô Hoài trực tiếp tả. Một đoạn khác (trong Người đường phố) ông còn để cho một nhân vật nói thẳng:
  • – Kẻ chợ mà đủ phố Hàng Bừa, Hàng Bún, Hàng Mụn, Lò Rèn… tức là cái gốc nhà quê rõ rồi.
  • Cái gốc nhà quê này của Hà Nội không làm cho nhân vật khó chịu. Trái lại, họ nói thế, dễ dàng thấy gần với Hà Nội hơn, cái Hà Nội là của mình, và cùng với tác giả, tìm ra vẻ đẹp của phố xá.
  • Nhân vật chính trong bút ký Nhớ quê của Tô Hoài là một thanh niên Hà Nội đứng vào đội quân Nam tiến, và nghĩ trong lúc này: “Chúng ta còn ở Hà Nội làm gì?”
  • Trong tiểu thuyết Những ngõ phố, người đọc lại bắt gặp một trường hợp khác, một gái nhảy của Hà Nội cũ, nay đi tham gia xây dựng các công trường ở miền Tây Tổ quốc, và nghĩ rằng phải đi xa, cái tình của mình với Hà Nội mới trọn vẹn.
  • Bản thân Tô Hoài cũng vậy. Chúng ta đã nói bao giờ “hộ khẩu chính” của ông cũng là Thủ đô, nhưng từ trước cách mạng ông đã có nhiêu chuyến giang hồ vặt, đi khá xa, tận Huế, Sài Gòn. Bây giờ, ông còn bay đi xa hơn. Ngoài Hà Nội, ông còn một vùng quê nữa để viết là các tỉnh miền núi Tây Bắc, Việt Bắc. Hai cái chất thật đối lập nhau, Hà Nội và núi rừng. Nhưng với Tô Hoài, hai nơi đó đều gần gũi tự nhiên, như đâu cũng là quê ông. Thành thử lại có thể nói về phương diện nữa của chất Hà Nội trong Tô Hoài: Khả năng thích ứng mạnh mẽ. Có cảm tưởng đi đâu ngòi bút ông cũng hoạt động được. Tô Hoài thật đã giống như bao nhiêu người có thời gian ở Hà Nội rồi, thì đi đâu cũng khéo gây dựng cơ nghiệp, sắp xếp nhà cửa, khiến cho cuộc sống mình được nên cơ ngũ, gia đình mình trở thành có nền nếp.
  • Bao nhiêu người Hà Nội, sau những năm kháng chiến ở lại Việt Bắc, hay Nam Định, Thanh Hoá đã sống như thế. Lại bao nhiêu gia đình ngoại thành Hà Nội, đi xây dựng miền núi, những năm sau 1954, đã sống như thế.
  • Chúng ta vừa nói Tô Hoài đến với nghề một cách bình thản. Nhưng sau khi đã có một quan niệm sòng phẳng thế rồi, nghề văn ở Tô Hoài lại được nhìn nhận khá tỉ mỉ. Nói đây là chuyện để cả đời người ta làm, cũng không phải quá đáng. Từ chuyện lẩn mẩn người ta ăn, người ta mặc thế nào, đến chuyện suy nghĩ tư tưởng một thời… đều phải lắng nghe, để mắt tới. Lúc nào cũng lo tích luỹ, nhặt nhạnh. Và viết, viết rất đều tay, không chờ cảm hứng, không viết theo những cơn nóng lạnh bất thần. Chẳng hạn ai đã làm nghề văn đều biết, gọi chung là viết, nhưng công việc rải ra đủ thứ, người chuyên viết ngắn, người chuyên viết dài, người chỉ sáng tác cho người lớn đọc, người thâm canh ở khu vực viết cho thiếu nhi. Thậm chí, nói đến cùng, cũng phải thấy là trong nghề người ta hay có thành kiến: Việc này người mới vào nghề mới đáng làm, người lâu năm trong nghề không nên làm. Việc này dở, việc kia mới sang trọng v.v…
  • Tô Hoài không thế, ông viết đủ thứ, miễn thấy cần làm là làm, không chọn việc. Đấy chính là một đặc điểm của ngòi bút Tô Hoài, nó khiến cho nhiều người nhìn ông phải khâm phục.
  • Nói cho đúng ra, trong cái việc mà chúng ta gọi một cách quy ước là “làm nghề” chăm chỉ, thành thạo, ở Tô Hoài không phải chỉ có sự đều tay, sự chuyên cần, mà còn có cái mau mắn duyên dáng, nó khiến cho ông cả khi viết những tiểu thuyết dài lẫn những bài báo ngắn đều có được cái giọng riêng. Những khi phải tả Hà Nội, Tô Hoài vừa có cái  kỹ lưỡng từ trong nói ra, lại có cái tươi mới như vừa gặp vừa thấy.
  • Sở dĩ như vậy, theo tôi, một phần do trước sau Tô Hoài vẫn giữ được cái hóm, cái nghịch cần thiết cho những “Người ven thành” luôn luôn phải đi lên thành phố để làm đủ các loại việc, rồi ít ngày sau, lại bỏ đấy, bắt sang những công việc khác, mà lúc nào cũng giữ được cái thế của người đứng ngoài, đứng hơi xa một chút, để nhận xét cho thấu đáo, lên thành phố, những người này phải rất hoạt bát để bán được hàng, tìm được việc, mà lại khỏi bị những người hàng phố lừa. Và lên đấy phải nghe ngóng, tích luỹ, phải có nhiều điều tai nghe mắt thấy, để về còn kể cho bà con hàng xóm, hoặc con cháu trong nhà. Bởi vậy, nên cái chân dung thành phố do những con người này vẽ nên bao giờ cũng tươi mới, giàu chi tiết, kích thích sự tò mò của người khác.
  • Trong cuốn Nguời đường phố trên kia đã nhắc (cũng như trong nhiều tập sách khác, trong đó có Chuyện cũ Hà Nội) Tô Hoài kể ra một số vùng ngoại ô  với những nghề nghiệp cha truyền con nối, lên làm ăn ở thành phố. Cổ Nhuế, thợ may, hàng thầu; Thủ Lệ, giặt là; Lai Xá, thợ ảnh; Thanh Nhàn, cắt tóc; Thuỵ Khuê, xôi lúa, quà vặt v.v… và v.v… Quả ngoại ô Hà Nội là một “thế giới” phong phú. Trong “thế giới” đó, cũng có sự phân công lao động rất tỉ mỉ, khiến cho từng người làm nghề trở thành những người nghệ sĩ tài hoa và hết lòng với nghề, được mọi người kính trọng. Từ các làng xóm chung quanh nội thành, người đi viết văn, viết báo xưa nay không phải ít, nếu kể ra các vùng quê mới cắt từ Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông để nhập vào Hà Nội, thì số tác giả của Thủ đô thật là nhiều. Song có lẽ chỉ có Tô Hoài là mang được cái chất riêng của vùng đất mà mình đã từ đó trưởng thành. Và giữ được cái chất đó, trong suốt cuộc đời cầm bút.

Nguyễn Huy Tưởng

  • Với Những người ở lại, Luỹ Hoa, Sống mãi với Thủ đô… Nguyễn Huy Tưởng là một trong những người xứng đáng nhất với danh hiệu nhà văn Hà Nội. Những thành công chính của ông đều gắn với đề tài này. Lại nữa, trong khi viết về thủ đô, ông biết mang lại cho sinh hoạt nơi đây một vẻ trang nghiêm, một không khí lịch sử, nó là cái sắc thái cần thiết cho suy nghĩ của người ta về thủ đô mọi nước nói chung, và rất tiêu biểu cho Thủ đô Hà Nội nói riêng.
  • Đời sống văn học Thủ đô những năm Nguyễn Huy Tưởng mới bước vào nghề đã giúp một phần trong việc khẳng định những đặc sắc ấy của nhà văn.
  • Bấy giờ là thời kỳ 40- 45. So với mấy năm trước, đời sống văn học Hà Nội có cái gì trầm xuống, không sôi nổi như thời 36-39. Nhưng để bù lại, nó có bề sâu. Hàng loạt tạp chí nghiên cứu ra đời Thanh Nghị, Tri Tân… Công tác biên khảo các sách thuộc các bộ môn khoa học xã hội, như biên khảo lịch sử khá phát triển. Tại sao? ở đây có vai trò của yếu tố dân tộc đang nẩy nở mạnh trong suy nghĩ của nhiều người, nhất là tầng lớp trí thức. Một người như Đinh Gia Trinh chủ trì tờ Thanh Nghị đã viết vào 1944.
  • “Cuộc phục hưng ở xứ ta, khởi đầu bằng một sự lựa chọn ôn tồn giữa hai nền văn minh á Đông truyền thống và văn minh Tây phương mới nhập tịch (…) rồi nó đi đột ngột tới sự khinh miệt cái di sản tinh thần ở nước nhà, sự ca tụng quá đáng và thiết tha những gì Âu Tây mang lại (thời Phong hoá- Ngày nay). Nay thái độ bồng bột ấy thay đổi và bọn trí thức đã trở lại tôn trọng những di sản của đất nước, những tinh tuý của văn minh châu á, trong khi tin tưởng càng mạnh là phải học nhiều của Tây phương để đi tới sự thành công trong việc xây dựng một nền tư tưởng và một nền nghệ thuật Việt Nam xứng đáng”.
  • Trên cái nền chung của đời sống văn học như thế này, những xu thế sẵn có ở Nguyễn Huy Tưởng thời thanh niên được nâng đỡ và bồi đắp thêm. Đó là lòng yêu nước, tinh thần tự hào vì truyền thống dân tộc. Cộng với vốn kiến thức chắc chắn về lịch sử và ảnh hưởng của những sáng tác mà Nguyễn Huy Tưởng say mê, như Chiến tranh và Hoà bình của Tôn-xtôi, Gia đình Ti-bô của Rô-giê Mác-tanh đuy Ga, có thể nói những tiền đề có những sáng tác như Vũ Như Tô,  Đêm hội Long Trì… đã khá đầy đủ. Dĩ nhiên là trong những tác phẩm này Hà Nội đóng vai trò một thứ nhân vật trung tâm, như Hà Nội đã là đối tượng được miêu tả trong Ngược đường Tràng Thi và Bà Chúa Chè của Nguyễn Triệu Luật ngày xưa, trong Bóng nước Hồ Gươm của Chu Thiên gần đây?
  • ở nước nào cũng vậy, một phần đáng kể tiểu thuyết lịch sử liên quan đến thủ đô, vì thủ đô là nơi tập trung mọi cơ quan quyền lực của Nhà nước, là nơi chứng kiến mọi sự hưng vong. Thủ đô bao giờ cũng được ghi chép nhiều hơn cả trong những công trình nghiên cứu lịch sử, và Nguyễn Huy Tưởng, như các nhà tiểu thuyết lịch sử khác đã phải dựa chắc vào đấy, trước khi để cho trí tưởng tượng của mình phát huy hết tiềm lực vốn có.
  • Nhà văn Kim Lân kể:
  • “ Nguyễn Huy Tưởng biết nhiều về Hà Nội. Hà Nội mới, Hà Nội cũ, Hà Nội kháng chiến và Hà Nội những năm xa xưa thời Lê, thời Trịnh… Mỗi lần đi dạo các hè phố với anh, tôi thường được nghe anh kể chuyện Hà Nội.”
  • Trong Tự truyện, khi nhắc lại lần họp của nhóm Văn hoá Cứu quốc ở làng Tây Hồ, Tô Hoài không quên ghi lại những liên tưởng, phỏng đoán của Nguyễn Huy Tưởng “Đò này là thuyền rồng của vua tôi Trần Thánh Tông đi chơi Hồ Tây”. “Ngày trước , Hồ Xuân Hương ở Tây Hồ, chắc phiên chợ thì sang chợ Bưởi bán chỉ và mua tơ về đánh chỉ. Thế nào nàng thơ cũng qua bến đò ngang này”.
  • Có vẻ như Nguyễn Huy Tưởng đã tìm thấy mảnh đất riêng của tác giả, và anh em bè bạn trong nghề viết cũng khuyến khích để cái phần chuyên sâu ấy của Nguyễn Huy Tưởng ngày một chín hơn.
  • Vậy là chúng ta đã khẳng định Nguyễn Huy Tưởng viết nhiều bằng những cái ông đọc, bằng những liên tưởng đối chiếu giữa kiến thức trong sách vở với từng trải trong cuộc đời.
  • ở nước nào trên thế giới cũng có kiểu nhà văn như thế này, nhà văn có vốn liếng tư chất của nhà nghiên cứu, công việc chuẩn bị ở họ khá lâu. Nhưng thông thường, họ làm nghề rất bền. Cũng phải nói thêm là chỉ ở những trung tâm văn hoá lớn, có các thư viện tàng trữ đủ sách vở có các mặt công tác nghiên cứu hỗ trợ, thì người viết văn mới có điều kiện để làm công việc chuẩn bị một cách đầy đủ, tỉ mỉ và làm hết những dự định của mình. Cả ở đây nữa, cũng thấy Nguyễn Huy Tưởng gắn bó với Hà Nội là do những thúc ép nội tại từ chính các ý đồ sáng tác ông hằng ôm ấp.
  • Sau cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng không chỉ viết về các chuyện  lịch sử, mà còn viết ngay về những mảng đời sống xảy ra ngay hôm nay như cuộc chiến đấu ở Hà Nội tháng chạp 1946 trận Cao-Lạng giải phóng biên giới, hoặc Cải cách ruộng đất. Một mặt, như các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ trong khi viết về những sự kiện đương thời, Nguyễn Huy Tưởng vẫn biết phát huy thế mạnh vốn có, ông thường mang lại cho các sự kiện ngày hôm nay một vẻ nghiêm trang, như các sự kiện lịch sử. Mặt khác, ta cũng có dịp chứng kiến khả năng quan sát, những rung động của ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với chúng ta, nhất là ở những trang Nguyễn Huy Tưởng miêu tả phố xá.
  • Đọc Sống mãi với Thủ đô, có thể bắt gặp một Nguyễn Huy Tưởng quen thuộc. Khi qua miệng một nhân vật, ông ca ngợi rừng bàng Yên Thái hay bến trúc Nghi Tàm “hàng vạn cây trúc thân vàng soi bóng xuống nước hồ biếc”… Nhưng cũng rất thú vị là những đoạn Nguyễn Huy Tưởng tả Hà Nội hôm nay. Cũng như Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng rất thuộc khu trung tâm thủ đô, đặc biệt là chung quanh hồ Hoàn Kiếm, quãng từ Hàng Đào, chợ Đồng Xuân trở lên, và thường tả các sinh hoạt ở đó với rất nhiều trìu mến. Lý do trước 1945, các đại lộ lớn hiện nay như Bà Triệu, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, nghĩa là nửa phía Nam từ Bờ Hồ trở xuống là khu phố của người Pháp và các công chức cao cấp, các nhà thật giầu có. ở địa vị một công chức yêu nước như Nguyễn Huy Tưởng mặc dù rất thích các vòm cây Hà Nội ở các đại lộ kia, nhưng ông cảm thấy thoải mái hơn hẳn khi trở về với các phố Hàng Đào, Hàng Bạc trên này.
  • Nói chung, cách nhìn nhận, xem xét Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng đằm thắm, đôn hậu, và phải nói là ông tả được những nét sang trọng, lịch sự của thủ đô. Sang trọng, lịch sự mà vẫn yêu nước, ghét Tây, và không sa đà vào thứ văn chương trưởng giả của cánh Tự lực văn đoàn. Hà Nội đã vào văn ông, làm nên toàn bộ hồn cốt đường nét trong văn ông. ảnh hưởng đó là rất lớn.

Một số hoạt động văn hoá cứu quốc

  • Trở nên, chúng ta đã nói rõ sự gắn bó của nhiều nhà văn trước 1945 với Hà Nội, về mặt nghề nghiệp. Nhưng từ sau 1930, truyền thống Hà Nội còn đồng thời là truyền thống cách mạng. Bởi vậy, sự gắn bó của các nhà văn với Hà Nội từ đây trở đi, sẽ có thêm sắc thái hào hùng, rất đáng ghi nhớ.
  • Một sự kiện thường được nhắc nhở. Cuộc biểu tình ngày 1-5-1938.
  • Nguyên trước đó, trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Đảng Cộng sản Đông dương đã có những cơ quan ngôn luận của mình ở Hà Nội như tờ Thế giới, tờ Tin tức, tập hợp chung quanh mình một số cộng tác viên. Nguyên Hồng, Hồ Xanh, Nguyễn Thường Khanh (Trần Mai Ninh), Như Phong v.v…. Nhiều nhà văn nhà báo khác, tuy không viết cho các báo nói trên, nhưng ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của Đảng, có nhiều sáng tác đứng về phía những người cần lao là quần chúng công nông nghèo khổ.
  • Trong tình hình đó, cuộc biểu tình ngày 1-5-1938 giống như một cuộc biểu dương lực lượng của những người lao động Hà Nội. Trong cuộc biểu tình này, lực lượng những người viết văn, viết báo tham gia rất đông.
  • Theo Nguyên Hồng kể lại, thì ông nhớ là nhà giáo Nguyễn Công Hoan hôm ấy đeo băng đỏ giữ trật tự. Nguyễn Tuân đứng bên Lưu Trọng Lư, Phùng Bảo Thạch bên Vũ Ngọc Phan, Tô Hoài lúc ấy chưa thuộc nghiệp đoàn những người viết văn, viết báo nhưng cũng có mặt trong đoàn quân thất nghiệp. Cuộc biểu tình có hai vạn người dự này là một sự kiện đáng ghi nhớ cuối những năm ba mươi. Một người như Nguyễn Tuân sau này còn hay nhắc lại, như một kỷ niệm đẹp.
  • Đến thời kỳ từ 1943 trở đi, thì các sự kiện lại còn dồn dập hơn nữa.
  • Khoảng tháng 3-1943 (theo trí nhớ của Học Phi), Vũ Quốc Uy, Như Phong và Học Phi có buổi họp đầu tiên ở nhà một cơ sở đầu phố Hàng Đường, để triển khai cuộc vận động các văn nghệ sĩ hoạt động theo đường lối của Việt Minh.
  • Từ buổi họp này, nắm được chủ trương, Như Phong và Vũ Quốc Uy sẽ xâu chuỗi thêm những người khác: Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Trần Huyền Trân, v.v
  • Mùa thu  năm 1943, Đề cương Văn hoá được chính thức gửi về để các đồng chí trong Văn hoá cứu quốc nghiên cứu và thảo luận chung. Các buổi họp thường tiến hành ở nhà Vũ Quốc Uy, 124 phố Phó Đức Chính có đồng chí Lê Quang Đạo, bí thư thành uỷ viên lúc đó về dự, và hướng dẫn, rồi sau ở nhà Tô Hoài (có đồng chí Trần Độ, đồng chí Mười Hương, phái viên của Trung ương về hướng dẫn).
  • Quán triệt tinh thần bản đề cương đến đâu, thì hoạt động của mọi người càng sôi nổi đến đấy. Điều mà mọi người tha thiết là làm sao có được một tờ báo và một nhà xuất bản làm cơ quan tập họp dư luận. Trong hai việc này, công việc làm xuất bản có vẻ thuận lợi hơn. Anh em định tranh thủ một cơ sở xuất bản là nhà Bách Việt, “Với ông chủ con trẻ, rất hiền lành, tin và nghe Tô Hoài như tin và nghe mục sư hay cha đạo” (Nguyên Hồng), đã ra được Chuyện Hà Nội của Vũ Ngọc Phan, Xóm giếng của Tô Hoài. Trong Xóm giếng đại khái có những đoạn:
  • “Người ta ước ao làm một trận mưa rào. Mưa rào xuống cho lòng hả hê và cho trời quang đãng. Những cái gì bực tức được gạt bỏ. Trong khoảng mênh mông xanh nhởn kia sẽ phủ một không khí tốt lành và tự do”.
  • Đó là một cách nói bóng gió để khẳng định và ao ước: cách mạng sẽ tới.
  • Ngoài ra, còn Nhà xuất bản Mới, nơi đã in Tạp văn của Đặng Thai Mai Ngọn lửa của Nguyên Hồng… Nhưng công việc tiến hành trầy trật, sách ra loi thoi, giấy xấu, chỗ thủng, chỗ mọt đủ thứ. Không có việc gì kéo được lâu dài.
  • Chỉ có một điều chắc chắn, chúng ta có thể ghi nhận. Đó là, ngay trong lòng cái sinh hoạt văn học khá đa dạng ở Hà Nội, yếu tố cách mạng vẫn nảy sinh, Thủ đô là nơi để nhiều thanh niên vào với nghề văn, nay lại là nơi để các ngòi bút đó chuyển biến, sẵn sàng đi theo tiếng gọi yêu nước của cách mạng.
  • Các nhà văn – những người đã hình thành bản sắc ngòi bút của mình trên báo chí về thị trường xuất bản ở Hà Nội nói chung – suy nghĩ ra sao, khi tiếp xúc với đề cương, và đứng trong hàng ngũ văn hoá cứu quốc?
  • Tô Hoài hay nói: “Trên sóng cát cuộc đời, mình đã từng sống mãi kiếp phong trần, vật vờ, vào đâu nên đấy của con phù du” . Nay gặp Đảng của giai cấp, mới thành người. Không rẻ nghề, chán nghề, coi đây chỉ như nghề bán giầy, thư ký kế toán… mà  thấy nghĩa vụ của người cầm bút là thiêng liêng cao quý”.
  • Nguyên Hồng vốn đã đến với nghề văn một cách say sưa, lại tìm cho ngòi bút của mình những nồng nhiệt hơn nữa, và tình cảm lại bốc lên mạnh mẽ hơn  bao giờ hết, khi hiểu mình sẽ viết để phục vụ cách mạng. Hà Nội là nơi Nguyên Hồng đã đến để tìm liên lạc với các báo Tin tức, Thế giới, hồi Mặt trận bình dân. Hà Nội là nơi đến những năm 1943 – 1944, sau khi đi tù về, Nguyên Hồng lại lên để tìm liên lạc với Như Phong, Vũ Quốc Uy, Tô Hoài, Nam Cao. Chính ở Hà Nội mà Nguyên Hồng được Như Phong chuyển cho đọc bản Đề cương văn hoá.
  • “ Tôi còn nhớ bản Đề cương viết chữ tay nhỏ xíu khổ giấy nhỏ chỉ bằng bàn tay gồm có tám trang. Như Phong đưa cho tôi vào một ngày mùa rét 1943 ở nhà một anh bạn làm kịch ở Hà Nội, nơi đây chúng tôi vừa lấy làm địa điểm liên lạc, vừa làm chỗ tụ họp của những anh em văn nghệ sĩ chỉ muốn sống làm văn học nghệ thuật không thôi. Chiều chiều Như Phong và tôi đi phố trao đổi ý kiến với nhau.”
  • Nguyên Hồng kể trong hồi ký như vậy. Và khi đã có được niềm tin sâu xa ở thắng lợi tất yếu của cách mạng, con mắt nhà văn nhìn Hà Nội khác hẳn, không phải chỉ thấy Hà Nội lầm than như xưa mà giờ đây (những ngày chuẩn bị cách mạng) là một thành phố đầy sức sống.
  • “Cả Hà Nội ầm ĩ rần rật, nung nấu… Con sông Hồng ở bên kia đường trước cửa nhà tôi ngồi viết càng cuồn cuộn, ì ầm phù sa nước lũ. Chiều chiều, các đỉnh Tam Đảo, Ba Vì mây trắng lung linh, rực rỡ, vang âm, như có cờ bay, quân trẩy, súng dậy ngựa reo… Hà Nội như một ngõ núi lửa rình phục”.
  • Sống trong lòng một Hà Nội sục sôi khi thế cách mạng, khi viết Buổi chiều xám, Nguyên Hồng cảm thấy ngọn bút tung hoành như chưa bao giờ được như thế: Khi Buổi chiều xám được đăng trong Tiên phong dù không còn cái nông nổng như khi mới vào nghề, nhà văn vẫn nghe nước mắt vỡ ra ở trong lòng mình.
  • Một đồng chí cùng tổ văn hoá cứu quốc với Nguyên Hồng bấy giờ là Trần Huyền Trân. Một buổi chiều, khi ở toà soạn Tiểu thuyết thứ bảy ra về, đang đi trên phố Hàng Da, thì Trần Huyền Trân gặp Như Phong đi tới rỉ tai “Có chỉ thị mới đây” rồi đưa cho Trần Huyền Trân một điếu thuốc lá. Tác giả Độc hành ca về đọc, và nghiền ngẫm. Đó là Đề cương văn hoá. Ngay đêm hôm ấy, hết sức hứng khởi Trần Huyền Trân làm bài thơ Gió gác Sơn Nam. Như trên đã kể, Sơn Nam là cái ngõ Trần Huyền Trân ở chung với Thâm Tâm, Nguyễn Bính. Ba cái bóng gầy nói dưới dây cũng vẫn là ba người bạn thân ấy.
  • Gió lên về gác Sơn Nam
  • Ao thơ gió lạnh, đèn tàn gió bay
  • Trang thơ lộng gió thèm bay
  • Ba ta ba chiếc bóng gày – đèn khuya
  • Đêm dài tù túng đi về
  • Ngọn đèn trang giấy cùng chia cái nghèo
  • Dầu hao, bấc lụi, gió vèo
  • Cháo rau ấm bụng, thơ gieo ấm lòng
  • Gác Sơn Nam, gác đèo bòng
  • Có ba mái tóc bồng bềnh bên nhau.
  • Gió đời chưa nổi biển dâu
  • Gió trời thổi mãi mái đầu nằm mơ
  • Đêm nay – thật lúc bất ngờ
  • Bỗng dưng bão nổi khi vừa rạng đông.
  • Sức lôi cuốn của Đề cương văn hoá với văn nghệ  sĩ Hà Nội lúc ấy thật mạnh mẽ. Có người như Hồng Nguyên (Nguyễn Văn Vượng) không thấy nói trong các tài liệu chính thức là thuộc về nhóm trung tâm của Văn hoá cứu quốc, nhưng theo nhà văn Vũ Cao còn nhớ, hồi đầu 1945 trước khi từ giã Hà Nội vào Thanh Hoá, Hồng Nguyên đã đưa cho Vũ Cao một số tài liệu nhờ cất giữ hộ, trong đó có bản Đề cương văn hoá.
  • Thôi Hữu là một chiến sĩ nồng nhiệt khoảng 1943 đã từ các tỉnh miền trong chuyển ra Hà Nội và làm nhiều công tác. Nhà thơ Tế Hanh kể năm 1943, nhân ra Hà Nội học một thời gian ngắn gặp Thôi Hữu (hai người đã từng biết nhau ở Huế). Thôi Hữu có đưa cho Tế Hanh đọc ít tài liệu bí mật, và đối với Tế Hanh, đó là một tí kỷ niệm về Hà Nội. Trong Tự truyện, Tô Hoài, cũng đã nhắc nhiều đến Thôi Hữu (Tân Sắc). Theo cách trình bày của Tô Hoài thì hồi đó, hoạt động của Thôi Hữu khá rộng, ông quan hệ sâu và kỹ với các tổ chức cách mạng ngoại thành hơn là giới những người làm văn, làm báo.
  • Lại còn trường hợp Như Phong. Nhà văn này vốn nguyên quán Hà Nội, từng có hoạt động từ hồi Mặt trận dân chủ, và là một trong những thành viên đầu tiên của Văn hoá cứu quốc. Sau này, nhân đọc Sóng gầm ông còn diễn tả lại cảm giác về những nỗi kinh hoàng mà cuộc sống của những thành phố lớn để lại trong tâm lý lớp thanh niên như ông trước 1945. Lúc thấm thía sâu sắc nỗi kinh hoàng đó cũng là lúc Như Phong cả quyết đi theo cách mạng.
  • Trở lại với các hoạt động chung của Văn hoá cứu quốc. Từ sau khi Nhật-Pháp bắn nhau, tình hình càng ngày càng khẩn trương. Có lần, có cuộc họp liên tịch nhiều nhóm văn hoá cứu quốc ở xóm Cung, giữa làng Tây Hồ, bất chấp cả lính Nhật lúc nào cũng tuần tiễu, sục sạo. Có lần họp ngay ở căn gác nhỏ phố Phù Đổng Thiên Vương. Rồi lần về nhà người chị Nguyễn Huy Tưởng ở bên Dục Tú, Đông Anh, bàn làm tạp chí Tiên phong trong bí mật (khi làm xong thì vừa Tổng khởi nghĩa, báo ra công khai luôn. Rồi về làng Vạn Phúc họp, bầu đại biểu đi dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào. Trong lòng Hà Nội, một số nhà văn, nhà báo thực sự bắt tay vào việc chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa 19-8

Nguyễn Đình Thi

  • Trong số các hoạt động của Hội văn hoá cứu quốc hồi bí mật, có một sự kiện đáng ghi nhớ vào đầu năm 1944. Đó là buổi diễn thuyết về sức sống của dân Việt Nam trong ca dao và cổ tích, nhân ngày hội sinh viên hàng năm. Người nói chuyện hôm đó là nhà văn Nguyễn Đình Thi.
  • Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Thi có thể nói là cùng với Văn hoá cứu quốc và với các hoạt động văn nghệ sau 1945 mà trưởng thành. Sự nghiệp đó cũng gắn liền với Hà Nội.
  • Kể ra, từ xưa đến nay, số người là học sinh Hà Nội cũ (nhất là học sinh các trường học có tiếng như trường Bưởi, trường Thăng Long) đi vào viết văn, số đó rất nhiều. Đó là Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Công Hoan… mà chúng ta  đã biết.
  • Nhưng ở Nguyễn Đình Thi người ta vẫn thấy một trường hợp đáng lưu ý đặc biệt. Tại sao? Một phần có lẽ do Nguyễn Đình Thi là một tài nhưng đa dạng, không những làm thơ, viết văn, mà còn sáng tác nhạc và ở lĩnh vực nào cũng thành công, cũng gây được ấn tượng. Thông minh, lịch thiệp, tài hoa… những phẩm chất  chung của người Hà Nội thời nào, như được kết tinh lại rất rõ ở ông. Và người ta, có cảm tưởng ông đã thu hút được đầy đủ hơn ai hết những thành tựu của đời sống văn hoá thủ đô, lấy nó làm của riêng của mình.
  • Một điều khác, có thể thấy rõ trong việc Hà Nội chuẩn bị cho người học sinh này trở thành nhà văn, là chuẩn bị về mặt kiến thức, tư tưởng. Trước khi sáng tác, Nguyễn Đình Thi từng là tác giả những tập biên khảo về Béc-xông, Nít, về chủ nghĩa dân chủ mới… Về sau, vừa sáng tác, ông vừa là một cây bút lý luận có uy tín, trong các bài viết của ông, những ý kiến dẫn ra từ Tôn-xtôi, Đốt-xtôi-ép-xki. R. Rô-lăng, Goócki, bao giờ cũng đúng lúc, đúng chỗ. Trong khi phần lớn các nhà văn Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều viết trực tiếp từ những kinh nghiệm riêng trong đời sống, thì Nguyễn Đình Thi bên cạnh những kinh nghiệm riêng ấy, còn có sách vở. ở ông, nhà lý luận đồng thời trưởng thành và cùng hoạt động với người sáng tác.
  • Tất cả những điều này sẽ có dịp thể hiện đầy đủ, qua việc tác giả xây dựng tiểu thuyết Vỡ bờ.
  • Cái hạt nhân của Vỡ bờ như Nguyễn Đình Thi từng kể, chính là một mảng sóng Hà Nội. Trong suốt cả cuốn tiểu thuyết hơn một ngàn trang này, người ta còn có thể nhận ra nhiều cảnh, nhiều người đã thuộc về kinh nghiệm riêng, từng trải riêng của Nguyễn Đình Thi ở Hà Nội trước 1945, từ câu chuyện của một cậu học sinh nghèo, tỉnh nhỏ, lên đây trọ học như Đông, đến cảnh sống của những người thuộc loại nhà giàu như chị em Phượng, Hằng… và đặc biệt là cái đám người viết văn, viết báo, vẽ tranh, chơi nhạc. Hộ, Vũ, Toàn Tư kể cả Thanh Tùng, v.v… Bản lĩnh nhà văn của Nguyễn Đình Thi không chỉ thể hiện ở cách nhìn, mà còn ở cách khai thác tài liệu, cách viết nữa, nó là sự tổng hợp giữa kiến thức lý luận với kinh nghiệm như trên chúng ta vừa nói. Những người viết văn kết hợp được cả quan sát rung cảm với việc đọc, như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi , là một thứ “đặc sản” chỉ ở Hà Nội mới có.

+

+  +

  • – Tôi không sinh ra ở Hà Nội, nhưng cuộc đời và sáng tác của tôi đã gắn bó rất nhiều với thủ đô.
  • – Nếu ai nói vì sao tôi viết nhiều và có những tác phẩm thành công về Hà Nội(…) thì xin thưa rằng đó hoàn toàn không phải do tôi sống ở Hà Nội nhiều mà là do tôi rất gắn bó với Hà Nội, với thủ đô của đất nước Việt Nam anh hùng. Nói về Hà Nội, về con người Hà Nội cao đẹp, cũng chính là nói tới những phẩm chất quý giá của cả dân tộc.
  • Có lần, trong dịp trả lời phỏng vấn một tờ báo – tờ Tuổi trẻ thủ đô, số kỷ niệm 10-10-1954 Nguyễn Đình Thi đã viết như vậy. Theo nhà văn tự nhận xét, thì từ các cuốn tiểu thuyết Xung kích, Vỡ bờ, Mặt trận trên cao, các vở kịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Tiếng sóng, Giấc mơ… tác phẩm nào của ông cũng có hình bóng những người thanh niên của đất ngàn năm văn vật.
  • Nhưng còn thơ? Trong sáng tác của nhà thơ rất độc đáo này, nhất là tập Người chiến sĩ gồm những bài làm trong kháng chiến, hình bóng, hơi thở, không khí Hà Nội được gợi rất cảm động. Hình ảnh mở đầu bài thơ nổi tiếng Đất nước:
  • Sáng mát trong như sáng năm xưa
  • Gió thổi mùa thu hương cốm mới
  • Tôi nhớ những ngày thu đã xa
  • Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
  • Những phố dài xao xác hơi may
  • Người ra đi đầu không ngoảnh lại
  • Sau lưng thềm vắng lá rơi đầy.
  • đã ăn sâu vào tâm trí nhiều thế hệ thanh niên học sinh. Mỗi lần đi xa thủ đô, đọc mấy câu thơ ấy lên, lòng họ lại xao xuyến, tâm trí mỗi người lại trở về với bao kỷ niệm về Hà Nội thân yêu.
  • Tiếp xúc với nhiều bài thơ in trong Người chiến sĩ như các bài Không nói, Mưa xuân, Nhớ, Bài thơ viết cạnh đồn Tây, người ta không sao quên được hình ảnh một lớp thanh niên Hà Nội, những người con trai trên đường ra trận, những người con gái bồi hồi xúc động muốn chia xẻ với người yêu của mình mọi gian nan vất vả “Thì thầm em nói em yêu quá – Các anh vất vả vì giống nòi”. So với cách nghĩ bình thường, thì lối bộc lộ tình cảm trong thơ tình Nguyễn Đình Thi thường là rất bạo, nhưng vẫn tinh tế.
  • Còn có thể nói nhiều về những bái thơ như Nhớ, Chuyện hai người yêu xa cách, Chia tay trong đêm Hà Nội.
  • Tuy nhiên, kỷ niệm ban đầu của Nguyễn Đình Thi đối với Thủ đô mà cũng là đối với đề tài cách mạng nói chung, lại là một bài hát, bài Diệt phát xít
  • Nguyễn Đình Thi kể: Bấy giờ là đầu 1945, Hà Nội đang chết đói dở, Hà Nội cũng rục rịch cách mạng. Bọn phát xít Nhật kiểm soát rất kỹ. Ai muốn ra đường phải có thẻ, không rõ làm sao Nguyễn Đình Thi lại có thẻ. Hình như ông có được là do nhặt từ một người nào đó đã chết. Nhưng ra đường càng thấy Hà Nội đang đau đớn dưới ách phát-xít, và tức nước vỡ bờ, lòng người đều quyết tâm đứng lên cứu nước, cứu nhà. Trở về trên cái gác xép nhà Trần Văn Cẩn mà Nguyễn Đình Thi đang ở nhờ, ông viết Diệt phát-xít. Làm xong, mang khoe Văn Cao. Thì Văn Cao cũng vừa sáng tác xong Tiến quân ca (mà ban đầu còn lấy tên là Bài ca Việt Minh) Ban đầu Diệt phát-xít được hát ở Hà Nội như một bài hát… vô danh. Ai cũng hát, tuy không ai nhớ tên tác giả. Sau khi dự Đại hội quốc dân ở Tân Trào ông đi bộ về Hà Nội, nhưng vì sốt rét nên tối 2-9 mới về tới nơi. Qua sông Hồng, đã thấy các đám biểu tình đi rầm rập trên đường. Không kịp nghỉ ngơi, Nguyễn Đình Thi nhập ngay vào hàng ngũ những người biểu tình, đến tự mít-tinh ở Nhà hát lớn. Và ở đấy, tác giả lại cùng mọi người hát to lên bài Diệt phát xít. Những lúc này, trong lòng người nghệ sĩ không khỏi dấy lên niềm tự hào: sáng tác của mình đã trở nên tiếng nói của mảnh đất thiêng liêng mà mình từng gắn bó.
  • Vinh dự đó còn đến với Nguyễn Đình Thi một lần nữa, bài hát Người Hà Nội. Nói chung, các bài hát, bài thơ, các cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Thi ít nhiều đều có liên quan đến một phương diện của truyền thống Hà Nội hôm nay – Hà Nội cách mạng. Đọc Nguyễn Đình Thi, chúng ta nhớ tới lớp lớp những người con trai, con gái thủ đô hết lòng vì sự nghiệp chung của dân tộc, những người biết hy sinh, phấn đấu mà vẫn không thôi giữ được cái chất của đất kinh thành, lịch sự, tài hoa, duyên dáng.

+

+  +

  • “Khởi nghĩa tháng Tám như một lưỡi cày khổng lồ đào xới mảnh đất Việt Nam đau thương, để theo sự sống trở lại lên những luống đất đẫm máu và nước mắt. Bao nhiêu vấn đề đều phải đặt lại tất cả cùng một lúc”. Trong một bài viết tháng 2-1952, nhân việc nhà văn Nam Cao hy sinh, Nguyễn Đình Thi đã viết như vậy. Với cuộc cách mạng long trời lở đất này, đời văn của nhiều cây bút nổi tiếng trong văn học ta thay đổi, và cố nhiên, mối quan hệ của mỗi người với Hà Nội cũng thay đổi. Trong một số trường hợp, thủ đô là nơi chứng kiến những chuyển biến rất cụ thể.
  • Ngay sau cách mạng, Xuân Diệu, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng… sôi nổi bắt tay vào làm tạp chí Tiền Phong của Hội văn hoá cứu quốc.
  • Nguyễn Tuân cùng đi với Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Lạp, Sĩ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ tham gia vào một đoàn văn nghệ sĩ Nam tiến trước 19-12-1946. Sau này, cả Nguyễn Tuân lẫn Nguyễn Đình Lạp, cũng như Thôi Hữu, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, còn có dịp trở lại với mặt trận Hà Nội.
  • Nhà thơ Thanh Tịnh trước nay sống ở Huế là chủ yếu. Cuối 1946, ông ra thủ đô dự Đại hội văn hoá toàn quốc, chưa kịp quay về quê hương thì tiếng súng toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Theo dòng những người Hà Nội tản cư, ông bắt đầu dùng độc tấu phục vụ kháng chiến, và thế là một quãng đời mới của  ông thực sự bắt đầu.
  • Bằng nhiều con đường khác nhau, trước sau các văn nghệ sĩ nổi tiếng đều theo tiếng gọi của đất nước ra khu Ba, vào Thanh, và nhất là lên Việt Bắc tham gia kháng chiến để rồi sau 10-10-1954, cùng với đoàn quân chiến thắng, trở lại thủ đô yêu dấu.
  • Từ ấy, đời văn của mỗi người sang một trang hoàn toàn mới!
  • Phần thứ hai
  • Nói tới văn học Việt nam sau 1945, người ta thường chú ý tới sự hình thành hai lớp nhà văn
  • a. Thế hệ các nhà văn chống Pháp.
  • b. Thế hệ chống Mỹ
  • Trong khi chưa có điều kiện đầy đủ để miêu tả hết sức gắn bó của các nhà văn tiêu biểu của hai thế hệ này với Hà Nội, chúng tôi tạm đi vào thế hệ các nhà văn chống Pháp qua hai nhóm chính, nhóm các nhà văn khu Năm – Nam Bộ ra tập kết ở miền Bắc sau 1954 và nhóm các nhà văn mặc áo lính. Quan hệ của mỗi nhóm này với đời sống văn học Hà Nội có những đặc điểm riêng khá rõ. Còn thế hệ các nhà văn chống Mỹ sẽ được xem xét ở góc độ chung: Hà Nội và việc đào tạo các nhà văn trẻ.
  • Hà Nội và các nhà văn khu năm nam bộ
  • ra tập kết sau 1954
  • Không những đối với các tỉnh lân cận Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, mà đối với các tỉnh xa, từ Nghệ Tĩnh vào, qua Trị Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà v.v… Hà Nội từ lâu đã là một trung tâm văn học, khiến cho nhiều chàng trai trước cách mạng ao ước có dịp ra học tập. Đó là điều xẩy ra với Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên và nhiều người khác, mà trên kia chúng ta đã nhắc qua.
  • Nhưng nếu như trước cách mạng, người yêu Hà Nội chỉ đến với thủ đô lẻ tẻ, từng người một, thì sau cách mạng, có một thời gian mảnh đất này đột ngột hội tụ về mình rất nhiều anh tài khắp nơi, và tạo cho sinh hoạt văn học nơi đây có một bước chuyển rõ rệt. Cái thời gian sau 1954 ấy quả là một cái mốc mà chúng ta cần ghi nhớ.
  • Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Bảo Định Giang, Đoàn Giỏi … từ Nam Bộ ra.
  • Tế Hanh, Phạm Hổ, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Viết Lãm, Đào Xuân Quý, Lưu Trùng Dương… cả đội quân văn nghệ hùng hậu  của khu 5 cũ, gần như tập kết đầy đủ, và chia nhau đảm nhiệm các mặt công tác văn học quan trọng nhất lúc bấy giờ. Rồi từ trong phong trào đó, từng người sẽ trưởng thành lên và tạo dựng cho mình sự chững chạc cần thiết của ngòi bút.
  • Nguyễn Văn bổng – Nguyễn Thành Long – Phạm Hổ
  • Thật ra không phải từ sau 1954, các nhà văn chúng ta vừa kể trên, mới tiếp xúc với Hà Nội.
  • Nguyễn Thành Long  cho chúng tôi biết: Sau khi học ở Quy Nhơn, anh ra Hà Nội học chuyên khoa và  thường đến Thư viện Trung ương đọc sách. Trong đầu óc những người như Nguyễn Thành Long bấy giờ Hà Nội thật là huyền ảo, những cô gái Hà Nội thẹn thò e lệ sau các khung cửa từng làm cho các chàng trai, các anh bấy giờ bâng khuâng. Và yêu đủ thứ. Trước 1945, Nguyễn Thành Long đã có bài viết in trên Thanh Nghị. Có thể nói là anh đã yêu nghề, say nghề văn từ đây. Và suốt chín năm kháng chiến, ở khu Năm nhưng những kỷ niệm về đời sống văn học ở Hà Nội không thể phai mờ, cho nên, khi ra tập kết, anh cảm thấy thoải mái, như trở lại với quê hương gia đình mình.
  • Còn lớn tuổi hơn cả Nguyễn Thành Long, là Nguyễn Văn Bổng. Trước cách mạng, chủ yếu anh dạy học ở Huế, và có viết bút ký, truyện ngắn cho tạp chí Thanh Niên ở Sài Gòn, Thanh Nghị ở Hà Nội, Nguyễn Văn Bổng kể:
  • – Hè 1946, tôi ra Hà Nội, đến với tạp chí Tiền Phong gặp các anh Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu… Trụ sở Hội văn hoá cứu quốc và tạp chí Tiền Phong hồi bấy giờ ở 40 Quang Trung. Các anh đã biết tôi qua một vài bài tuỳ bút hồi trước 1945, tuy nhiên đối với các anh, tôi vẫn là người rất mới. Ngày trước, giữa một tên tuổi như Xuân Diệu, Nguyễn Tuân với chúng tôi mới vào nghề, khoảng cách rất xa, xa đến ngao ngán. Sau Cách mạng tháng Tám, gần lại dần. Vào kháng chiến, gọi nhau bằng đồng chí, tình trở nên ấm áp.
  • Chúng ta thấy gì qua những lời “tự thú” này? ở đó, có niềm ngưỡng vọng chân thành đối với những giá trị của Hà Nội văn học (mà tiêu biểu ở đây là Nguyễn Tuân, Xuân Diệu), một cái gì như là có chút tự ti. Và ở đó, cũng có chất reo vui, khi cảm thấy đời mình từ nay đã gắn chặt với nền văn hoá đó.
  • Đây cũng là tinh thần toát ra qua bài viết của Nguyễn Văn Bổng, tường thuật Đại hội văn hoá toàn quốc in trên Tiền phong, 1946.
  • Nhập vào đám đông tập sách đầu tay của Nguyễn Văn Bổng cũng in ra ở Hà Nội. Sách gồm có một số bút ký nói suy nghĩ của tác giả trước những đổi mới cách mạng trong đời sống. Sách do nhà xuất bản Hoa Lư của Lưu Quang Thuận cho in. Tiếc rằng, chưa kịp phát hành khi tiếng súng kháng chiến bùng nổ, tập sách không còn giữ được bản nào.
  • Một buổi sáng cuối thu đầu đông 1946, Nguyễn Văn Bổng đã ra ga Hàng Cỏ, tiễn các nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Lạp lên tàu, vào với các mặt trận ở Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên. ít lâu sau, chính Nguyễn Văn Bổng cũng từ giã thủ đô quay trở về với Đà Nẵng tham gia kháng chiến. Mãi 1950 anh mới có dịp ra Việt Bắc họp một lần, và 1953… ra họp lâu hơn, rồi ở lại luôn Việt Bắc, đi cải cách ruộng đất. Thành thử cùng với Kim Lân, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, đến tháng 10-1953 tác giả Con trâu lại ở trong đoàn cán bộ trung ương về tiếp quản thủ đô. Lần này Nguyễn Văn Bổng đến với Hà Nội với tư cách nhà văn đã có tác phẩm được nhiều người biết. Tư thế có khác. Nhưng tình yêu của nhà văn với Hà Nội thì trước sau vẫn là nguyên vẹn.
  • Một người đồng hương với Nguyễn Văn Bổng và Nguyễn Thành Long là Phạm Hổ, kể với chúng tôi:
  • – Mãi đến 1946, tôi mới có dịp ra Hà Nội, nhưng trước đó, một người anh tôi là học sinh trường Bưởi mỗi lần nghỉ hè trở về vẫn kể với tôi về sinh hoạt thủ đô nên không phải là tôi không có ấn tượng gì về miền đất thú vị này. Cái mà anh tôi lưu ý tôi nhất: Hà Nội là nơi người ta học hành, sinh hoạt văn hoá có nhiều sâu, nên thanh niên cầu tiến ra đấy có lợi lắm. Cố nhiên là khi tôi ra, ấn tượng của tôi về đời sống nghệ thuật Hà Nội vẫn đậm nhất. Tôi nhớ cửa hàng Bách hoá thiếu nhi bấy giờ còn mang tên Quán nghệ sĩ. Vào đấy người ta được thưởng thức tài nghệ của Nguyễn Xuân Khoát bên cây vi-ô-lông, Bùi Công Kỳ trước pi-a-nô và nhiều bậc thầy khác. Đúng như anh Bổng có nói, hồi ấy những tên tuổi này đối với chúng tôi là rất cao xa, tôi chỉ chiêm ngưỡng, nhưng chính vì thế, càng thấy thiết tha với nghệ thuật.
  • Lần ấy Phạm Hổ định ra học trường võ bị Trần Quốc Tuấn nhưng yếu sức khoẻ, phải quay về. Suốt mấy năm kháng chiến, anh ở khu 5. Có điều, một tình yêu chân thành với thủ đô vẫn “làm tổ” trong anh và hiển hiện ra bằng đủ cách. Chẳng hạn, mê tiếng Hà Nội, thấy người nào nói tiếng Hà Nội chuẩn đều bâng khuâng muốn được nghe mãi không thôi. Trung ương chính phủ năm ấy ở Việt Bắc, nhưng Đài tiếng nói Việt Nam vẫn sử dụng tiếng Hà Nội. Nghe đài, lại nhớ thủ đô!
  • 1955, Phạm Hổ ra tập kết. Theo ấn tượng mà anh ghi nhớ được, thì thủ đô lúc ấy phải nói là rạng rỡ trong một sức sống mới.
  • Cũng theo nhận xét của Phạm Hổ thì, với việc trở lại Hà Nội sau 1954, sáng tác của nhiều nhà văn khu Năm cũ có thay đổi. Khương Hữu Dụng như trẻ lại mà Tế Hanh ngày một “chín” hơn (đặc biệt phải kể tập thơ Gửi miền Bắc). Võ Quảng từ một cán bộ chính trị, nay trở thành nhà văn nổi tiếng viết cho thiếu nhi, và để lại cho bạn đọc trẻ tuổi cả nước ấn tượng rất đậm về vẻ riêng của quê hương (Quê nội, Tảng sáng). Từ những miền quê hương khác nhau của Nam Bộ ra tập kết, những Hoàng Văn Bổn và Nguyễn Quang Sáng, Bùi Đức ái và Đinh Quang Nhã… cũng sẽ bắt đầu viết nhiều, viết khoẻ hơn, khi nhập vào không khí văn học thủ đô, và trở thành những cây bút chủ công trong cuộc chiến đấu chống Mỹ. Có một dạo báo chí và làn sóng điện Đài phát thanh ở ta truyền đi nhiều bài tuỳ bút Anh Đức gửi Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân gửi Anh Đức. Sau một thời gian ra Bắc, nay nhiều nhà văn quê khu 5, quê Nam Bộ đã trở lại quê hương, nhưng nhiều người vẫn thường hướng về Hà Nội để trò chuyện, tâm sự.
  • Nguyễn Quang Sáng
  • Tìm hiểu quá trình vào nghề của nhiều nhà văn, chúng ta thường thấy có những giai đoạn người viết ở vào chỗ ngã ba đường. Do một hoàn cảnh nào đó, mình cũng có tập viết tí truyện ngắn, ít bài thơ, nhưng đây đâu có phải là nghề mà mình định theo từ nhỏ, chẳng qua hoàn cảnh, đẩy tới thì làm! Nhiều người đã dự định sẽ dễ dàng chia tay với văn học ở quãng ngã ba này. Nhưng rồi lại do hoàn cảnh xô đẩy và nếu đó là hoàn cảnh thuận lợi cho sự sáng tác, chẳng hạn gặp một số bạn bè quen, trong không khí văn học đang mời mọc – người ta lại dấn thêm một bước nữa. Kết quả, ăn chịu với nghề, và có thể xoa tay mà tuyên bố rằng, tí nữa thì từ giã cái nghề mà thật ra, hợp với mình hơn cả.
  • Nguyễn Quang Sáng là một trong những trường hợp như thế. Nguyên hồi kháng chiến chống Pháp, anh  chỉ mới viết một ít truyện ngắn hoặc những bài báo nhỏ in trên báo Quân đội nhân dân miền Tây. Tập kết ra Bắc ít lâu, anh được chuyển ngành. Trước mắt, Nguyễn Quang Sáng mở ra mấy khả năng. Một là, đi vào con đường thể thao. Bạn anh, Hoàng Văn Bổn chuyên đánh vô-lây, Nguyễn Quang Sáng từng giật giải nhất về bóng bàn ở đơn vị. Nên vào đây chăng? Hai là, đi học thêm văn hoá (như Nguyễn Ngọc Lượng, một bạn học cũ của Nguyễn Quang Sáng, sau đi học ở Cộng hoà dân chủ Đức). Ba là đi viết văn. Nghĩ một hồi, Nguyễn Quang Sáng chọn con đường thứ ba.
  • Truyện ngắn vào nghề của anh là Con chim vàng in ở báo Văn Nghệ. Thế là từ nơi đơn vị cũ là Sầm Sơn, Thanh Hoá, anh trở đi trở lại nhiều lần với Hà Nội, và bước vào văn học với những bước vững chắc.
  • Nếu Con chim vàng là tác phẩm ra mắt của Nguyễn Quang Sáng, thì tác phẩm tương đối chín của anh trước 1965, tác phẩm mà đến nay anh “ưng” nhất, là Đất lửa Nhưng tiểu thuyết này cũng đã thu hút không biết bao nhiêu tâm sức của tác giả, và quá trình hoàn chỉnh tác phẩm, cũng là quá trình Nguyễn Quang Sáng tiếp xúc rộng rãi với giới viết văn thủ đô.
  • Một trong những người đọc Đất lửa đầu tiên là Nguyễn Huy Tưởng. Ông Tưởng coi là Đất lửa có chất  tiểu thuyết và rất khuyến khích Nguyễn Quang Sáng. Nguyễn Tuân cũng thích, Nguyễn Tuân bảo…”Tôi thấy cậu nên tả cho nó ra cái dòng sông quê hương hơn nữa”. Kim Lân, Nguyên Hồng đều cho nhận xét cụ thể. Có buổi Nguyễn Quang Sáng mang ra đọc để mọi người nghe ở Cổ Tân, có cả Hoàng Trung Thông dự.
  • Một lúc nào đó, Nguyễn Quang Sáng đã có thể tự nói với mình, là giá không ra Hà Nội, không bao giờ anh trở thành nhà văn cả. Không khí văn học ở thủ đô những năm 1958-1960 đã thực sự trở thành một hoàn cảnh tốt, giúp cho tài năng của Nguyễn Quang Sáng nẩy nở toàn diện.
  • Để hiểu về tâm tư các nhà văn khu Năm – Nam Bộ tập kết ra Hà Nội sau 1954 và sự gắn bó đời văn của mỗi người với thủ đô, sau đây chúng tôi xin giới thiệu hai trường hợp cụ thể. Một là, đoạn “độc bạch:” của Nguyễn Thành Long và một là bài phỏng vấn nhà văn Đoàn Giỏi.
  • Hà Nội với tôi
  • Nguyễn Thành Long
  • 1.
  • Đến lúc tôi thành nghề, biết mọi những điều bí mật của đời những con người, muốn đặt cho cha tôi nhiều câu hỏi về cuộc đời của ông, thì ông không còn nữa. Làm sao ông là một người tầm thường mà lại yêu văn thơ không phải yêu mà thôi, mà tỏ ra còn có chút ít khả năng đó – và trong cảnh nhà nghèo  sự sa sút đã tới ở lì đuổi cũng không chịu đi nữa, ông vẫn mua cho tôi, và hàng ngày ông cũng đọc, những sách báo chủ yếu từ Hà Nội vào. Từ khi lên bảy, tôi đã mê Hà Nội qua văn thơ. Mê từ một bát bún riêu bốc khói đến một chiếc bánh đậu xanh tan dần trên đầu lưỡi. Mê từ một rặng cây bàng đổ lá đỏ đến một buổi sáng  gió lạnh đầu mùa. Có một người bạn – bản thân là một nhà thơ không thành – bảo tôi. “Các anh bây giờ viết văn xuôi giỏi hơn hồi đó nhiều”. Nhưng văn xuôi hồi đó về Hà Nội cuốn hút tôi như vậy.
  • Trường phổ thông tôi học ở Quy Nhơn gồm có mười lớp nối nhau, thành một đường thẳng. Tôi biết từ bé, cuối con đường thẳng đó là Hà Nội. Anh em cùng lớp phần nhiều viết như nói, thường thường để nhiều vết tích giọng địa phương, riêng tôi, sách báo giúp tôi sớm có giọng văn Bắc – câu phổ thông bây giờ. Không những thế, tôi đã thấy lờ mờ từ lúc nhỏ, mối quan hệ giữa mình với cái mình viết, không thể viết mà không thấy, viết mà không thành thật, viết mà lòng dửng dưng. Các bài tập là văn (“luận” – như tên gọi hồi đó) đều sớm mang cái quan niệm đó. Cũng như chuyện thường xảy ra cho nhiều nhà văn, tôi vừa đọc sách, vừa nhận định rằng mình, mình cũng có cái gì để nói, và lắm khi tôi bỏ cuốn sách đang đọc dở ra để thử viết chuyện mình. (Cái chuyện mình đây, từ lúc học cấp hai, đêm nào tôi cũng thức đến một hai giờ sáng để lần tìm nhưng mấy chục năm sau mới tưởng tìm thấy nó). Điều đáng ghi nhận ở đây là cách hai nghìn cây số Hà Nội đã ảnh hưởng đến tôi như vậy, và ý muốn ấy dần dần trở nên mãnh liệt. Cha tôi chạy vạc mặt để giúp tôi đi Hà Nội học, mỗi tháng gửi cho tôi sáu đồng.
  • Một buổi sáng mùa đông, trên chuyến tàu xuyên Việt tôi ra đầu toa, gặp một người bạn thân nhất của tôi ở đầu toa bên kia, hai đứa chúng tôi vẫn là hai đứa nhỏ nhất trong lớp, học với nhau từ bé. Anh cũng như tôi, tìm cách đi ngang, chúng tôi là một lớp chàng trai muốn lớn thật nhanh, không yên tâm đi từng bước một nữa. Hà Nội sẽ giúp chúng tôi học trước hết là giúp chúng tôi học. Năm ấy, chúng tôi vừa mười bảy. Và anh bạn tôi nay là nhà xã hội học.
  • Những năm Hà Nội trước cách mạng ấy, riêng tôi coi là một số những năm đẹp nhất đời tôi. Tôi cứ như  người được sống trong giấc mộng của mình. Những cảnh trí, những địa điểm mà tôi gặp trong sách báo, tôi đều tìm thăm hết. Tôi làm được một việc mà người Hà Nội cũng chẳng mấy người làm được là bỏ trọn một ngày chủ nhật để đi bộ một vòng quanh Hồ Tây. Tôi làm một việc ít người làm nữa là lại bỏ một ngày mang bánh mì theo để ăn và ở trong Văn Miếu. Hà Nội trong tôi trộn lẫn với văn thơ như vậy. Tôi học về văn hoá lúc ban ngày lúc ban đêm, lại có cái may được gặp những ông thầy cực giỏi như cụ Nguyễn Văn Tố chẳng hạn. Những thì giờ khác, ban ngày hay ban đêm tôi vào Thư viện quốc gia. Tôi đọc được nhiều sách thời kỳ này. Không khí Thư viện quốc gia thúc giục tôi làm việc, thúc giục tôi học, vì ở đấy bao giờ cũng đông, tôi biết số đông đều là nhân tài, đều dùi mài chăm chỉ cả, nhân viên rất tận tình và lễ phép. Đêm đêm đi học về, hay ở thư viện về, trên các đường phố Hà Nội vắng lặng, trăng sáng xanh thơm ngát mùi hoa sữa và hoa hoàng lan, cái cảm giác sung sướng của một người học trò nghèo nhưng tin chắc rằng mình có biết thêm hôm nay một điều gì mới, cái cảm giác sung sướng đó giờ vẫn còn vang vang trong tôi. Về nhà trọ, lên gác, nghe tiếng rao, tôi thả một chiếc giỏ con xuống, kéo lên một cốc cà-phê và một nửa chiếc bánh mỳ xúc-xích, tất cả giá ba xu – sáu đồng nhà gửi, ăn cơm tháng ba đồng, còn ba đồng cho phép tôi sự xa xỉ đó, và giờ đó, tôi bắt đầu tập viết, ở đây, vào năm mười tám tuổi, tôi viết bài tiểu luận đầu tiên đăng trên tạp chí Thanh Nghị là tờ báo của trí thức. Cũng năm này, tôi viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên nhan đề áo trắng mang đến Nhà xuất bản á Châu và gặp anh Hồ DZếnh.
  • Về sau, trong kháng chiến chống Pháp, lục tìm tủ sách của Yến Lan, tôi bắt gặp một chồng giấy cao kinh hoàng của Chế Lan Viên. Anh ra Hà Nội trước tôi mấy năm. Bao nhiêu anh em mà bấy giờ tôi chưa được biết nữa, cả một thế hệ đòi lớn gấp lên. Một hôm ở thư viện, ngồi trước mặt tôi, là một anh học sinh mặc áo dài đen, cổ quấn chiếc khăn len to sù, đang ngồi viết sách. Linh tính tôi đoán đây là Nguyễn Đình Thi, lúc bấy giờ anh còn đi học, nhưng đã nổi tiếng vì mấy cuốn sách triết học. Đến khi cùng nhau đến quầy lấy sách, tôi kiễng chân nhìn phiếu ghi của anh, thì ra Nguyễn Đình Thi thật. Về sau, hai mươi năm chống Mỹ, có dịp về ở chung một nhà, chúng tôi không thân nhau, nhưng rất lâu từ ngày đó, tôi tự hào đã biết tác giả Diệt phát-xít như thế, đến nỗi còn nhớ số nhà trọ của anh ở phố Huế mà chắc anh đã quên rồi. Đến nỗi tôi đã gửi cho anh bức thư của Đại tá Rốp-bơ, chánh kiểm duyệt Pháp gửi cho tôi về cuốn áo trắng không được in, hồi đó anh là trưởng ban điều tra tội ác của thực dân Pháp về văn hoá. Trong những năm trước và đầu cách mạng, anh là hình mẫu của tôi.
  • Tại đây, những ngày trước cách mạng tháng Tám, tôi chứng kiến cảnh đói khủng khiếp năm ất Dậu, ngươi ta vừa đi vừa ngã quay ra chết, và các hướng đạo sinh vội vã chở đi chôn những xe chất đầy xác, trong đống xác còn những người chưa chết hẳn. Tôi là một tráng sinh đó, ngày ngày xách rá đi xin mỗi nhà một nắm cơm để phát cho những người ăn xin đông nghịt ở phố Quán Sứ, đến lúc không còn gì để cho nữa thì chúng tôi bật khóc theo người ăn xin. Đến lúc chúng tôi những học sinh quê miền Trung, miền Nam sợ nạn đói lây cả đến bản thân mình, chúng tôi vội vã chạy về quê.
  • Rồi lại vội vã trở lại Hà Nội, vì Cách mạng tháng Tám đã bùng nổ. Chào mừng cách mạng, anh em trẻ chúng tôi cứ cuống quít lên vì cho rằng trang bị của bản thân mình không có gì để tham gia xây dựng xã hội vĩ đại mới. Chúng tôi luôn luôn bị giằng xé giữa hoạt động và học tập. Nhân một bài viết của tôi gần đây, anh Xuân Diệu nhận xét tôi cứ trở đi trở lại những câu hỏi viết cho ai? viết để làm gì? hoài. Quả thực, đó là băn khoăn rất lâu của tôi. “Khoa học, dân tộc, đại chúng” là tiêu đề một bài viết của tôi ngày ấy trên tạp chí Tân văn hoá ở Huế, và vấn đề đó cũng là nội dung một cuốn sách nhỏ nhưng khá đẹp của tôi (nhờ anh Lương Xuân Nhị vẽ bìa) nhan đề Chiến tuyến văn hoá, Nhà xuất bản Đời mới in để chào mừng cách mạng. Với những hoạt động ấy, tôi được mời dự Hội nghị văn hoá toàn quốc mùa đông năm ấy, ngồi cạnh Trúc Khê, Ngô Văn Triện và Trọng Hứa. Nhân dịp này, tôi cũng gặp lại Chế Lan Viên mà tôi đã đi vào chỗ thân tình năm trước ở Quy Nhơn. Lúc nào tôi cũng xúc động khi nhớ tới hình ảnh anh đưa tay ngang tai chào đoàn biểu tình của quần chúng đi qua. Mới một năm mà Chế đã có vẻ được rèn luyện nhiều, tư tưởng ổn hẳn. Anh là một nhà thơ, còn tôi chỉ mới là một người học trò nhiều tham vọng nhưng chưa có kinh nghiệm gì.
  • Tôi lần lượt ra ga tiễn những đoàn quân Nam tiến, ngày càng đông, vào để chiến đấu ở quê tôi. Tôi lần lượt tiễn các bạn tôi về miền Trung. Ngay lúc vang lên những tiếng nổ tàn sát của thực dân Pháp ở phố Hàng Bún, tôi đang ở ngoài ga. Những ngày trước, tôi đã sung vào một đội tuyên truyền xung phong khu Bẩy mẫu. Tám giờ năm phút tối 19 tháng 12 năm ấy, đèn tắt phụt , ầm lên một tiếng dữ dội, thế là cuộc kháng chiến bắt đầu. Tôi chui qua tường từng dẫy phố tôi ở phố Duy-vi-nhô (nay là Triệu Việt Vương), chỉ có một câu nghĩ lại buồn cười, rỉ tai mọi người để động viên bà con “ Ta đánh trước đấy mà!” Đêm ấy là một đêm rất đẹp, tôi còn nhớ. Dưới mặt đất, đang diễn ra những sự việc anh hùng, trên cao sáng rõ một trời sao. Khuya, hiện lên ở phía Tây thủ đô một vầng trăng  lưỡi liềm như bằng bạc, có ba ngôi sao chầu ba bên, rõ là chữ Tâm mà Nguyễn Du tả trong Truyện Kiều. Tôi quyết định lên đường đi bộ về Nam chiến đấu ở quê hương.
  • II.
  • Vậy đó mà tám năm tôi mới trở lại Hà Nội. Đối với tôi, cuộc trường chinh tám năm đi chống Pháp là để trở lại Hà Nội hôm nay và mãi mãi, viết văn mãi mãi.
  • Trở về Hà Nội, lần này, tôi có một căn buồng riêng, là căn buồng, ba mươi năm đã qua, tôi vẫn ở bây giờ, trong kháng chiến chống Pháp, tôi xuôi ngược nhiều, loay hoay nhiều và tưởng đã tìm ra một số bí quyết. Về Hà Nội, tôi nhận ra nhanh chóng những cái mình đạt được còn thấp xa so với nhiệm vụ của mình, nếu mình lấy việc viết làm nhiệm vụ, và căn buồng của tôi ba mươi năm liền thấy tôi gồng sức để có thể từ một người viết trở nên một nhà văn, theo đuổi kịp bạn bè. Căn buồng này quen thuộc hết bạn bè của tôi, thường nhìn thấy tôi hếch cái mặt đần độn của mình lên mà nghe chuyện, đến lúc tiễn bạn về xong, kín đáo ghi vào sổ tay một ý gì mình vừa nhặt được, nó có khi thực sự là thành quả của tôi ngày hôm đó. ở Hà Nội, bao giờ cũng có những người bạn cho mình học nghề, những người bạn có khi thật trẻ cũng có khía cạnh đáng cho mình học. Và tôi nhận ra nhanh chóng sáng tác bao giờ cũng có nghĩa là viết về một địa phương nào, nhưng muốn viết về địa phương nào thì viết, sáng tác của anh phải được Hà Nội sàng lọc và công nhận, những người đánh giá đó là tập thể những người sành có nhiều ôm ấp như những người bạn của tôi.
  • Căn buồng của tôi cũng còn ghi nhớ những kỷ niệm về những độc giả, về sau trở nên nhân vật của tôi họ từ miền Nam lúc còn đen tối ra, hay từ các công trường ở miền Bắc tới, kể cho tôi nghe chuyện của họ, và tôi thấy thế nào cũng phải viết những chuyện đó, đó là một bổn phận. Nhà người thợ giặt, bây giờ tôi có thể nói được không, là một dị bản mà một mô-măng của cuộc đời Trần Thị Lý gợi cho tôi, và Sáng mai nào xế chiều nào thoát từ câu chuyện anh Dinh, giám đốc mỏ T, gợi cho tôi đúng ngày giải phóng quê hương.
  • Căn buồng này lại trông thấy tôi khi nào sống được là chẳng mấy khi chịu ở nhà, đi có thể nói khắp nơi trong nước, có những nơi rất hẻo lánh, tôi tưởng trong đời chỉ đến một lần không ngờ đến lần thứ hai, rồi thứ ba. Tôi nghĩ nếu buộc chân tôi lại, không cho tôi đi thực tế nữa, thì cũng cầm bằng buộc tôi vào cái thế phải tuyệt đường sinh đẻ. Tôi nghĩ rằng trong mỗi truyện ngắn của tôi viết về các địa phương, bao giờ cũng có mặt một nhân vật Hà Nội, nhân vật đó là tôi. Tôi đã cho lăn trái tim người Hà Nội của tôi đến các nơi ấy, nghe phản ứng của nó và viết. Tôi tự nhận là một nhà văn Hà Nội, mặc dù tôi chưa viết được gì nhiều. Có một lần, về nhà, tôi được bà hàng xóm giao lại một bức thư kèm theo một món quà. Thư viết “Tôi vừa đọc truyện Người Hà Nội của anh đăng trên tạp chí Tác phẩm mới. Anh hãy tiếp tục viết như thế”. Tôi ơn người viết thư suốt đời, Hà Nội có những độc giả tuyệt vời và chờ mong chúng ta như vậy. Chúng ta tiến tới nhờ những người đó. Tôi ở Hà Nội nửa đời người, nhưng chưa viết được cái gì về Hà Nội đáng giá. Nhưng tôi không mạo muội khi nói rằng chính là nhờ Hà Nội mà tôi trở nên người cầm bút phục vụ cho đất nước. Nghề nghiệp bao giờ cũng là cái hạnh phúc cao nhất của tôi và đối với người viết văn, nơi nào giúp anh làm  tốt nghề anh, nơi ấy thực sự là quê quán, cho nên đối với tôi, không gì sẽ thay thế được căn buồng 20 mét 300 của tôi. Tôi muốn bè bạn, sách vở, nếp làm việc, nếp suy nghĩ đó tiếp tục giúp tôi sinh nở ngày nào tôi còn sống.
  • (Trích)
  • Đoàn Giỏi
  • Vào khoảng niên học 1956-1957, khi đang học lớp sáu tại trường Chu Văn An, Hà Nội, tôi từng được học một bài “Văn học trích giảng” mang tên  Ký ức tuổi thơ. Tá giả bài văn đó kể lại hình ảnh những con người miền Bắc sớm đến trong tâm trí một cậu bé ở một làng quê Nam Bộ. Một ông thợ ngoã chít khăn đóng về chữa tam quan đình làng, lúc rỗi lại hát cho lũ trẻ đứng cạnh nghe Làm trai cho đáng nên trai – Phú Xuân cũng trải, đồng Nai cũng từng Những cô gái áo nâu non khăn mỏ quạ thắt lưng xanh hoa lý về làng bán lụa. Và những người quẩy đôi đôi bồ thuốc bán đủ các thứ cao, quế. ý tác giả muốn nói: từ lâu với bà con quê Nam, miền Bắc đã rất gần gũi thân thuộc.
  • Nhà văn đó là Đoàn Giỏi.
  • Câu chuyện của chúng tôi hôm nay về Hà Nội cũng bắt đầu từ những ký ức tuổi thơ loại đó.
  • – Làng tôi chỉ cách Sài Gòn có 50 cây số… Trước cách mạng, đâu có mấy ai đi xa, thành thử hiểu về ngoài này còn ít lắm. Đại khái ngoài Nam kỳ lục tỉnh, từ Phan Thiết trở ra, đều gọi là Huế hết. Mãi đến kháng chiến chống Pháp, cán bộ, bộ đội ngoài vào nhiều, bà con mới phân biệt này là Huế Trung, kia là Huế Bắc. Nhưng tình cảm đối với miền Bắc thì sâu nặng thiêng liêng lắm.
  • – Vậy anh đến Hà Nội lần đầu tiên vào hồi nào?
  • – Ngày 14 tháng mười năm năm tư. Bấy giờ sau khi Thủ đô giải phóng, để lo việc tiếp quản cho tốt, không chỉ có cán bộ từ Việt Bắc về, mà còn có cả những đoàn cán bộ miền Nam được điều ra (chưa phải là cán bộ tập kết, chuyện ấy không kể vào đây). Đoàn tôi là đoàn tuyên truyền báo chí do anh Lưu Quý Kỳ dẫn đầu. Và tôi được đặt chân lên đất Hà Nội sau khi giải phóng thủ đô có bốn ngày. Lúc bấy giờ, tôi mới 29 tuổi, những ấn tượng mới về Hà Nội vào trong mình cũng nhanh mà kỷ niệm về miền Nam cũng còn hết sức tươi tắn… Tôi nhớ ra rồi, những đoạn “ký ức” mà cậu vừa kể là trích ra từ bài Giòng máu Việt phải lưu thông, tôi viết trên báo Văn Nghệ cuối năm 1955, nghĩa là ba chục năm trước. Cũng khoảng thời gian ấy, được sự cổ vũ của anh em đồng hướng lẫn bè bạn viết văn, tôi còn viết luôn được mấy bài Cây đước Cà Mâu, Ngọn tầm vông, Đèn tôi bay về lục Hồ Chí Minh và nhiều bài khác. Chẳng qua cũng là một cách giới thiệu với bà con ngoài này mấy nét về quê hương mình.
  • – Và anh cũng đã viết luôn “Đất rừng phương nam” từ những ngày này?
  • – Năm 1957. Thoạt đầu tôi chỉ tính viết cho mục Tổ quốc ta tươi đẹp của Đài tiếng nói Việt Nam, sau mới gom lại dần làm nên cuốn sách. Trong bài giới thiệu viết cho Đất rừng phương nam, anh Tô Hoài có nói đại ý đọc sách thấy gợi lên tình yêu với mọi miền quê khác của đất nước. Tôi cho như thế là hiểu tôi lắm.
  • Vậy là do sống giữa Hà Nội, nhà văn này đã viết được những dòng hay nhất về quê hương mình. Nhưng còn chính Hà Nội đã vào trong tâm khảm con người miền Nam này ra sao? Với một vẻ say sưa kín đáo, Đoàn Giỏi bắt đầu bằng cách nói về thiên nhiên.
  • – Tôi còn nhớ rất rõ cái lần từ bến Sầm Sơn, tôi phóng xe thẳng về Hà Nội, đúng ba chục năm trước. Bấy giờ miền Bắc đang là mùa thu, đất-trời-cây- cỏ tất cả là một gam xanh hoà hợp, ở đây có đủ màu xanh – xanh thẫm, xanh lá mạ, xanh ve chai. Tôi thầm nghĩ, học hội hoạ phải học ở Hà Nội, cũng như làm văn nghệ nói chung phải có lúc ở Hà Nội. Như người phương Tây phải có lúc ở Pa-ri. Hà Nội là trung tâm văn hoá của cả nước mà! Chỉ ở đây mới có một thiên nhiên nhiều vẻ đến như vậy, và con người thì khéo léo hoà theo thiên nhiên đến như vậy. Hoà hợp một cách giản dị, như mùa hè có mùng tơi, rau đay, cà, những món ăn tôi cũng rất thích.
  • Nói riêng về thiên nhiên trên đất Hà Nội. Từng ấy năm sống ở đấy mà cây cối vẫn làm tôi kinh ngạc về sức sống và vẻ đẹp của nó. Tôi yêu gì ư? Tôi yêu từ cây gạo, cây vông vang, những hàng phượng rực rỡ tới những hàng cơm nguội lặng lẽ và một ít gốc bồ đề hiếm hoi. Một thứ cây mà Hà Nội có rất nhiều là cây xà cừ. Theo tôi, xà cừ cuối xuân thay lá trông rất bình thường, nhưng chỉ sang thu, đứng dưới vòm lá nhìn nó theo lối trong nhiếp ảnh người ta gọi là  ngược sáng mới thấy thật là đẹp. Lại có những cây mùa nào cũng đẹp như cây bàng. Mùa xuân lá bàng mới nẩy trông như những ngọn lửa xanh. Sang hè, lá lên thật dầy, ánh nắng xuyên qua chỉ còn là màu ngọc bích. Khi lá bàng ngả sang mầu vàng đục ấy là mùa thu. Sang đến những ngày cuối đông, màu là bàng rụng nó lại có vẻ đẹp riêng…
  • –  Thưa, đấy có phải là vẻ huy hoàng của một cái gì đang tàn tạ nên càng làm mình ngẩn ngơ?
  • – Có lẽ nói thế cũng được. Những là bàng mùa đông đỏ như đồng hun ấy, sự biến đổi kỳ ảo trong gam đỏ của nó, tôi có thể nhìn cả ngày không chán. Năm nào tôi cũng chọn lấy mấy lá thật đẹp, về phủ một lớp dầu mỏng, bày lên bàn viết. Cậu có biết nó gợi lên chất liệu gì không? Chất sơn mài. Cái thú của người nhìn cây, nhìn hoa là biết nhìn ra vẻ đẹp ở những chỗ nguời khác lướt đi bỏ qua. Chẳng hạn có mấy ai nói cây sung là đẹp. Nhưng tôi thấy bên những cầu ao đầy nước vào mùa quả chín đỏ, những cây sung già rất đẹp, cũng như cây khế vào mùa ra hoa trông mộc mạc cũng rất đẹp. Đó là những vẻ đẹp mà từ khi ra Bắc, ra với Hà Nội, tôi mới nhận thấy.
  • Một phương diện khác làm nên ảnh hưởng của Hà Nội trong một nhà văn như Đoàn Giỏi mấy chục năm qua: ở đây anh thực sự bắt tay làm cái nghề chính trong đời mình, là nghề cầm bút. ở chỗ này nữa, nhà văn cũng thấy có nhiều kỷ niệm vô cùng thân thiết.
  • – Với Hà Nội, cuộc đời viết văn của tôi có thêm những người bạn mới Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài… Có những người vừa gặp đã thân ngay như ông Tưởng, ông dẫn tôi đi khắp Hà Nội thưởng thức các món ăn, từ những của hàng sang trọng, tới quán ông Thuỷ Hử giữa xóm nghèo, một hai giờ đêm anh em xích-lô đảo qua còn có cái ăn. Một lần trời tối, mưa lất phất, đường lầy lội. Nguyễn Huy Tưởng dẫn tôi đến một căn phòng lụp xụp, chung quanh tường bày đầy tranh và bảo “Đây là một người bạn trẻ nữa của tôi”. Đó là hoạ sĩ Trọng Kiệm. Tôi quen Trọng Kiệm từ đấy. Còn Nguyễn Tuân. Riêng một chuyện kéo nhau đi ngắm những dáng cây lạ cũng đã làm nên kỷ niệm của một tình bạn vong niên giữa ông với tôi. Có một cây xoan bên hông Nhà hát lớn, cao hơn những cây gạo bình thường, thân đến hai người ôm. Có lẽ nó thuộc loại cao niên nhất trong cây cối ở miền Bắc. Chúng tôi đã bao lần đứng ngắm nó hùng vĩ, khoáng đạt. Năm 1977, bỗng không hiểu sao, cây bị đốn, chúng tôi ra thấy người ta xẻ nó làm ván ngay cạnh gốc cũ. Thật đau lòng như mất một người bạn! A, nói tới Hà Nội những năm sau 1954, còn phải nói một người rất gần với tôi nữa là Nguyễn Bính. Tôi với Nguyễn Bính vốn là bồ với nhau từ hồi còn làm báo ở bưng biền. Ra Hà Nội, Nguyễn Bính dẫn tôi tới chơi nhiều anh em làm nghề này mà ông quen từ xưa, lại dạy tôi ăn những món ăn ngoài này như tiết canh vịt, chả rươi, gỏi cá mà trước đó tôi rất sợ. Càng ngày tôi càng nhận ra rằng sở dĩ mình gắn bó với Hà Nội vì ở đó những tấm lòng bè bạn chân thành. Tôi và Nguyễn Tuân giờ đây, có thể mấy tháng không đến nhau, nhưng cứ nghĩ rằng mình với ông vẫn đang ở một thành phố, muốn lại chơi lúc nào cũng có thể lại được thế là lại thấy yên lòng. Lại còn các bạn trẻ khác nữa… Như đỗ Chu, tôi thấy văn thật nền nã, chín, y như tiếng nói miền Bắc, tiếng nói Hà Nội mà từ lâu chúng tôi đã mến phục.
  • Chia tay, tôi hỏi Đoàn Giỏi “Thế nào anh cũng phải viết về Hà Nội để trả nợ chứ?” thì anh mỉm cười, trút một hơi thuốc lào kêu tanh tách, từ từ nhả khói mơ màng nhìn theo làn khói, gật gù. “Có chứ. Mà phải khi vào trong kia viết mới hay được”. Tôi tin điều đó, bởi lẽ có thể nói, Đoàn Giỏi là một nhà văn của những kỷ niệm, mà giờ đây, thì Hà Nội đối với anh đã là những kỷ niệm của một đời người!
  • Hà Nội và một lớp nhà văn mặc áo lính
  • Tháng 4-1940. Giữa núi rừng Việt Bắc, một hội nghị văn nghệ đặc biệt được triệu tập – Hội nghị văn nghệ toàn quân. Tại hội nghị đó, bên cạnh Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Văn Khoa, Nguyên Hồng, Thanh Tịnh, Nam Cao, Tô Hoài… – những nhân vật văn học ít nhiều chúng ta đã gặp trong lòng Hà Nội trước 1945 – thấy xuất hiện những đại diện của một lực lượng những người viết chỉ mới cầm bút từ sau cách mạng và hiện đang mặc áo lính nhưng bắt đầu mang lại cho văn học những tiếng nói mới. Đó là Chính Hữu, Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Lưu Hương, Siêu Hải…. Sau này, đội ngũ đó sẽ được bổ sung thêm những ngòi bút rất khoẻ và cũng rất giàu sức sáng tạo: Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hồ Phương, Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyễn Minh Châu….
  • Đây là một đội ngũ viết văn có những đặc điểm riêng và mối quan hệ của họ với Hà Nội cũng có những đặc điểm riêng. Trong đội ngũ đó, có những người từng là học sinh Hà Nội mê văn chương rồi được  ánh lửa của sáu mươi ngày đêm chiến đấu của Thủ đô cổ vũ mà thấy ngọn lửa xúc cảm trong lòng mình càng bốc cao, như Chính Hữu, Hồ Phương, nhưng lại có những người mãi sau này mới làm quen với Thủ đô, nhìn bề ngoài thì sự nghiệp văn học có vẻ không liên quan gì đến Hà Nội cả, nhưng sự thật mỗi người vẫn từ đấy mà trưởng thành. Lúc mỗi người có dịp suy nghĩ nghiêm túc về nghề văn của mình cũng là lúc bản thân nhận ra những ảnh hưởng to lớn của Hà Nội mà thiếu đi, chắc đời văn của mình sẽ khác.
  • Trần Đăng – Hoàng Lộc
  • Vũ Cao – Từ Bích Hoàng
  • Tô Hoài, Bùi Hiển, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh.. nếu có thể coi các nhà văn sinh khoảng 1920 đó là lớp nhà văn trẻ nhất đã hình thành sự nghiệp trước Cách mạng tháng Tám, thì tiếp sau họ, không phải là khoảng trống. Trong số những học sinh trường Bưởi, trường Thăng Long… nổi tiếng của Hà Nội trước 1945 đã có nhiều thanh niên khác, đầy tài năng và tâm huyết, mới thử sức trên sổ tay với những bản thảo dang dở và đang tính chuyện sẽ tìm một chỗ thích hợp để đặt tên mình trong lâu đài văn học. Đội ngũ ngày sinh khoảng 1920 về sau, tức là khi cách mạng thành công, họ ở vào lứa tuổi đầy sức sống 20 -25. Bắt được không khí đời sống mới, họ bắt đầu viết. Và với việc đứng trong hàng ngũ Vệ quốc quân làm văn làm báo, cách viết của họ, quan niệm của họ về nghề văn cũng có những đổi mới, rõ rệt.
  • Một trong những trường hợp đó là Trần Đăng mà chúng ta đã biết. Trước khi đến với cách mạng đó là một thanh niên Hà Nội tài hoa, lịch sự, ham mê thể thao, và rất ham học.
  • Cụ thân sinh ra anh vốn là thủ thư ở trường đại học, bởi vậy, cụ chỉ mong cho con học hành nên người. Và Trần Đăng đã nhờ vào kho sách do ông cụ quản lý để đọc rất nhiều cả sách tiếng Pháp lẫn tiếng Việt.
  • Mặc dù những ngày đầu cách mạng, Trần Đăng viết còn ít, nhưng anh đã được coi như một nhân vật của đời sống văn hoá thủ đô.
  • Trong một tuyên bố của giới văn hoá tiến bộ ở ta công bố 1946, có tất cả 87 nhân vật văn hoá ký tên, người ta thấy có tên Đặng Trần Thi tức Trần Đăng bên cạnh Nguyễn Công Hoan, Xuân Diệu, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng v.v…
  • Bài viết tiêu biểu của Trần Đăng hồi đầu cách mạng mang tên Một lần tới Thủ đô. Cảm hứng chính của thiên bút ký pha chính luận này là ý hướng muốn từ  biệt Hà Nội, xa lánh nó, không dây dưa gì với nó. Cái mà Trần Đăng muốn xa lánh bấy giờ là Hà Nội cũ, Hà Nội trong nhung lụa, một thứ kinh thành hoa lệ đẹp đẽ, sáng sủa nhưng ích kỷ, truỵ lạc.
  • Có điều, một sự phủ nhận kiên quyết như vậy chỉ có thể nảy sinh ở một con người đã hiểu kỹ Hà Nội và thấm nhuần truyền thống dám phủ nhận mình, làm lại mình của Hà Nội từ xưa đến nay. Đó là cái phần lành mạnh, khoẻ khoắn của Thủ đô mà những sinh viên tiến bộ như Trần Đăng đã tiếp nhận được.
  • Bên cạnh Trần Đăng, một thanh niên tiêu biểu khác của Hà Nội những năm đầu kháng chiến là Hoàng Lộc. Tuy không viết ra những tuyên ngôn như Một lần tới Thủ đô, và để lại nhiều trang nhật ký quằn quại muốn thay đổi như Trần Đăng, song chúng ta hiểu Hoàng Lộc cũng trải qua những đoạn trường tương tự. Làm sao khác được, đối với một người ở trong một hoàn cảnh thay đổi ghê gớm, khi vài  ba năm trước, còn viết những bài thơ uỷ mị làm xiêu lòng những cô gái Hàng Ngang, Hàng Đào, khiến các cô ấy phải góp tiền để in thơ của mình, vài năm sau đã lăn lộn giữa các chiến sĩ Vệ quốc, hút thuốc lá dùi phìn Cao Lạng, đắp chăn chung ba người với anh em đội viên, nghe họ kể chuyện tâm tình và trở về toà soạn giữa rừng Việt Bắc, ngồi  viết Chặt gọng kìm đường số 4 dưới ánh “nến”  nhựa trám tuôn khói khét lẹt?
  • Cả Trần Đăng và Hoàng Lộc đều đã thay đổi nhiều.
  • Nhưng trong sự thay đổi ấy, lòng yêu Hà Nội trong họ vẫn “canh cánh bên lòng”. Trong tuỳ bút Cháy bản thảo in trong tập Tình chiến dịch, nhà văn Nguyễn Tuân kể: Trước khi lên Đồng Đăng cùng với bộ đội chiến đấu và hy sinh tại bản N. L., Trần Đăng còn cùng với Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi mở lớp huấn luyện văn nghệ cho bộ đội. Và lúc chia tay, họ chào nhau bằng cái gật đầu “Chiến thắng Thủ đô!”
  • Qua cả Trần Đăng và Hoàng Lộc, chúng ta thấy một sự thực, sức sống của truyền thống văn học là rất mạnh mẽ, nó có khả năng giúp cho những thanh niên vốn đã nặng căn với sách vở tri thức cũ có thể “từ bỏ” chính mình để chan hoà vào sinh hoạt của anh em đội viên hiền lành (như hồi ấy người ta vẫn gọi), chan hoà vào quần chúng công nông, viết về họ, diễn tả được mọi sắc thái tình cảm ở họ.
  • Cả Trần Đăng, Hoàng Lộc đều mất từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhưng giá còn sống, quay về với Hà Nội, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chắc họ sẽ nghĩ được nhiều điều mới về Thủ đô và tìm thấy nơi đây một nguồn động viên mạnh mẽ cùng những vốn liếng quý báu cần thiết cho một người viết.
  • Đấy là điều những nhà văn trưởng thành cùng thời ấy, như Vũ Cao, Từ Bích Hoàng cảm thấy rất rõ.
  • Vốn quê ở Nam Định, nhưng từ những năm bốn mươi trở đi nhà văn Vũ Cao đã ra học Thành chung ở trường tư thục Thăng Long, và cùng với người em trai là Vũ Tú Nam trọ học ở một căn gác phố Hà Trung. Đến nay Vũ Cao còn nhớ rất rõ tâm trạng của lớp học sinh như anh hồi ấy, các anh không cắm cúi học, “học gạo” , học cốt kiếm lấy mảnh bằng như một số bạn bè, song cũng không nhiều tiền để lấy ăn chơi làm lẽ sống, như một số thanh niên khác, do đó các anh thường sống trong chán nản, ngơ ngác, không hiểu đời mình sẽ đi đến đâu. Chỉ còn một lối thoát đối với những người như Vũ Cao lúc ấy là đọc sách, và các anh đã đọc, mải miết, cắm cúi. Cả một thế giới phong phú trong sách vở mở ra, ít nhiều mang lại cho người thanh niên này niềm vui cùng những ý tưởng lành mạnh.
  • Chẳng hạn có lần, một người bạn đưa cho Vũ Cao cuốn Tội ác và trừng phạt của Đô-xtôi-ép-xki, anh đọc ngày đọc đêm và lờ mờ cảm hấy Hà Nội của mình rất giống với thành phố Pê-téc-bua được tả trong truyện, còn bản thân mình cũng rất gần với anh sinh viên, và gần với cả cô gái trong đó nữa.
  • Thành thử, có thể nói rằng do sống hết một phía nào đó của Hà Nội trước cách mạng – cái nghèo nàn, buồn tẻ vô vọng của thành phố, – mà Vũ Cao sau nay có thể thoải mái bước vào hoạt động cách mạng, sẵn sàng đi tới các đơn vị viết bài, đưa tin, điểm ca dao bích báo, v.v… và làm mọi việc khác miễn là việc có ích cho kháng chiến.
  • Đứng về góc độ một người sáng tác mà xét, phải nhận Vũ Cao viết hơi ít, hai tập thơ mỏng và vài cuốn văn xuôi. Chính anh cũng thấy những tác phẩm này chẳng có gì quan trọng cho lắm. Tuy nhiên, hơn ở đâu hết, trong văn học, chuyện chất lượng có vai trò chi phối thật nghiệt ngã. Có những người nghe nhắc đến tên, ai cũng biết là nhà văn, nhà thơ, bởi luôn luôn thấy tên trên mặt báo, song khi cần gọi ra một bài tiêu biểu thôi, thì không ai biết lấy bài gì, bởi các bài đều sàn sàn như nhau, không có bài nào trội hẳn. Lại có những người viết không nhiều, song có cái may là có một hai bài được lưu truyền rộng và để lại ấn tượng đậm đà trong quần chúng cũng như trong anh em cùng nghề đến mức nhắc đến tác giả ấy là phải nói tới bài thơ ấy. Vũ Cao là một ví dụ về trường hợp thứ hai mà chúng ta đang nói. Bài Núi Đôi của anh được phổ biến rộng rãi, thậm chí nhiều người cứ chép Núi Đôi, đọc Núi Đôi, Bảy năm về trước em mười bảy – Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng, mà không biết tác giả nó là ai. Với Núi Đôi, ta hiểu tại sao người ta hay gọi Vũ Cao là nhà thơ hơn là nhà văn, dù anh cũng có mấy tập văn xuôi.
  • Đấy là xét riêng về phần sáng tác. Nhưng theo nhận xét của nhiều anh em cả trẻ lẫn già, thì đóng góp chủ yếu của Vũ Cao mấy chục năm gần đây, là làm công việc quản lý các cơ quan báo chí xuất bản, như tạp chí Văn nghệ Quân đội, như nhà xuất bản Hà Nội. Chắc chắn những lịch duyệt của một thanh niên Thủ đô cộng với sự từng trải của một người làm báo từ hồi có từ Vệ quốc quân ở Việt Bắc, sau nữa là vốn kiến thức Vũ Cao thường xuyên bồi đắp cho mình hôm nay, đã có phần đóng góp không nhỏ cho công việc của anh.
  • Khi Vũ Cao phụ trách tạp chí Văn nghệ Quân đội thì người cộng sự gần gũi nhất của anh là Từ Bích Hoàng. Nhìn bề ngoài, nhiều người chỉ thấy đây là một biên tập viên cần cù, thận trọng, chừng mực và đối xử với anh em trong toà soạn cũng như ở ngoài vừa chí tình, vừa có nguyên tắc.
  • Nhưng một lần khi mới về tạp chí này vài năm, tôi hỏi anh Thanh Tịnh, người cao tuổi nhất trong cơ quan, cũng là người quen thuộc nhất với giới văn học từ trước cách mạng:
  • – Theo anh, ở cái nhà 4 Lý Nam Đế này, ai rõ nhất Hà Nội nhất?
  • – Từ Bích Hoàng. – Thanh Tịnh trả lời không ngần ngại và cũng không phải suy tính nhiều.
  • Chỉ dần dà ở lâu, tôi mới thấy nhận xét của Thanh Tịnh là đúng. Nếu hiểu Hà Nội là hoạt, nhan nhản, hơi láu vặt một chút người ta có thể nghĩ tới anh A, anh B. Chất Hà Nội của Từ Bích Hoàng hiện ra ở chỗ khác, lịch sự, nhã nhặn, và đó là tinh thần quán xuyến cả trong công việc lẫn trong sinh hoạt hàng ngày.
  • Ví như, khi ra chỗ đông người. Một cán bộ trong cơ quan, anh Hà Trì phân tích. “Có vào hàng  cà-phê với Từ Bích Hoàng mới biết ông Hoàng Hà Nội ô-ri-gin thế nào. Nghĩa là tài hoa, khéo, từng trải… đủ thứ phẩm chất mà người ta chỉ có thể vị nể”.
  • Nhiều người khác, như Mai Ngữ, Nguyễn Minh Châu cũng nói vậy. Nhằm cắt nghĩa mọi chuyện cho hợp lý, những người ở lâu trong cơ quan còn kể mấy nét quá khứ của Từ Bích Hoàng : Trước cách mạng, anh đã là sinh viên đại học. Hồi ấy có thời anh rất “chơi”, rất “điệu”. Chỉ qua kháng chiến, Từ Bích Hoàng mới thay đổi để thành người như hiện nay.
  • Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Tuân từng kể với chúng ta về quyết tâm “tự cải tạo” ở Trần Đăng. Từ Bích Hoàng cũng có những ấn tượng về Trần Đăng tương tự.
  • Đến toà soạn Vệ quốc quân lần đầu, Trần Đăng tuyên bố với những anh em cũ ở đấy, trong đó có Từ Bích Hoàng:
  • – Cả cuộc đời cũ của mình chỉ còn sót cái này (cái quần tây vải đoóc-mơi cũ V.T.N.). Mình sẽ cho nó đi nốt, khi có cái thay. Mình cho hết, vứt hết dọc đường lên đây rồi, cả cái ở trong này (anh chỉ vào trái tim) – Đúng thế, phải làm lại cuộc đời.
  • Khi thuật lại đến chỗ này, Từ Bích Hoàng nói thêm: “Chúng tôi reo lên. Dạo ấy, mấy anh em chúng tôi từ Hà Nội đi kháng chiến, còn chập chững trên con đường theo cách mạng, thường hay lúc hét to lên, lúc lại thầm thì cái câu khá kêu ấy, để tự động viên mình, một cách hết sức thành thật”.
  • Từ một đoạn đường tự bạch ngắn ngủi này suy ra có thể đoán những bước đường tư tưởng của Trần Đăng, mà chúng ta vẫn nghe nói, cũng là tâm tình có thật ở Từ Bích Hoàng.
  • Các anh là những bóng dáng tiêu biểu cho thanh niên Hà Nội một thời. đứng về phía những người hoạt động văn học mà xét, các anh được ghi nhận như tiếng nói phủ nhận Hà Nội cũ, và tìm cho mình một lý tưởng mới. Nhiều mong mỏi của các anh sẽ được bè bạn và những đồng nghiệp trẻ hơn thực hiện.
  • Nguyễn Khải
  • Mở đầu truyện ngắn Người gặp hàng ngày, in 1982, khi tác giả đã không ở Hà Nội nữa, mà cùng với gia đình chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Khải viết một đoạn tự sự dài, trong đó anh tự nhận lâu nay, anh toàn viết những chuyện đâu đâu, người đâu đâu, còn chuyện nghe hàng ngày, người gặp hàng ngày, thì tuồng như còn nhiều xa lạ”. Một lời tự thú rằng mình nhạt nhẽo với cái khu tập thể sát mép nước bờ sông Cái, mà gia đình mình đã ở hai chục năm liền! Mà nếu có bảo là sự tự thú về sự nhạt nhẽo với Hà Nội thì cũng được!
  • Từ Trần Đăng nói trên, qua Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, chúng ta đã thấy một sự thực là các nhà văn hầu như ít về về Hà Nội. Vì các anh là một lớp nhà văn mặc áo lính, mà cuộc đời của người chiến sĩ thì luôn luôn ở nơi xa xôi, những miền biên cương hẻo lánh, những nơi có chiến trận.
  • Vì yêu cầu của chính độc giả Hà Nội một thời cũng là hướng cả về những miền xa như vậy, và Nguyễn Khải chỉ thực hiện những yêu cầu ấy một cách nghiêm túc.
  • Nhưng không viết, không có nghĩa là không yêu, không gắn bó, lại càng không có nghĩa là xem nhẹ ảnh hưởng của thủ đô trong đời văn của mình.
  • Có một sự thực hiển nhiên là tuy đã viết từ 1951-52 nhưng Nguyễn Khải chỉ thật sự được biết nhiều từ 1957, tức là sau khi hoà bình lập lại, về sinh hoạt cùng với nhiều đồng nghiệp khác ở tạp chí Văn nghệ quân đội. Có một Nguyễn Khải của những vùng công giáo được mô tả trong Xung đột, Cha và con và…, có một Nguyễn Khải của Điện Biên, những trang văn xuôi trữ tình làm nên Mùa lạc), lại có một Nguyễn Khải với  những phòng khách sang trọng trong thành phố Hồ Chí Minh ( kịch Cách mạng, truyện vừa Gặp gỡ cuối năm).
  • Nhưng sở dĩ có được những Nguyễn Khải đó là vì có được một Nguyễn Khải – Hà Nội mà bạn bè, những người quen và anh em trong giới đều biết.
  • Khi nghe tôi nói “ Có những nhà văn nhà thơ nào chỉ cho có cách sống, cách nghĩ Hà Nội hơn cả?” nhà thơ Xuân Quỳnh nhắc ngay Nguyễn Khải bên cạnh một vài tên tuổi quen thuộc khác.
  • Nhà thơ Xuân Sách cũng hoàn toàn đồng ý với ý ngỹi đó, anh nói thêm. “Hà Nội cổ kính có ông Tuân, ông Tưởng, nhưng Hà Nội hiện đại lại chính là Nguyễn Khải. Tốc độ suy nghĩ của con người trong văn Nguyễn Khải bao giờ cũng nhanh. Văn nhiều tư liệu, lại đi thẳng vào các vấn đề trung tâm của đời sống, khiến người khác phải quan tâm. Cố nhiên, trong giới nhà văn cũng có anh này Hà Nội ở vẻ hoa hoè hoa sói, anh khác Hà Nội ở lối quảng cáo ầm ĩ như lơ tẩy hồng, Nguyễn Khải xa lạ với mọi lối phô trương như vậy”.
  • Thiết tưởng nhiều người trong chúng ta cũng có thể hoàn toàn đồng ý với cách đánh giá đó của Xuân Sách.
  • Nhà văn Nguyễn Kiên, một người bạn viết lâu năm của Nguyễn Khải, kể lại ít chuyện những năm sáu mươi.
  • – Có một dạo, ngày nào tôi, Nguyễn Khải, Mai Ngữ… và một vài anh em nữa cũng gặp nhau. Chán nhà này lại sang nhà khác, chán ngồi một chỗ lại đạp xe dong, nhưng quả là phải gặp nhau để nói mới hả! Hôm nay chuyện đủ thứ rồi, về không buồn chào nhau nữa, tưởng mai thôi. Nhưng không, mai vẫn đến. Có bao nhiêu chuyện chúng tôi cần bàn với nhau chung quanh các vấn đề về nghề nghiệp. Thời kỳ đầu, chúng tôi hoàn toàn nghe theo lời chỉ bảo của các bậc đàn anh trong việc viết lách – Thời kỳ sau, chúng tôi vừa nghe vừa bàn thêm, bảo là cãi lại cũng được, cố nhiên là không cãi trước mặt các vị đó, mà là cãi với nhau, cãi ngay trong đầu óc mình. Chính đó là lý do để chúng tôi phải gặp nhau luôn, mà cũng vì lý do để nói rằng dù không viết về Hà Nội đi nữa thì cũng chỉ ở Hà Nội, chúng tôi mới trưởng thành được trong nhận thức cũng như trong công việc cụ thể.
  • Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên đã tiếp nhận Hà Nội như thế nào?
  • Trên đại thể, các anh coi đây là môi trường văn học không có nơi nào thay thế nổi. ở đây các anh có người đọc, có đồng nghiệp, mỗi người sẽ luôn luôn lắng nghe những bạn bè đồng nghiệp đó, để viết sao cho hết sức mình mà cũng đáp ứng đúng nhu cầu xã hội mong đợi.
  • Nói riêng về trường hợp Nguyễn Khải. Một thói quen trong khi làm việc của anh là vừa hết sức tập trung, vừa có vẻ nhẩn nha, từ từ, vừa viết vừa nghe, không hoàn toàn đắm đuổi vào những điều mình đang viết.
  • Như chúng ta đều biết, các văn hào lớn xưa kia cũng như người đang viết hôm nay, nhiều người có thói quen đã bắt tay viết là đóng chặt cửa, không tiếp ai, cũng không ló mặt ra khỏi nhà nữa.
  • Nguyễn Khải không thế, hầu như đang thời kỳ viết bận nhất, Nguyễn Khải cũng chỉ ngồi vào bàn ngày vài tiếng. Thời gian còn lại, anh phải ra đường, phải chan hoà với không khí Hà Nội, với những anh em viẽt khác, thì mới yên tâm.
  • Tài liệu để viết, đã ghi chép được không thiếu trong những chuyến đi. Nhưng viết về cái gì đây, đưa cái gì ra thì mọi người chú ý, đặt vấn đề gì thì mọi người sẽ phải để công việc riêng lại, tìm đọc tác phẩm của mình? Bằng ấy câu hỏi, đối với nguời viết đâu phải chuyện bình thường! Mà chỉ có một nơi cho phép Nguyễn Khải tìm ra câu trả lời chính xác, đó là Hà Nội.
  • Hà Nội với những cơ quan thông tấn, báo chí, thạo tin, thạo việc, Hà Nội với lớp công chúng là cán bộ mới, lớp thanh niên tiếp xúc nhiều với nước ngoài, những người làm khoa học kỹ thuật, trẻ trong suy nghĩ, trẻ trong nếp sống. Nguyễn Khải cần những người ấy lắm! Nguyễn Khải sống giữa những người đó, như cá bơi trong nuớc, thanh thoát, thoải mái, thỉnh thoảng không quen một thoáng vùng  vẫy sung sướng!
  • Bởi vậy, mặc dù đi thực tế ở tận các vùng đất lạ, như vùng công giáo Nam Định, hoặc lên Phú Thọ, lên quá mãi tận Điện Biên, hoặc ra Cồn Cỏ, sống với một đơn vị công binh trên chiến trường Lào, song lần nào Nguyễn Khải cũng trở về Hà Nội mới viết.
  • Và Hà Nội không phụ anh, gần như bao giờ thành phố này cũng mang lại cho Nguyễn Khải những thông tin chính xác, để rồi, khi ngồi trước trang giấy anh tỉnh táo phân tích phần tài liệu thu thập được sau các chuyến di, và đưa ra được những tác phẩm hơi “gắt” một chút, hơi mới mẻ một chút, khiến mọi người cùng bàn tán một hồi, rồi mới ngã ngửa ra với nhau, hoá ra, đây cũng là một vấn đề của cuộc sống, của mình, chính mình phải nghĩ về nó hàng ngày.
  • Nhìn vào chất lượng sáng tác, ai cũng bảo Nguyễn Khải là một cây bút chăm chỉ, cần mẫn. Vậy mà tôi nhớ, những năm còn ở Hà Nội, không ngày nào là Nguyễn Khải không ghé qua cơ quan ở 4 Lý Nam Đế trò chuyện, thỉnh thoảng còn rủ chúng tôi ra ngồi hàng nước để hóng chuyện. Hầu như có chuyện gì mới trong thành phố, Nguyễn Khải cũng tìm biết. Những khi nào có dịp “đăng đàn diễn thuyết” trước bạn đọc nhất là bạn đọc trẻ tuổi ở các trường cấp ba, các trường đại học, các cơ quan khoa học kỹ thuật chung quanh thủ đô, Nguyễn Khải không bao giờ từ chối. Anh kể: Khi nói như thế, tức là mình nhận lấy công việc đối mặt với dư luận. Mình phải tự chứng tỏ rằng mình cũng những rung động với người ta, cũng có những điều lo toan như người ta.
  • Ngồi lê đôi mách là  chuyện không hay ho gì. Nhưng những vấn đề trong ngành, trong giới là điều Nguyễn Khải bao giờ cũng quan tâm và muốn nắm cho bằng được.
  • Qua Nguyễn Khải và cách làm việc của anh như trên, chúng tôi nhận thức một điều. Sáng tác không phải là công iệc thuần tuý tách rời hoàn cảnh. Sáng tác bao giờ cũng gắn liền với đời sống tinh thần của xã hội. Và cái nơi đóng vai trò quan trọng nhất, kể cả vai trò hàn thử biểu của đời sống tinh thần, đấy chính là thủ đô. Thủ đô là trung tâm của dư luận xã hội. Dù viết về đời sống các tỉnh xa, dù là nhà văn mặc áo lính, người ta vẫn phải nhớ tới điều đó. Nếu không đếm xỉa gì đến dư luận thủ đô, không bao giờ anh có thể thành công. Và nếu sáng tác của anh đã không được thủ đô công nhận thì trước sau, không chóng thì chầy, sẽ rơi vào quên lãng.
  • Nguyễn Minh Châu
  • Nhìn vào gốc tích quê hương của nhà văn từ sau 1945 tới nay, nguời ta nhận ra hai vùng có nhiều nhân tài hơn cả. Một là Nà Nam Ninh, xứ Sơn Nam hạ ngày trước, một địa điểm đặt các trường thi ở các tỉnh phía bắc, thời nhà Nguyễn. Hai là Nghệ Tĩnh, một vùng đất văn vật cũ. So với Hà Nam Ninh thì Nghệ Tĩnh còn có phần trội hơn về lực lượng người viết. Nói riêng trong số các nhà văn đang mặc áo lính, số người Nghệ Tĩnh cũng khá đông đảo. Chính Hữu, Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Thiều, Hải Hồ, Nam Hà, Phạm Ngọc Cảnh, v.v.. và v.v…
  • Bởi vậy, một lần nói chuyện với một người bạn trẻ hơn ở Văn nghệ Quân đội, nhân đả động tới hiện tượng người Nghệ Tĩnh rất đông ở Hà Nội và trong giới viết văn, Nguyễn Minh Châu nửa đùa nửa thật bảo:
  • – Bây giờ chúng tôi đã là dân Hà Nội thực sự rồi, phân biệt làm gì!
  • Có điều phải nói ngay là trong khi ở một số người khác dấu vết gốc tích còn nhiều, thì ở Nguyễn Minh Châu gần như ngược lại. Anh “Hà Nội hoá” khá nhanh. Trên những trang viết của anh người ta bắt gặp được cái tinh tế, những ý nhị, tài hoa, mà theo quan niệm từ xưa, chỉ đồng bằng Bắc Bộ mới có.
  • Nguyễn Minh Châu kể với tôi: Anh quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An và trước 1945, có được vào Huế học ít năm. Nhưng cái nơi để lại trong tâm hồn anh dấu vết sâu đậm nhất, là vùng khu Ba cũ, nơi anh chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Pháp với tư cách một người lính của sư đoàn 320.
  • Có lẽ đó là cái cầu nối khiến cho tình cảm của Nguyễn Minh Châu sâu đậm với Hà Nội chăng? Cái thiêng liêng ttành kính mà một người như Nguyên Hồng cảm thấy rất rõ khi bước vào nghề văn, tiếp xúc với sách vở và một Hà Nội văn học – những tình cảm ấy ở Nguyễn Minh Châu cũng có, tuy anh chưa trực tiếp nói ra bao giờ.
  • Một cách lặng lẽ, kín đáo, anh chỉ làm việc hết sức để đón nhận cái hoàn cảnh thuận lợi đến với mình – đó là khoảng 1959, khi Nguyễn Minh Châu được chuyển lên công tác ở phòng văn nghệ quân đội, sau đó về tạp chí Văn nghệ Quân đội, tức là sống giữa lòng Hà Nội văn học.
  • Và Nguyễn Minh Châu đã làm được điều mình mong đợi. Những trang viết của anh không đơn giản “tỉnh lẻ” như người ta hay nói mà có được cái chững chạc của một ngòi bút chín về mặt nghề nghiệp. Trong khi làm nhiệm vụ của một người viết trong quân đội là viết về những người lính ở các đơn vị đang chiến đấu và sản xuất, tức là mô tả những con người, những công việc không có vẻ Hà Nội chút nào, Nguyễn Minh Châu vẫn cho ta thấy anh tìm cho mình một chỗ đứng bao quát hơn.
  • Phải nói ở chỗ này, Nguyễn Minh Châu có cả một cơ sở lý luận. Anh tâm sự:
  • – Không biết có thể gọi là một kinh nghiệm nhỏ được không, tôi nghiệm thấy rằng trong những năm vừa qua, tôi không thể viết nổi một cái gì, nếu không thoát mình ra khỏi cái hiện tượng thực tế mà tôi đã lấy tài liệu. Hãy xê dịch khỏi nơi đó và tìm đến ở một nơi mà hoàn cảnh sống khác hẳn, đối lập hẳn cũng được. Trong cái môi trường mới ấy, có thể tính cả việc đọc sách, những sự nghĩ, những dự tính đã thành hình, hoặc còn phân vân và cả cái phần tư tưởng của tác phẩm dự định viết nữa, tất cả phải được nhìn lại xem xét lại bằng con mắt khách quan hơn. Nếu xuống biển hay về thành phố, chúng ta sẽ nghĩ về rừng sáng tỏ và khái quát hơn, tất nhiên trước đấy phải có những ngày sống ở rừng, sống lâu dài và sống hết mình. Cái “hoàn cảnh khác” mà Nguyễn Minh Châu nói ở đây, chính là Hà Nội. Thanh phố giúp cho nhà văn nhìn kỹ cuộc sống của người lính ở các mặt trận xa. Quan trọng hơn, thành phố giúp cho nhà văn ở khâu suy nghĩ, đi sâu vào các vấn đề, đồng thời là nâng vấn đề lên, tạo cho nó một ý nghĩa khái quát, khiến cho người đọc ở bất cứ đâu cũng có thể thông cảm được với các vấn đề của người lính.
  • Sáng tỏ và bao quát, hai yêu cầu ấy sóng đôi với nhau. Khi nhà văn tìm được hình thức biểu hiện thích hợp, từ cách bố cục quyển sách, cách chia chương chia đoạn, cho đến câu chữ… tất cả những yêu cầu ấy được thực hiện đầy đủ, cũng là lúc tác phẩm thật sự hoàn thành.
  • Nói như ý nghĩ của nhân vật chính uỷ viên Kinh trong Dấu chân người lính, Hà Nội là cái điểm tĩnh, thật tĩnh, để giúp nhà văn nhìn ra cái điểm động của cuộc chiến đấu. Là cái tài hoa văn hoá giúp vào việc soi sáng cái vất vả lam lũ đang hình thành, đang thay đổi. Là độ chín của quá khứ và ánh sáng tương lai để giúp vào việc soi tỏ hiện tại.
  • Nếu xét theo ý nghĩa như vậy, thì không cần khiên cưỡng chút nào cũng có thể nói chắc là Hà Nội đã có mặt đáng kể trong những tác phẩm quan trọng nhất của Nguyễn Minh Châu ở Cửa sông, và các truyện ngắn viết trong những ngày đầu chống Mỹ, đặc biệt là ở Dấu chân người lính. Lữ, nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết này đã từ Hà Nội mà ra đi, và ở chiến trường đã ngã xuống trong tư thế đang chiến đấu. Lúc ấy “qua một chiếc đài để trong góc một cái hầm sập, tiếng hát vang lên từ những thanh gỗ nằm ngổn ngang. Nó là tiếng nhạc hào hùng của bài Người Hà Nội”. Nguyễn Minh Châu dường như muốn  nói: nguồn gốc sức mạnh của nhiều người chúng ta trong cuộc chiến đấu này là tình yêu Hà Nội.
  • Ngoài ra, sự đời có những chuyện lạ, không phải người trong cuộc nói ra, người ngoài dễ không sao đoán nổi. Khi viết Dấu chân người lính, Nguyễn Minh Châu không những chỉ lấy cảm hứng từ cuộc chiến đấu sáu mươi ngày khỏi lửa để tạo ra những chi tiết chung quanh nhân vật Thái Văn, mà còn rút ra từ cuộc sống thủ đô chất liệu cho những mảng miêu tả khác. Theo anh kể với chúng tôi, không khí vườn Bách Thảo mà thỉnh thoảng anh ghé qua, trên đường từ cơ quan ở 4 Lý Nam Đế về nhà ở Công trường 800 đã gợi cho Nguyễn Minh Châu viết những câu tả rừng. “Tiếng lá khô rơi xào xạc. Một cơn gió từ lòng suối cạn thổi hắt lên, bốc tung lên cao một đám lá khô những chiếc lá bay múa trước mặt mọi người như những lá thư huyền bí của cuộc đời”.
  • Ngoài ra, những chi tiết gắn với thời đi học của nhân vật Lữ nào là cả trường tập hợp chào cờ, nghe cô hiệu trưởng dặn dò, nào là Lữ bắt gặp Hiền tay cầm que kem… đều được lọc ra từ quan sát của Nguyễn Minh Châu những lần đi qua trường Chu Văn An. Cố nhiên, giữa việc cung ấp những chi tiết cụ thể với việc giúp cho nhà văn có sự ổn dịnh trong suy nghĩ thì vai trò thứ hai của Hà Nội lớn hơn nhiều.
  • Không những mượn chi tiết sinh hoạt thủ đô để tả nơi khác, cũng đã nhiều lần Nguyễn Minh Châu còn lấy ngay Hà Nội để tả Hà Nội, mà tập trung nhất là trong tiểu thuyết Lửa từ những ngôi nhà.
  • Chúng ta đã biết những trang Nguyễn Tuân tả khu trung tâm thành phố trước cách mạng. Chúng ta cũng rất yêu những trang tả ngoại thành Hà Nội trong các tác phẩm của Tô Hoài. Dường như mỗi nhà văn đều có cách đóng góp riêng của mình.
  • Về phần Nguyễn Minh Châu, hoàn cảnh của anh có hơi đặc biệt. Bắt đầu về sống ở Hà Nội từ 1959, nhưng thoạt đầu nhà văn còn bỡ ngỡ, sống như người ở nhờ, tự thu hẹp mình trong doanh trại, vì bấy giờ gia đình anh còn ở Hải Phòng. Từ 1965, gia đình Nguyễn Minh Châu mới chính thức chuyển về Hà Nội. Song mấy năm từ 1965 đến 1968 lại là mấy năm sơ tán triệt để, mãi sau 1968, Nguyễn Minh Châu mới đưa gia đình trở về khu công trường 800 ở mạn chợ Bưởi. Đấy là một khu quân sự đặc biệt, gồm nhiều dãy nhà khác nhau, do các đơn vị khác nhau quản lý.
  • Trong khi viết Dấu chân người lính, Nguyễn Minh Châu có dịp sống kỹ với cái mảng Hà Nội đặc biệt này, một thứ Hà Nội vừa mới hình thành để phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nó nham nhở, tạm bợ luộm thuộm như một thứ bờ rừng, nơi thường xuyên có những đoàn quân đi qua. Nhưng nó lại có phụ nữ chửa đẻ, trẻ con đi học, những đôi trai gái yêu nhau và bàn chuyện tương lai. Đúng là Hà Nội của một thời mà không ai có thể quên nổi. Hà Nội trải mình ra rộng rãi khắp các khu vực ngoại ô, để đứng vững trong chiến đấu.
  • Mãi sau 1975, gia đình Nguyễn Minh Châu mới chuyển về một nơi ổn định hơn, một khu tập thể bộ đội đầu chợ Ngọc Hà. Nhà văn kể lại với tôi nỗi xao xuyến kỳ lạ trong anh khi dọn đến nhà mới. Anh rất hay ra phố và sẵn sàng cho phép con cái ra phố. Xưa, từ nhà ra phố phải đi một thôi rất xa. Nay, ở giữa phố xá, chẳng phải một điều kỳ lạ sao!”.
  • Và Nguyễn Minh Châu lại lấy nơi ở của mình để hình dung ra Hà Nội. Nhân vật chính trong một số truyện ngắn của anh gần đây như Hạng, Bức tranh, Khách từ quê ra, Hai con nhóc…. là những người quen thuộc mà anh vẫn gặp trong khu tập thể của anh hôm nay. Trong các tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê… anh tìm cách phác ra hình ảnh một Hà Nội thời chúng ta đang sống. Phác hoạ, tự nhận thức, chiêm nghiệm để mong sao Hà Nội ngày một trở thành chính nó, một trung tâm văn hoá.
  • Xuân Sách – Hà Ân và những người khác
  • Trước khi giới thiệu sự gắn bó giữa hai nhà văn Chính Hữu và Hồ Phương với đời sống văn học Hà Nội, chúng tôi xin được phép nói qua về một số trường hợp khác của các nhà văn lớn lên trong kháng chiến chống Pháp.
  • Cuối 1954 đầu 1955 có một thanh niên quê ở Thanh Hoá đi bộ đội, đang đóng quân ở Sơn Tây, làm một công việc quan trọng với đời mình. Một lần, chủ nhật, anh mượn một chiếc xe đạp, đạp từ Sơn Tây về Hà Nội. Thủ đô mới được giải phóng ít lâu, mọi chuyện với người thanh niên này hết mức lạ lẫm. Anh kín đáo quan sát con người và cảnh vật. Anh không quên đi một vòng Bờ Hồ. Trở về với đơn vị, anh càng quyết tâm hơn với cái ý định đã có từ lâu: viết văn, Nơi anh gửi bài, là tạp chí Văn nghệ quân đội. Thỉnh thoảng, tạp chí này lại họp cộng tác viên, anh lại có dịp về với thủ đô nhiều hơn, cho tới 1963, anh được chuyển thẳng về Văn nghệ quân đội. Và thế là Xuân Sách – vâng, người đó là Xuân Sách – đã gắn bó với tạp chí này gần hai chục năm (cho mãi tới 1980 anh mới chuyển về công tác tại nhà xuất bản Hà Nội và nay chuyển vào Đồng Nai).
  • Viết về người lính, Xuân Sách thường phải đến với các đơn vị xa. Nhưng Hà Nội là nơi anh tu sửa tài liệu, bàn bạc với anh em trong cơ quan về nghề nghiệp và nghiền ngẫm, nghiền ngẫm thật kỹ trước khi viết, đến mức, đôi lúc nhìn lại, mặc dù thấy đủ những hạn hẹp trong sáng tác của mình, Xuân Sách vẫn nghĩ giá kể mình không lên với Văn nghệ quân đội, lên với thủ đô chắc mình cũng không viết được như thế. Từ thế đứng của Hà Nội trong chống Mỹ, Xuân Sách có lúc sẽ viết được những câu thơ hay nhất của mình như lời ca anh soạn cho bài Đường chúng ta đi (Nhạc Huy Du) mà từ 1973 đến nay, người dân Thủ đô không ai không biết.
  • Cả một thế hệ người viết đã vào nghề một cách tự tin như thế. Xuân Thiều và Hải Hồ, Xuân Thiêm và Xuân Miễn, Tạ Hữu Yên và Hồ Khải Đại… Có thể nói, đa số họ đến với nghề một cách lặng lẽ, từ tốn. Dù đã có bài đăng tải đều đều ở các tờ báo, tạp chí trung ương, song việc viết văn vẫn được hiểu như một công tác. ảnh hưởng của thủ đô với tư cách một trung tâm văn hoá thường đến với họ ở phần thực chất chắc chắn của nó.
  • Từ Thâm Tâm, Trần Đăng… qua Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân Sách, chúng ta đã nói tới một lớp nhà văn tại ngũ khá lâu và quây quần ở các cơ quan chuyên về sáng tác. Thực ra, nói tới đội ngũ những người viết mặc áo lính, phải thấy đội ngũ này rất đông. Hoài An và Xuân Cang, Văn Linh và Lê Phương, hàng loạt các nhà văn, gốc khu Năm, Nam Bộ. Nguyễn Quang Sáng, Hoàng Văn Bổn, Phan Tứ, rồi các nhà văn phụ nữ Nguyệt Tú, Bích Thuận v.v… đều đã có thời gian tại ngũ (chủ yếu là trong những năm kháng chiến chống Pháp), một số tiếp tục ở thêm vài năm sau hoà bình lập lại 1954, rồi mới đi học và chuyển ngành, trở thành người viết chuyên nghiệp.
  • Nhưng trên nét lớn, cách nghĩ của họ về đời sống rất gần với lớp nhà văn tại ngũ mà chúng tôi nhắc ở trên. Họ cùng trưởng thành từ kháng chiến. Họ gần gũi với nhau về nhiều mặt, lòng tin, lẽ sống, nhận thức về tầm quan trọng của mỗi ngòi bút trong xã hội ta và ý thức trau dồi nghề nghiệp để ngòi bút thêm sắc bén.
  • Một số cách hình thành đời văn và cách quan hệ với Hà Nội của những Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu vừa nói, cũng như Chính Hữu, Hồ Phương sẽ nói sau đây, cũng là điều mà những Xuân Cang, Lê Phương, Văn Linh và cả Trần Hữu Thung, Minh Huệ, Xuân Hoàng, Trần Thanh Giao… và nhiều người khác có thể chia xẻ.
  • Hiện nay khu vực đề tài mà các nhà văn vừa kể bao quát và đang cần cù làm việc, thường rất rộng rãi, có người khá nổi tiếng trên lĩnh vực viết cho thiếu nhi. Và cũng có người chuyên viết truyện lịch sử như Hà Ân.
  • Theo chính anh kể với chúng tôi, anh có những may mắn như leo lên Cột Cờ vào thăm lầu Ngũ Long ở khu vực thành cũ Hà Nội. Bấy nhiêu hiểu biết đã là tài liệu rất tốt, tạo nên bề dày lịch sử cho những cuốn sách tác giả viết về đời sống.
  • Trong phần viết về Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta đã nói phần lớn các cây bút tiểu thuyết lịch sử đều là cây bút về về thủ đô, bởi thủ đô nước nào cũng vậy, là đầu mối của mọi biến đổi hưng vong trong lịch sử. Mà thủ đô cũng là nơi tạo ra điều kiện tốt nhất cho những người viết tiểu thuyết lịch sử làm việc bởi chỉ ở thủ đô công tác nghiên cứu lịch sử, xã hội học, dân tộc học mới được dành cho những vị trí thích đáng, những hoạt động ấy là nền tảng tốt cho những ngòi bút viết về quá khứ. Những nhận xét ấy cũng rất đúng với Hà Ân và trang sách hôm nay của anh.
  • Hai cuộc phỏng vấn ngắn
  • Chính Hữu
  • – Xin anh kể cho một ít kỷ niệm lần đầu đến và tiếp xúc với Hà Nội.
  • – Đó là những năm 1943-1944, tôi từ Vinh ra trọ học phố Lý Quốc Sư gần trường Văn Lang. Đối với một học trò nghèo như tôi bấy giờ. Hà Nội trước hết là nơi tập trung của tài năng. Có bao người nổi tiếng bấy lâu tôi chỉ được nghe tên, giờ cảm thấy được sống ngay bên cạnh, được nghe họ nói, được theo học trong những giờ họ giảng, được đọc những gì họ viết rất sớm. Bấy giờ và sau này cũng vậy, tôi cảm thấy không bao giờ nếu hiểu Hà Nội chỉ riêng gồm những người sinh trưởng ở đây, mà phải hiểu là Hà Nội là tinh hoa của cả nước. Cũng như khi vào Nam, tôi mua ít vải thiều làm quà. Vải – vốn của đất Hải Dương, nhưng đã mang về Hà Nội bán, và với bà con trong Nam, hoàn toàn tôi có thể nói là quà Hà Nội.
  • ở phố Lý Quốc Sư, ấn tượng rõ nhất của tôi với Hà Nội bấy giờ là những ngõ phố. Tôi hay đi bộ tha thẩn trên những ngõ phố gần đây, theo các ngóc ngách của Ngõ Huyện sang tận bên Phủ Doãn. Bờ Hồ vắng lặng cũng như Thư viện quốc gia, là nơi tôi thường ngồi học, và ở cả hai nơi, những lúc rời mắt khỏi sách, tôi thường ngắm nhìn không biết chán những tàu lá những vòm cây. Trọ học ngay trong chùa, nên tôi lại và thường cảm thấy hết sức sung sướng được ngồi lặng lẽ suy nghĩ. Nếu Nghệ Tĩnh quê tôi đã cho tôi chất trầm tư thì Hà Nội mang lại cho những trầm tư đó một vẻ tinh tế. Tôi cảm thấy rất gần với những suy nghĩ của Anatôn Phơrăngxơ, mà tôi đọc được qua những trang sách lân la kiếm ở các hiệu sách cũ phố Huế và ngay phố Lý Quốc Sư của tôi, phía Nhà Thờ Lớn đi xuống. Tôi cảm thấy Hà Nội với những quán sách cũ này, với Bờ Hồ chẳng khác gì nhiều so với Paris của A. Phơ răng xơ Paris với những hiệu sách cũ và những người câu cá bên bờ sông Xen
  • – Nghĩa là có cả một nếp sống bình lặng ổn định?
  • – Đúng vậy, ổn định và quen thuộc lắm. Chùa vắng, thế giới trong chùa vốn là cách xa thế giới bên ngoài. Nhưng cả khi ra ngoài, tôi cũng có cái thế giới riêng của mình, thế giới của học trò nghèo, và tôi sống trong cái thế giới đó thoải mái. Nói cách khác, tôi cảm thấy có một Hà Nội của tôi và chỉ riêng thế, Hà Nội đối với tôi đã là khá nhiều.
  • ở trên, tôi đã nói với anh về những ngõ phố, những quán sách, và những hàng cây ở Thư viện quốc gia cũng như ở Bờ Hồ. Cũng nên nói thêm đến một nét sinh hoạt khác của chúng tôi bấy giờ là đi xem hát ở Nhà hát lớn. Kịch nói mới hình thành, nên những năm ấy, người ta xem còn ít lắm. Chúng tôi thì lại thấy ở đây một hình thức biểu diễn rất thích hợp với tư tưởng tình cảm của mình. Nhưng buổi công diễn của các ban kịnh Tinh Hoa, Thế Lữ, tôi thường có mặt mặc dù vào đó tôi không bao giờ đủ tiền mua vé lô mà chỉ ngồi cánh gà, thậm chí có khi leo tít lên tận chuồng cu, tức là những hàng ghế thuộc loại mạt hạng. Sau này ra kháng chiến gặp anh Thế Lữ và nhắc lại chuyện này với anh. Thế Lữ bảo “Tôi vẫn quan niệm rằng đấy là những khán giả hiểu chúng tôi nhất”.
  • Cũng thời gian này tôi được xem và cảm thấy rất mê Nguyễn Tuân đóng kịch, chẳng hạn, như một vai trong vở Ngã ba của Đoàn Phú Tứ.
  • – Anh đã có mặt ở đây từ đầu đến cuối, ý tôi muốn nói tới thời gian Hà Nội bước vào toàn quốc kháng chiến?
  • Đấy cũng là thời gian Hà Nội để lại trong tôi thật nhiều kỷ niệm. Nguyên hồi trọ học ở Lý Quốc Sư, tôi đã nhiều dịp lê la cơm đầu thế ở phố Hàng Da và có dịp tiếp xúc với nhiều bà con lao động trong thành phố. Nay cùng với họ đứng trong hàng ngũ kháng chiến, tôi càng có dịp hiểu họ hơn. Trong đơn vị tự vệ ở Liên khu Một của tôi bấy giờ có đủ hạng người, từ anh em sinh viên, học sinh tới bác phu xe, anh thợ, ông bác sĩ. Đội quân hội đủ thứ người này thật là một thứ Hà Nội thu nhỏ. Sự gần gũi với nhiều khuôn mặt lao động thủ đô chính là bước đầu thuận lợi để sau này tôi đi vào quần chúng công nông trong bộ đội.
  • Riêng với đời sống tinh thần của mình thì đối với tôi, thời gian này để lại nhiều xúc động kỳ lạ. Tôi viết khá nhiều nhật ký và những trang nhật ký này được một nhà văn chuyên về Hà Nội là Nguyễn Huy Tưởng rất chú ý. Nhân vật nam học sinh Loan trong Sống mãi với Thủ đô được Nguyễn Huy Tưởng hư cấu dựa trên nhiều tâm sự riêng mà tôi đã kể với ông. Dĩ nhiên nghĩ mình có lúc trở thành nguyên mẫu cho một nhân vật như thế, tự tôi cũng thấy vui vui. Cũng như Loan trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng, tôi cảm thấy cuộc chiến đấu ở HàNội lúc này thiêng liêng. Theo những con đường tạo ra bằng cách đục thông từ nhà nọ sang nhà kia, tôi la cà, hoặc nói là tôi lang thang cũng được, lang thang trong nhiều khu phố mà trước đây tôi chỉ có dịp nhìn bề ngoài Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bạc, đổ cho đến tận Ngõ Gạch. Phố mới. Có khi tôi đi suốt từ sáng đến trưa trong cái mê lộ đó và cảm thấy được tiếp xúc với một Hà Nội nhìn từ bên trong. Có chỗ hôm qua đi bộ thoải mái thì hôm nay đường tắc không đi được. Nhưng có chỗ hôm qua tắc nay thông. Cứ thể một Hà Nội khác hiện ra vừa là tiếp tục, vừa đảo lộn rất nhiều so với Hà Nội cũ.
  • – Anh ở đấy liền hai tháng, cho đến ngày tất cả các đơn vị được lệnh rút ra?
  • – Vâng, đúng là tôi đã được thấy ánh lửa đỏ của đội phát hoả dấy lên soi xuống nước sông Hồng như nhiều lần người nọ người kia trong chúng ta đã viết.
  • – Từ đấy, những ý thơ đến với anh hoặc như người ta nói, với Hà Nội, anh đã trở thành nhà thơ?
  • – Thật ra từ hồi còn học ở Vinh tôi đã thích thơ lắm. Một trong những thày học của tôi ở Vinh là Huy Cận. Dạy văn học, cố nhiên. Đối với tôi lúc ấy. Lửa thiêng của Huy Cận là một cái gì xa vời, tôi không biết mình bao giờ mới có thể với tới được. Nhưng tôi vẫn làm quen với Huy Cận và lúc tôi ra Hà Nội cả Huy Cận lẫn Xuân Diệu có đến thăm tôi ở cái chùa Lý Quốc Sư cũng như bản thân tôi có lại thăm hai ông ở một căn gác phố Hàng Bông. Nhưng nói chung chúng tôi chỉ nghĩ sau này mình làm một nghề tự do nào đó như nghề dạy học và mãi mãi yêu thơ yêu văn học, thế thôi.
  • Nhưng vẫn có thể nói là Hà Nội giúp tôi nâng đỡ tôi trở thành người làm thơ với nghĩa thật cụ thể của nó. Lý do là ở Việt Bắc, đơn vị tôi, bấy giờ là sự đoàn 308, thường xuyên có dịp gặp gỡ các nhà văn nhà thơ Hội văn nghệ Việt Nam đến công tác. Tại đây tôi đã có dịp làm quen với Nguyễn tuân, Nguyễn Huy Tưởng. Sau khi làm việc, chúng tôi còn thường kéo nhau ra phố Đại Từ ngồi với nhau rất lâu. Sau bài Ngày về ở dạng lời một bài hát của Lương Ngọc Trác đến bài Đồng chí, tôi càng được các ông khuyến khích rất nhiều. Một số bài thơ tôi viết về Hà Nội mang tình cảm chung của anh em trong đơn vị tôi và nhiều người tôi quen biết trò chuyện lúc đó.
  • – Anh có kỷ niệm gì thêm và những văn nghệ sĩ lúc ấy đến công tác tại đơn vị anh phụ trách?
  • – Phần đông cũng rất quần chúng giản dị, dễ gần….
  • – Ông Tưởng người ra sao ạ?
  • – Bề ngoài có vẻ lì xì, nhưng bên trong, đó là một người rất nhiệt tình và cũng rất tốt bụng. Thật tài hoa thì không phải, nhưng làm việc kiên trì, bền bỉ.
  • – Ai viết về Hà Nội trong văn chương ta gần đây anh thấy đạt hơn cả?
  • – Tâm hồn mà thật Hà Nội nhất, thì là Nguyễn Tuân, thứ hai là ông Tưởng, Nguyễn Tuân những ai sống gần cũng rất đáng mến.
  • Sau đây là đoạn cuối trong câu chuyện giữa tôi và nhà thơ.
  • – Theo chỗ tôi nhớ, mặc dầu nhiều người biết anh qua bài Ngày về với những rách tả tơi rồi, đôi giầy vạn dặm, bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa, nhưng anh vẫn cho rằng bài thơ đó không tiêu biểu cho thơ anh mà anh muốn coi mình bắt đầu từ bài Đồng chí. Tại sao?
  • – Tôi cho rằng nhận thức ban đầu của tôi về Hà Nội còn hời hợt và không khỏi ít nhiều mang chất tiểu tư sản. Và chỉ về sau đó, gần gũi với anh em công nông, tôi mới trưởng thành hơn và cách hiểu của tôi về Hà Nội cũng đằm hơn, chắc hơn. Đấy cũng là quá trình nhận thức thông thường, nghĩa là xảy ra với nhiều người).
  • Hồ Phương
  • Từ Xóm mới (1963) qua Những tầm cao (1973) rồi Những tiếng súng đầu tiên (1980) hơn hai chục năm qua Hồ Phương liên tục đi vào đề tài Hà Nội và đã viết về Thủ đô trong mọi giai đoạn lịch sử khác nhau.
  • – Điều gì đã lôi cuốn anh khiến anh “bao” suốt một giai đoạn dài trong lịch sử Thủ đô như  vậy?
  • – Là một nhà văn hiện đang công tác trong quân đội, nhưng từ nhỏ, tôi đã rất gắn với sinh hoạt thủ đô, nên việc viết về đời sống nơi đây cũng là chuyện bình thường. Viết về Hà Nội cũng đồng thời là dịp để tôi tiếp tục viết về chiến tranh, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về những cán bộ, chiến sĩ thân yêu của mình… Như trong trường hợp gần đây…
  • – Trường hợp cuốn Biển gọi trong đó cũng có một mối tình Hà Nội?
  • Và nhiều nét Hà Nội trong những năm chống Mỹ nữa chứ anh! Chuyện cơ quan đi sơ tán, người đi kẻ về nối giữa nơi sơ tán và cơ sở của từng người. Và cả những quan niệm sống nữa. Tôi tưởng đứng về một phương diện nào đó, nó cũng là bổ sung cho cuốn Những tầm cao trước đây của tôi.
  • – Nói cách khác, theo anh, một nhà văn có thể trở đi trở lại với một đề tài nhiều lần?
  • Dùng chữ đề tài có lẽ cũng  còn là hơi rộng. Tôi xin được nói cụ thể hơn, ví dụ viết về Thủ đô trong chống Mỹ, tôi thấy mình còn viết được nhiều. Sau Những tầm cao, sau Biển gọi, có còn có thể có những cái khác. Mà viết về Thủ đô hồi 1945-1946 cũng vậy. Theo tôi, giai đoạn 1945-1946 tuy chỉ có hai năm, nhưng là một giai đoạn lịch sử cực kỳ sôi động, và với tư cách là trung tâm của cả nước, đời sống của Hà Nội cũng trải qua những diễn biến hết sức phức tạp, đáng để cho ta tìm hiểu và viết, viết nhiều hơn nữa. Trong thời kỳ này, con người Hà Nội ăn mặc ra làm sao, nói với nhau ra làm sao, nội một chuyện đó cũng cần nghiên cứu rất kỹ. Tôi không phải là người viết tiểu thuyết phong tục, nhưng tôi cho rằng mang vào tiểu thuyết thêm được những nét về thói quen sinh hoạt mà người đương thời ai cũng biết, thì chỉ làm cho tiểu thuyết thêm hấp dẫn. Nhiều khi chỉ cần nhắc qua một vài cái tên quen thuộc, họ cũng đã thấy thông cảm hẳn lên.
  • – Nhưng hình như anh đến với đề tài này hơi muộn, mãi sau hoà bình mới viết, còn Thư nhà và mấy cái khác viết trong kháng chiến, đều không phải tục tiếp về Hà Nội?
  • – Tôi có cái tật hay mê những chuyện trước mắt, thích nhập cuộc ngay. Vì như hồi kháng chiến chống Pháp, thích những chuyện dáo mác xung kích. Lính quần phu la đỏ lao vào đồn địch, còn trong chống Mỹ thì sẵn sàng viết về Kan Lịch, Lê Mã Lương. Nhưng khi nào rảnh là tôi nghĩ viết về Hà Nội thậm chí càng đi xa, càng viết được những dòng tâm tình về mảnh đất thân yêu này. Hai bài ký Giây lát Mạc Tư khoa và Thắm thiết Pra-ha của tôi đã chứng minh cho thiện chí đó. Chính khi đi xa, mình mới cảm thấy mình là người của Thủ đô thật sự.
  • – Người Hà Nội gốc?
  • Không hẳn thế, không đúng một trăm phần trăm, nhưng cũng gần như thế. Quê tôi ở vùng Kiến Hữu, ngay sát thị xã Hà Đông. Thuở nhỏ, tôi ở quê hoặc theo ông bố xuống học tiểu học ở Thái Bình, nhưng Hà Nội vẫn là nơi tôi đi về qua lại luôn luôn. Đọc sách Hà Nội cũ của Sở Bảo Doãn Kế Thiện, đọc các tiểu thuyết của Nguyễn Triệu Luật, đọc báo Ngày nay lúc ấy, tôi thấy mê một Hà Nội tài hoa và có nhiềi truyền thống lịch sử. à trước đó, còn phải nói đọc những bài thơ như La ga Hà Nội, như Chợ Đồng Xuân của Tản Đà và nhiều bài khác đăng trong Tứ dân văn uyển nữa chứ, đọc để thấy Hà Nội thật bình thường, mình đang được sống ngay trong lòng nó, năm nào cũng được đến với nó, mà thật ra là một mảnh đất thiêng liêng cao quý.
  • – Anh có mặt ở Hà Nội ngay từ những ngày khởi nghĩa?
  • – Thật ra, đúng hôm ấy thì tôi ở Thái Bình, tôi được chứng kiến dân ở đây chiếm dinh tuần phủ và bắt thằng Bang làm việt gian. Nhưng ngay hôm đó, tôi cảm thấy phải về Hà Nội, những ngày này mà không có mặt ở Hà Nội là không được. Tôi trở về trong một Hà Nội đỏ rực màu cờ. Từ đó vừa đi học tiếp tôi vừa tham gia hoạt động phong trào học sinh, kể cả có một thời gian cùng anh Phong Nhã làm tờ báo Trẻ tháng Tám tiền thân của tờ Thiếu niên tiền phong ngày nay.
  • – Cứ thế anh trở thành thành viên của Trung đoàn Thủ đô ngay giữa Thủ đô Hà Nội?
  • – Không, cũng có đứt quãng ít chút, nhưng cái gì thật là của mình thì trước sau vẫn gặp. Nguyên là tham gia chiến đấu một thời gian, tôi bị kiết lỵ phải đưa ra ngoài. Đến khi khoẻ, do tôi vốn là người của phong trào thanh niên nên lại được đưa sang một đội thanh niên khai hoang phụ trách một ấp nông dân ba mươi người. Tôi ở đấy vài tháng, nhân nghe nói vùng bên kia sông có một đơn vị bộ đội, mới mò sang chơi, thì lại gặp đúng các đồng chí chỉ huy cũ. Đồng chí Hồng Cư, đồng chí Đặng Quốc Bảo, các đồng chí mới kéo đi học quân chính và bổ sung về 308. Sinh hoạt hồi ấy vui nhộn lắm. Thì anh tính cánh lính trẻ mới 17, 18, chúng tôi cứ gặp nhau là hỏi tin Hà Nội. Có khi bạn bè gặp nhau ngồi nói chuyện về những kỷ niệm ngày trước mà thức trắng đêm. Làm nội san cũng toàn viết về Thủ đô. Đến ngay cắm trại, bao giờ cũng quy hoạch địa điểm thành ra phố xá vuông vắn. Này là Hàng Ngang kia là Hàng Đường, giữa có Hồ Gươm, Tháp Rùa là nơi ban chỉ huy đơn vị đóng.  Cứ kể ra, viết lại, tả cho thật kỹ càng, tỷ mỉ, cũng  đã là hay lắm rồi.
  • – Vấn đề bản sắc riêng của Hà Nội nên được hiểu ra sao?
  • – Bên cạnh những đổi mới hiện đại, phải giữ lấy những gì tốt đẹp trong quá khứ. Không phải tất cả những gì thuộc về ngày hôm qua đều bỏ đi cả. Nhất  đây lại là những nét truyền thống của một Hà Nội ngàn năm văn vật, và truyền thống này đã phát huy sức mạnh của mình, cổ vũ chúng ta tiến lên trong những năm chống Mỹ.
  • – Trong các giai đoạn lịch sử gần đây của Hà Nội (từ năm 1945 đến nay) thì anh mê giai đoạn nào nhất?
  • – Nói ra có lẽ có người bảo mình tham lam, nhưng quả thật giai đoạn nào của Hà Nội tôi cũng mê, tôi chẳng bỏ giai đoạn nào cả và khi có điều kiện là tôi ngồi viết. Dự định sắp tới của tôi ấy ư? Tôi định viết ngay về Hà Nội những năm từ sau 1975 trở đi. Có người chê cuộc sống bây giờ hỗn tạp quá, thậm chí một vài người chỉ thấy những nét tiêu cực. Tôi thì không thế. Tôi thấy Hà Nội vẫn có những nét đáng yêu của nó, vẫn đầy sức sống, vẫn giầu tài năng và giữ được một nếp sống tài hoa. Phải viết chứ anh.
  • Chia tay Hồ Phương, trong tôi hằn lên ấn tượng về một con người hồ hởi nhẹ nhõm, cứ băng băng mà lướt tới, theo ý đồ đã định sẵn. Con người đó hăm hở, tự tin, không cần  trăn trở gì nhiều vì cảm thấy trăn trở chả có ích gì, trước mắt, chỉ có một điều lo lắng là làm  nốt công việc đang làm dở, bởi lúc nào cũng còn bao nhiêu việc đã nghĩ xong mà chưa kịp làm. Trong con người đó hầu như lúc nào cũng toát lên một thách thức. Có việc gì là khó đâu! Thế nào ta cũng sống được mà còn sống khá nữa là khác!
  • Chẳng phải đó cũng là một nét làm nên tính cách Hà Nội ở trong anh, ở tôi, ở nhiều người chúng ta?
  • Chẳng phải có bao nhiêu người Hà Nội hôm nay cũng đang sống bằng một triết lý như thế?
  • Hà Nội và việc đào tạo lớp nhà văn trẻ từ sau 1954
  • Theo một báo cáo về công tác đào tạo lực lượng những người viết trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam; thì từ 1962, Hội bắt đầu mở các lớp đào tạo người viết văn tại Quảng Bá. Từ đó, một phần đáng kể những người viết trẻ qua trường này mà có dịp chính thức về học ở Thủ đô ít ngày và làm quen với những phong trào sáng tác.
  • Nhưng trước khi có trường viết văn Nguyễn Du, có một nơi đã sớm làm việc thu hút và rèn luyện các cây bút trẻ, đó là các cơ quan văn hoá Hà Nội. Các hoạt động do Sở văn hoá khởi xướng khoảng 1958-60 tuy nhỏ bé, nhưng không phải không có ý nghĩa.
  • Xin được bắt đầu bằng một kỷ niệm riêng sau đây.
  • Đang học lớp 8, ở trường Chu Văn An, niên khoá 1958-59, tôi được một anh bạn cùng lớp tên là Xuân Đạm cho xem mấy tờ bướm in ca dao, do Sở văn hoá Hà Nội phát hành. Đạm cũng có ca dao in ở đấy. Theo ý anh, làm ca dao như thế này không khó lắm, đại khái trong những bài thơ, ca dao chúng tôi vẫn làm và “đăng” ở bích báo của lớp học ra những bài khá sửa chữa thêm, gửi đến 47 Hàng Đậu, chắc cũng đăng được. Điều đó làm cho tôi rất thú vị. Tôi mạnh dạn làm theo lời Xuân Đạm khuyên. Thế là ít lâu sau, tôi đọc thấy tên mình sau một số bài ca dao, với số nhuận bút cũng đáng kể lúc ấy là 2 đồng một bài bốn câu.
  • Nhưng điều thu hoạch lớn nhất của tôi trong những ngày viết cho Tiếng hát quê ta, Tiếng máy… là được biết mặt, biết tên một số người viết khác. Các anh Võ Văn Trực, Ngô Văn Phú, đang học Đại học Tổng hợp, anh Ngô Trực Nhã đâu ở một khoá của Đại học Bách Khoa, rồi các anh Bùi Kim, Văn Tuế, Văn Sửu, Nguyễn ái Mộ, ở ngoại thành.
  • Sở dĩ chỉ nói biết mặt biết tên mà không dám nói quen vì so với các anh đó, tôi còn ít tuổi hơn, và viết lách không có là bao. Sau này, khi chuyển về công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ở Tác phẩm mới, chúng tôi mới nói chuyện với nhau nhiều hơn. Dù thời gian viết cho Tiếng hát quê ta chỉ ngắn ngủi nhưng nghĩ lại, chúng tôi đều thấy đấy là những kỷ niệm đáng ghi nhớ.
  • Người dìu dắt các “cây hút trẻ” viết cho Tiếng hát quê ta, Tiếng máy lúc ấy là anh Huyền Tâm. Tôi còn nhớ bấy giờ đâu anh trên bốn mươi, người gày cao, dáng lòng khòng, nhưng mắt sáng, và nụ cười rất tươi. Anh đã nổi tiếng với bài Lúa tháng năm kén tằm vàng óng từ kháng chiến, nên đối với chúng tôi rất có uy tín. Ngoài việc biên tập bài vở, Huyền Tâm còn tổ chức cho chúng tôi một số buổi học chính trị, và trao đổi về nghiệp vụ. Gần đây, nhân một lần cùng với một số bạn bè khác gặp nhau tại nhà Huyền Tâm, ở phố Phùng Hưng (nay anh đã nghỉ hưu), tôi mạnh  dạn bảo “Tất cả bọn chúng tôi đều từ ống tay áo của Huyền Tâm mà chui ra cả”, anh Huyền Tâm cười vui, mà những anh em khác cũng rất đồng tình.
  • Và Võ Văn Trực kể: thời gian 1958-60 rất quan trọng đối với anh. Tuy chưa viết gì nhiều, nhưng đây là thời gian anh nung nấu với nghề, và việc gặp gỡ với những anh em viết ở Hà Nội càng giúp cho sự nung nấu ấy ở anh thêm mạnh mẽ. Sau khi tốt nghiệp đại học Tổng Hợp ra. Võ Văn Trực được phân công về Bộ ngoại giao, nhưng anh quyết tâm xin chuyển sang nhà xuất bản Thanh Niên để viết. Có gì phải hối hận trong chuyện đó không? Khi nghe tôi hỏi. Võ Văn Trực cười, cảm thấy không có gì phải tính lại con đường của mình cả.
  • Ngô Văn Phú, Võ Văn Trực cũng như nhiều anh em “nhân cốt” trong lực lượng sáng tác của Sở văn hoá Hà Nội năm ấy hiện nay đang là thành viên tích cực của lực lượng văn nghệ thủ đô. Ngoài thơ, Võ Văn Trực còn là tác giả tập bút ký Nắng sáng trời ngoại ô, Ngô Văn Phú thì có tiểu thuyết Tình yêu đến từ nơi ấy, đều in ở Nhà xuất bản Hà Nội. Dù quê hương nơi đâu, các anh đã cùng với đất này mà trưởng thành, và thành thật coi đây là nguồn thúc đẩy cho mọi sáng tác của mình.
  • Nhân đây, xin được nói phác qua thêm về lực lượng văn nghệ trẻ Hà Nội.
  • Từ khi Hội Nhà văn Việt Nam có cả một tiểu ban đặc trách lực lượng sáng tác trẻ, các cơ quan văn nghệ trực thuộc thành phố vẫn tiếp tục duy trì các hoạt động bình thường và thu hút vào mình nhiều mầm non văn nghệ khác.
  • Quây quần chung quanh Sở Văn hoá Hà Nội, và về sau, Hội Văn nghệ Hà Nội, có các cây bút Lý Thị Trung, Bùi Kim, Lê Bầu, Chử Văn Long, Vũ Đình Minh, Vũ Xuân Hoát, Tô Hải Vân, Vũ Đình Văn… Một số bạn tuy thuộc các cơ quan khác, nhưng cũng có nhiều gắn bó với phong trào sáng tác Thủ đô. Đó là Trần Hoàng Bách, Nguyễn Thái Vận, Trần Dũng, Vũ Duy Thông… và số trẻ hơn, Nguyễn Thuỵ Kha, Hoàng Việt Hùng, Trần Hoà Bình v.v… và v.v… Nhiều anh chị em này đã được tặng thưởng trong các cuộc thi sáng tác ở Trung ương và Hà Nội. Trưởng thành từ Thủ đô, các bài thơ, bút ký truyện ngắn và cả những trang tiểu thuyết của họ thường viết nhiều về sinh hoạt Thủ đô. Những người như họ làm nên một phần nếp sống bình thường của sinh hoạt văn nghệ Hà Nội hôm may.
  • Bùi Minh Quốc
  • Có những bài thơ tuy không thật hay, nhưng do nhiều lý do khác nhau, trong đó lý do quan trọng nhất là nói được đúng tâm lý người đương thời, nhất là thanh niên, nên được truyền tụng rộng rãi.
  • Một trong những bài thơ đó là Lên miền Tây của Bùi Minh Quốc. Thanh niên những năm 1958-60, hẳn nhiều người còn thuộc nó:
  • Xe chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núi
  • Lên miền Tây vời vợi nghìn trùng
  • Ôi , miền Tây, ở dưới  xuôi sao nghe nói ngại ngùng
  • Mà lúc ra đi, lửa trong lòng vẫn cháy
  • Cái tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
  • Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường
  • Sống ở Thủ đô mà dạ để  mười phương
  • Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn.
  • Nhớ tới bài thơ, chúng ta nhớ lại những ngày sôi nổi khi hoà bình lập lại trên miền Bắc, đặc biệt là 1958, không khí hết sức hồ hởi.
  • Nhớ tới bài thơ, những người năm nay trên bốn mươi cũng nhớ lại một quãng đời tuổi trẻ, với lý tưởng phấn đấu thật trong sáng, lúc nào cũng nghĩ tới cống hiến, chứ không tới hưởng thụ, nghĩ tới tập thể chứ không nghĩ tới cá nhân. Nhiều công trường được mở ra. Người thanh niên năm ấy sẵn sàng đi  xa, làm đủ công việc vất vả, ăn uống thế nào cũng xong, không cần tiện nghi, miễn làm sao làm được công việc có ích. Tất cả như mê đi trong một niềm say mê lý tưởng cao quý.
  • Riêng trong thanh niên học sinh cấp ba (hồi ấy sinh viên đại học có rất ít) luôn luôn có những cuộc thảo luận về mục đích lý tưởng sống, về động cơ làm việc. Rồi xuống xã cùng ăn, cùng ở, cùng làm với bà con nông dân. Rồi vào nhà máy, làm việc với công nhân, và mở xưởng trường, tự tay làm xà phòng, làm dầu xả v.v…
  • Học sinh cấp ba những năm 1954-55 nhiều nơi nam còn mặc com-plê, nữ còn mặc áo dài đến trường . Bước sang những năm 1957-58, người ta khoác lên vai cái áo nâu một cách thoải mái. Không khí lúc nào cũng sôi nổi, như trong những ngày hội.
  • Đấy chính là cái môi trường làm nảy sinh  Lên miền Tây và nhiều sáng tác tương tự.
  • Bùi Minh Quốc kể với tôi về trường hợp làm bài thơ. Bấy giờ, anh đang học ở trường Chu Văn An, Chi đoàn nhà trường phát động một đợt học tập Paven Coócsaghin (nhân vật chính trong Thép đã tôi thế đấy). Bùi Minh Quốc dùng thơ để phát biểu, bài thơ ban đầu mang tên Gửi Pa-ven, sau được tác giả sửa chữa lại, và có hình thù như hiện nay.

Theo Bùi Minh Quốc tự nhận, sở dĩ bài thơ có được tiếng vang nào đó trong lòng những người cùng lứa tuổi, và cả giới văn nghệ nữa (đã được chọn vào Thơ Việt Nam 1945-1960, được đưa vào chương trình phổ thông v.v…), vì nó nói đúng một phần tâm trạng thanh niên Hà Nội trong những năm ấy, nhìn lại kháng chiến chống Pháp, thấy sự nghiệp của cha anh vĩ đại quá, thấy đời mình chỉ có ý nghĩa, nếu lao vào gian khổ, phấn đấu tiếp tục huyền thoại ấy. Bài thơ cũng nói đúng khát vọng đi xa, hết tầm mơ ước của  tuổi trẻ.

Trước khi viết Lên miền Tây, Bùi Minh Quốc đã có làm thơ, nhưng chỉ từ Lên miền Tây anh mới được nhiều người biết. Với một số học sinh cấp ba đương thời, nghề văn đang là một nghề hết sức tốt đẹp, và thành công của Bùi Minh Quốc hình như ít nhiều có góp phần khẳng định cho một số người do là nếu kiên trì phấn đấu chắc mình sẽ đến với nghề này được.

Cùng với Bùi Minh Quốc, trong thời kỳ này (1964 về trước, tức là trước cuộc kháng chiến chống Mỹ) phải kể Trần Nhật Lam, Nguyễn Đình Hồng, Thái Giang, Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân) v.v…

Sau Lên miền Tây, Bùi Minh Quốc  còn là tác giả truyện ngắn Cô thợ nề, và một truyện viết cho thiếu nhi, Phi lao út của Bé Ly. Anh cũng viết nhiều cho Tiếng hát quê ta, Tiếng máy, trong đó có những bài nói tới sông Hồng, hồ Bảy Mẫu (sau là công viên Thống Nhất, và nay là công viên Lê Nin).

Trong thời gian học cấp ba Chu Văn An và học Đại học Tổng hợp anh làm quen thêm với báo chí, những người viết văn chuyên nghiêp, để rồi đứng hẳn vào đội ngũ đó. Trung thành với lý tưởng “Sống ở Thủ đô mà dạ để mười phương” từ 1967 anh xung phong vào Nam chiến đấu. Hiện nay, Bùi Minh Quốc vẫn công tác ở Hội văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng. Những khi ra Hà Nội họp, gặp lại bạn bè, anh không quên nhắc tới kỷ niệm những năm 1958-60.

Những người cùng học với Bùi Minh Quốc những năm ấy, ở trường Chu Văn An, như Trần Nhật Lam, Bùi Bình Thi, Vũ Quần Phương, Lữ Huy Nguyên, v.v… hiện đang đảm đương nhiều mặt công tác của đời sống văn học ở Thủ đô. Các anh đã bước vào tuổi bốn mươi, lứa tuổi chín chắn cả trong cuộc đời, lẫn trong sáng tác.

+

+  +

Nếu từ 1965 về trước, việc đào tạo các nhà văn trẻ ở ta đã được đặt ra, nhưng tiến hành còn chậm chạp, thì từ 1965 về sau, công tác này được đặc biệt coi trọng. Đây là những ngày miền Bắc sôi nổi khí thế chiến đấu chống Mỹ, một cuộc chiến tranh vĩ đại mà lúc ấy, mọi người đều háo hức chờ đón và muốn mang hết sức ra để đóng góp. Trong thanh niên, điều ấy càng rõ. Cảm hứng anh hùng bừng bừng trong lòng, nhiều bạn trẻ cầm lấy bút, những mong giãi bày những sôi nổi của lòng mình trên mặt giấy. Đấy là một lý do. Phần khác, chiến tranh lần này được tổ chức rất chu đáo, đội quân báo chí văn chương được sắp xếp đi về thường xuyên các mặt trận hoặc ở lại lâu dài ở cơ sở, vì thế công việc huấn luyện những chiến sĩ mới càng có vai trò không thể xem nhẹ.

Một điều có thể thấy ngay là mặc dù, trong thời gian 1965-1968, các cơ quan Hà Nội phải sơ tán về các tỉnh lân cận, song Thủ đô vẫn là nơi đào luyện hình thành  nên đội quân những người viết trẻ hết sức đông đảo này.

đỗ Chu

Ngay từ 1963, nhà văn Đỗ Chu đã có những sáng tác đầu tay in trên Văn nghệ quân đội, và những Mùa cá bột, Hương cỏ mật, Thung lũng cô… đã làm cho nhiều bạn đọc say mê.

Từ thị xã Bắc Ninh, nơi ở của Chu cách Hà Nội chỉ 29 ki-lô-mét, gia đình lại có người chị sống ở Thủ đô, nên thỉnh thoảng cậu học sinh trường Hàn Thuyên vẫn ra đây luôn. Tuy vậy, phải đến khi anh đi bộ đội, có truyện đăng báo, rồi chuyển về công tác ở Cục chính  trị Bộ Tư lệnh Phòng Không, thì Hà Nội đối với anh mới thật gần gũi.

Đỗ Chu những năm chiến tranh đã trở thành một con người của Hà Nội, cùng chia xẻ vui buồn với mọi người như vậy. Anh như một cái dấu nối giữa Hà Nội đời thường với bộ máy chiến tranh đang hoạt động âm thầm, để bảo vệ Hà Nội.

Thật thế. Thử nhớ lại những năm đó, chúng ta sẽ nhớ lại cảm tưởng vui vui, khi được gặp một người lính áo xanh lá cây, quần tím than, những người lính phòng không- không quân. Ta sẽ biết thêm một chút về tình hình địch sẽ đánh phá Hà Nội ra sao, bộ đội bắn trả như thế nào. Ngược lại, những lúc đến với đơn vị Đỗ Chu sẽ mang chuyện Hà Nội kể cho đồng đội.

Nếu nói mỗi nhà văn phải vẽ ra một Hà Nội của riêng mình thì hơi quá, song phải nhận, tuy cách cảm thụ riêng, mà Hà Nội trong văn mỗi người lại có chút khác đi.

Trong văn Đỗ Chu, Hà Nội hiện ra một cách duyên dáng, một Hà Nội thường là ngoại ô, nghĩa là có những bóng bàng thưa, có những vệt dài cô gái đi gánh nước và tiếng chuông tàu điện leng keng. Con trẻ thích bắt cánh cam, xén tóc. Thanh niên thết nhau bằng cách mời nhau bát phở, que kem. Nhưng đó là thời mỗi người sống tự bằng lòng với mình, nghĩ nghèo mà trong sạch là quý rồi, không mong gì hơn, không ai bị tiện nghi ám ảnh và cái phần thưởng quý nhất với mọi người là những phần thưởng về tinh thần. ở Hà Nội bấy giờ người già, người trẻ sống hoà hợp với nhau, người ở nông thôn ra với người ở thành thị hết sức thông cảm, bà con hàng phố gửi chìa khoá nhà cho nhau, chăm sóc nhau, như người có họ hàng ruột thịt. Và Đỗ Chu cũng miêu tả mọi người một cách tự tin như là những ruột thịt của chính mình, ở cái thị xã bé nhỏ mà anh vẫn sống.

Kết thúc truyện ngắn Thành phố bên kia cầu (1966), Đỗ Chu viết mấy câu có vẻ bâng quơ.

Quê hương chúng ta là những xóm nhỏ, những cánh đồng và nếu là thành phố thì những thành phố ấy thường nằm trên bờ sông có nhịp cầu thân thuộc bắc qua.

Tuy Đỗ Chu không nói rõ, nhưng những thành phố mà anh nói sở đây có thẻ bao gồm cả Hà Nội. Một sự tiếp nhận thanh thản, dịu dàng! Và đó chính là cảm hứng chính mà Thủ đô gợi lên trong tâm trí Đỗ Chu và bạn bè anh những năm ấy, để rồi còn lại dư vị trong sáng tác của anh rất lâu về sau.

Lưu Quang Vũ

Cũng gắn bó thân thiết với Đỗ Chu ở Hà Nội trong những năm 1965-1970, có nhiều bạn bè khác, trong đó, nổi lên là Phạm Tiến Duật và Lưu Quang Vũ.

Trong những năm chống Mỹ, Phạm Tiến Duật  như một cái dấu nổi giữa mặt trận và Hà Nội. Từ khi đi bộ đội, gần như Phạm Tiến Duật rất “có duyên” với bom đạn, cứ ở đâu đánh mạnh, anh ở đó…

Năm 1965, anh ở Thanh Hoá. 1967-1968, về Hà Nội, chia lửa với Hà Nội. Từ giữa 1968, đi dần vào trong Vinh, Nam Đàn, Hà Tĩnh, Quảng Bình, rồi thấu suốt cả tuyến đường 559, nghĩa là sát với B2, B1 v.v… Nhưng dù đi xa tận đâu, gần như năm nào anh cũng có dịp ghé về “đất thánh” ít ngày. Đang ngồi với nhau ở một toà soạn nào đó, thình lình chúng tôi bắt gặp Duật vào. Chả bao giờ anh có balô, quà tặng gì cả, anh đi xe đạp tới, hẳn hoi, và đã đổi cách ăn mặc, y như lâu nay Duật vẫn ở Hà Nội. Anh ngồi ở nhà một bạn nào đó, vừa tham gia vào mọi mặt sinh hoạt, vừa viết. Rồi đến một hôm nào đó, lại nghe nói anh sắp phải đi, và bạn bè lại ùn đến đưa tiễn, như trước đó, đã đổ đến, để nghe anh kể chuyện về mặt trận.

Còn Lưu Quang Vũ thì vốn là một học sinh, học ở Hà Nội suốt từ cấp một đến cấp ba. Gốc gác gia đình ở Đà Nẵng. Nhưng bố Vũ, ông Lưu Quang Thuận đã ra Hà Nội từ trước 1945 và trước khi toàn quốc kháng chiến, 1946 ông Thuận đã từng chủ trì tạp chí Sân khấu và nhà xuất bản Hoa Lư. Mẹ Vũ là người Hà Nội gốc.

Tôi nhớ có lần được Vũ dẫn vào nhà bà ngoại chơi, ở phố Nguyễn Siêu. Đó là một ngôi nhà cổ, mái lợp ngói lá đề, ngoài có cửa bức bàn. Qua phòng ngoài chúng tôi vào sâu hơn, thấy một khoảng hẹp, sáng nhờ nhờ, nhìn lên, hoá ra có những mảng kính mờ, để cho nhà đỡ tối. Loại nhà này còn đặc biệt ở chỗ mái quay vào trong, và khoảng sân hẹp có những ống máng dẫn nước mưa xuống, đổ vào bể. Đấy là những căn nhà đã có tuổi thọ khá cao, theo gia đình kể, trước nhà lúc đầu còn là dòng sông Tô Lịch, sông này lại ăn ra sông Hồng. Vậy là nhà phải làm trước 1889 (Theo tài liệu của Nguyễn Vinh Phúc trong Đường phố Hà Nội H. 1979) và thuộc vào loại những căn nhà gạch đầu tiên được xây ở khu vực này.

Về nhiều mặt, Lưu Quang Vũ đúng là một thanh niên Hà Nội. Anh làm thơ từ nhỏ, lại còn học vẽ, từng cắp giá vẽ, theo hoạ sĩ Nguyễn Đức Nùng đi khắp nơi. Anh sống giữa nhứng người làm văn học nghệ thuật một cách thoải mái, như trong gia đình.

Cách ăn mặc, nói năng, đi lại của Vũ là cách của người trong phố, không thể lầm với người ở một ngoại ô nào, mà càng không phải là người thị xã. Tuy nhiên trong thơ của Lưu Quang Vũ cảm xúc về thiên nhiên còn rất mạnh. Tập thơ đầu tay của anh in chung với Bằng Việt có tên là tạp Hương cây, trong đó có rất nhiều bài nhắc đến “mùi hồng, mùi bưởi, mùi na”.

Đây cũng là một nét tiêu biểu cho nhiều thanh niên Hà Nội bắt đầu viết từ những năm chống Mỹ.

Gần đây hơn, trong những truyện ngắn in trong các tập Người kép đóng hổ, Mùa hè đang đến, người ta lại thấy Vũ nói với những khía cạnh sinh hoạt bình thường của người dân Thủ đô sau chiến tranh. ở truyện này, mấy người bạn già đấu đầu trò chuyện sự đời, con cái. Truyện kia, những cặp thanh niên yêu nhau, giận hờn gia đình về ở lại với nhau, rồi chán ngán chia tay. ở một truyện khác nữa, câu chuyện về một đứa trẻ bị bỏ rơi, được cứu sống lại

Sau những năm chiến tranh vất vả, thành phố hiện có bao bao nhiêu vấn đề đặt ra trong đời sống hàng ngày, không có vấn đề nào là riêng tư, bởi thành phố được làm nên từ những con người rất cụ thể. Lưu Quang Vũ đón nhận lấy để viết, viết từ những người hàng xóm mình, từ những người cùng cơ quan với mình, từ gia đình mình và từ chính mình… Viết như thế, cho nên Lưu Quang Vũ được chào đón nồng nhiệt, cả trong kịch, trong truyện.

Với cách làm việc hôm nay, Lưu Quang Vũ đạt tới trình độ tay nghề của các nhà văn chuyên nghiệp trước đây nghĩa là viết đều, viết khoẻ, bằng một cách viết dung dị mà ai cũng có thể hiểu được.

Khu vực nổi hơn cả của nhà văn Hà Nội này gần đây là sáng tác kịch. Trong dịp kỷ niệm ba mươi năm giải phóng Thủ đô vừa qua, vở Hẹn ngày trở lại đã được trình diễn rộng rãi, Lưu Quang Vũ thường nói với tôi:

Đã có lúc tôi thử tính chuyện chuyển vào Đà Nẵng hoặc thành phố Hồ Chí Minh, nhưng rồi thấy không đi đâu mình làm ăn viết lách tốt bằng ở Hà Nội.

Bằng Việt

Một thi sĩ khác, từ khi mới xuất hiện trong lực lượng  những người viết trẻ hồi đầu chống Mỹ, đã được coi như rất lịch sự, tài hoa, trí thức và thường  coi như tiêu biểu cho Hà Nội hôm nay, đó là Bằng Việt.

Cũng như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt học phổ thông ở Hà Nội. Về sau, dù đã đi học ở nước ngoài, rồi lại về công tác ở một cơ quan rất nghiêm túc như Viện Luật, thuộc ủy ban khoa học xã hội, nhưng lúc nào trông anh cũng còn dáng dấp thư sinh, trẻ trung hiền hậu. Anh em bè bạn đến nhà chơi thường ngồi nghe Bằng Việt kể một ít tin tức văn học ở nước ngoài, đọc một ít bài thơ mới dịch, hoặc mở máy quay đĩa, nghe một vài bản nhạc cổ điển.

Nhưng tất cả những cái đó không xa lạ với Hà Nội chiến đấu. Trong cách giải thích của nhà thơ, tác giả tập Bếp lửa mới in ra bấy giờ, toàn bộ truyền thống văn hoá nói chung, truyền thống lịch sử của Hà Nội nói riêng, nghĩ cho kỹ, đều dẫn tới một kết luận duy nhất, chúng ta phải đánh Mỹ.

Đánh Mỹ là lương tâm, hy vọng!

Đánh Mỹ là “tận cùng hạnh phúc”!

Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ viết về Hà Nội hay nhất của Bằng Việt có nhan đề Trở lại trái tim mình. Nó quy tụ nhiều suy aghĩ của thế hệ thanh niên có tri thức của Thủ đô lúc ấy, mà cái suy nghĩ thường trực nhất là sứ mệnh lịch sử của Hà Nội, tầm vóc của Hà Nội trong cuộc chiến đấu chung.

Tuy không có những chữ huyền thoại, thần thoại như thơ Bùi Minh Quốc hồi nào, nhưng âm hưởng chính mà thơ Bằng Việt toát ra, vẫn là âm hưởng hoà hợp, cá nhân và tập thể hoà hợp, hôm nay và hôm qua hoà hợp, nghĩa là thực chất vẫn là rất gần với sự thành kính thiêng liêng của huyền thoại. Có những chi tiết phác ra hình ảnh một thành phố trong chiến tranh, những chuyến hàng sang sông, cầu phao cót két, những hầm trú ẩn cá nhân… Nhưng cái phần để lại ấn tượng sâu sắc nhất, qua sự miêu tả của tác giả là một Hà Nội có truyền thống văn hoá lâu đời, lại từng trải, khiến người ta vừa cảm thấy vừa yêu, vừa phục.

Bằng Việt đã làm khá nhiều bài thơ về Hà Nội. Trong thơ anh, Hà Nội là gặp gỡ của bạn bè, của tình yêu. Là nơi xuất phát để đi xa. Là nơi sống với mọi vui buồn của đất nước. Lại là nơi sẽ quay về sau đất nước đã thống nhất, và theo cách nhấn mạnh của nhà thơ, bấy giờ, Hà Nội vẫn trọn vẹn vẻ đẹp cũ, như người con gái trải qua bao nhiêu thử thách của chiến tranh bên vẻ dịu dàng, có thêm cái rắn rỏi và sâu lắng hơn trong cách nghĩ, nên càng thêm đẹp. Không phải chỉ riêng nhà thơ tác giả Trở lại trái tim mình, Lương tâm mà có thể nói và rất nhiều người trong chúng ta, trong những năm chiến tranh, đã nghĩ như vậy.

Như trên vừa kể, khi cuộc chiến đấu chống Mỹ vừa bắt đầu thì Bằng Việt học xong đại học ở nước ngoài về, và từ đó, những nét tiểu sử riêng của nhà thơ hầu như hoà nhập với những lo toan bận bịu chung của người cán bộ thành phố. 1965-1966, bắt đầu sơ tán, người lên Sơn Tây, người qua Sông Hồng, về Bắc Ninh, Hải Dương. Cầu gẫy, rồi cầu được khôi phục. Những ngày về qua Hà Nội, nấu cho nhau bát canh mì sợi, mua ít gạo, kiếm ít sách vở rồi lại ra đi. Những năm bảy mươi, một đợt sơ tán ngắn nữa, một đợt đánh B52, và những ngày đi chiến trường, vào Đông Hà, Quảng Trị, vào xa nữa, B2, B1, sau đó là chiến thắng, là gặp mặt ở Sài Gòn.

Mười năm ấy, Bằng Việt luôn luôn đứng ở góc độ Hà Nội để viết. Có những băn khoăn, xao động, nhưng  rồi những yên tâm hợp lý lại đến, cái yên tâm rất cần thiết cho đời sống bình thường. Và cả cái tâm tình kỳ lạ này – say mê, ngơ ngác với chính mình.

Hà Nội ơi! Không biết bao lần

Tôi đi vắng rất lâu, trở về gặp lại

Hà Nội vẫn làm tôi ngơ ngác mãi

Giữa nhịp phố quá dịu dàng, mái phố quá yên tâm

Đó cũng là – theo nhà thơ – một cách chiến đấu của Hà Nội, một cách góp phần vào cuộc chiến đấu chung của cả nước.

Hoài Anh- Nguyễn đức Mậu

Lê Lựu – Triệu Bôn

Năm 1967, trong một dịp nào đó, tôi có may mắn được quen Hoài Anh và thú vị được biết cái địa điểm anh ở. Đó là một căn gác xép trên tầng nóc rạp Chuông vàng Hà Nội. Bạn bè không mấy khi lên trên đó. Có việc cần, chúng tôi chỉ từ dưới đường Tạ Hiền réo lên, và thấy Hoài Anh – nếu anh có nhà – hiện ra qua khung cửa sổ nhoẻn cười, xuống đường rủ chúng tôi đi chơi. Không ít người chúng tôi lúc ấy đã có xe đạp. Nhưng Hoài Anh thì không hoặc không muốn có cũng được. Đi đâu, anh chỉ cuốc bộ và không hề phải băn khoăn gì về cách đi lại của mình. “đi như thế mình lại nghĩ được nhiều việc cần làm” – Hoài Anh giải thích.

Nghĩ đến Hoài Anh, chúng tôi hay nhớ đến bài thơ Nhớ ngày thủ đô kháng chiến, trong đó có mấy câu

Một người bạn tôi gặp trong đêm ấy

Ra phố mua một bao thuốc lá

Chín năm sau anh mới trở về nhà

Phải chăng đây cũng là một mẫu người viết Hà Nội kỳ lạ, độc đáo? Anh viết kịch bản cho các vở cải lương, đâu viết rất nhiều tuy không ký tên. Sau 1975 anh vào Sài Gòn làm Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh giữ mục Phê bình văn học nghệ thuật, và tỏ rõ tài đa-dê-năng của mình. Nhưng chỗ chúng tôi nhớ Hoài Anh nhất, vẫn là thơ.

Hoài Anh thuộc vào loại sống nhiều, sống kỹ với Hà Nội từ 1955 đến 1975. Giá kể, lúc nào đó, anh có điều kiện viết về đời sống nơi đây như anh biết, chắc có nhiều cái hay. Sự trưởng thành của Hoài Anh không giống một ai. Anh tiếp thu được cái phần Hà Nội mà nhiều người không biết và không quan tâm, nhưng chính vì thế, bạn bè hay nghĩ tới anh.

Qua Hoài Anh, ta thấy thêm một sự thật: ở Thủ đô thường có những người viết rất độc đáo, và thành phố này có thể chấp nhận được những kiểu người viết khác nhau, miễn họ thực sự là người cầm bút.

Dẫu sao, từ năm 1954 trở đi, kiểu người viết như Hoài Anh hơi ít. Phổ biến hơn là kiểu học sinh Hà Nội thích viết văn, đi xa để viết, thích viết về những miền xa ấy, hơn là viết về Hà Nội. Đó là những Bùi Minh Quốc, chúng ta đã nói ở trên, hoặc Nguyễn Thị Ngọc Tú, Dương Thị Xuân Quý sẽ nói dưới đây.

Một người như Bùi Bình Thi chẳng hạn. Bản thân cũng là học sinh Chu Văn An, nhưng Bùi Bình Thi cũng rất hay đi xa, từ Tây Nguyên tới Bắc Lào, các binh trạm Trường Sơn, những nơi ấy anh đã đi về nhiều lần, để rồi viết ra Ký sự Xiêng Khoảng, Đường về Cánh đồng Chum v.v… Có lẽ “thời chiến” đã tạo nên một kiểu lập nghiệp như thế!

Trong khi ấy, làm nên một phần cái nôi nổi của đời sống văn học ở Hà Nội lại là những anh bộ đội ở các tỉnh xa về, những Lê Lựu, Triệu Bôn, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Vương Trọng v.v… và v.v…

Trong thái độ đối với phố phường Hà Nội, Nguyễn Đức Mậu có phần giống như người đồng hương  trước đây của anh là Nguyễn Bình Nghĩa là, dù có lẽ là một chút, giữa những anh em sáng tác, thì Mậu vẫn không coi đây là nhà của mình. Tâm hồn anh để cả ở nơi khác, những mảnh đất chiến trường mà anh quen thuộc Tuy vậy, Nguyễn Đức Mậu không làm dáng, không đóng kịch, không chê bai cách sống Hà Nội. Anh lặng lẽ đón nhận không khí văn học nơi đây, học lấy những bài học có ích, để rèn giữ cho sáng tác của mình có thêm bản sắc. Lúc cần, anh cũng làm thơ về một bức Ghéc-ni-ca của Pi-cát-xô. Nhưng chỉ có thế.

Trong một bài thơ gần đây, viết nhân dịp 30 năm giải phóng Thủ đô, bài Hà Nội chiều nay, Nguyễn Đức Mậu vẫn giữ một thái độ bình thản như vậy. Không vồ vập, mà cũng không lảng tránh. Vẫn nhớ quê hương và cảm thấy tâm tình của mình để cả ở một miền quê Nam Định. ở Hà Nội, Mậu thèm từ một tiếng gà gáy quen thuộc trở đi, nhưng cũng vẫn sung sướng thấy rằng mình ở đây, trưởng thành lên, chỉ ở đây, sáng tác của mình mới đi hết được khả năng của nó, và mình mới có một cuộc đời như mình mong muốn.

Giữa Lê Lựu và Triệu Bôn có nhiều nét giống nhau. Các anh cùng bắt đầu viết từ trước 1964 ít lâu vào thực sự trở thành những cây bút văn xuôi từ những năm chống Mỹ. Các anh cũng đã lăn lộn nhiều ở các mặt trận, các đơn vị xã và chỉ thỉnh thoảng mới ghé về Hà Nội. Mà mỗi khi về, cũng chỉ quan hệ cầm chừng, không bị cuốn hút vào đấy.

Lê Lựu hồi ấy chưa có gia đình ở Hà Nội, nên ăn mặc rất gảin dị, thậm chí đôi khi có vẻ tố cái chất “nhà quê” của mình lên tí  chút, cố làm  ra vẻ thô lỗ.  Xuềnh xoàng. Luôn luôn anh muốn lưu ý người gặp anh “Tôi là người lính”.

Triệu Bôn cũng vậy. ở giữa Hà Nội, anh vẫn giữ một nếp sống như đang ở giữa rừng. Chỗ ăn chỗ ở thật sạch sẽ. Bao nhiêu tâm lực, để cả vào việc viết.

Thậm chí ngay đối với đời sống văn nghệ Hà Nội. Triệu Bôn cũng có phần dè dặt, không hăng hái xông vào cuộc như những người khác để tranh cãi luận bàn. Tuy anh không nói rõ, nhưng thường trở đi trở lại với một ý nghĩ âm thầm mình sẽ viết không phải để cho bạn đọc ở đây, mà để dành cho người lính ở các đơn vị đọc (ít ra là qua thái độ của anh, chúng tôi cảm thấy như vậy!)

Nếu ở Lê Lựu, đôi khi còn thấy có những run rẩy, muốn xem xem đời sống văn nghệ Hà Nội ra sao, thì Triệu Bôn rất dứt khoát trong cách nghĩ của mình, và quả thật, văn anh viết trước sau thuần nhất đi theo cái hướng anh đã chọn.

ấy vậy mà cả Lê Lựu và Triệu Bôn đó, mấy năm nay, đã có những thay đổi trong cách nhìn, cách quan hệ.

Từ chiến trường về, Lê Lựu lập gia đình ngay giữa Hà Nội. Có những lúc trông anh vẫn là người lính xưa. Nhưng có những lúc từ cách ăn mặc, đi đứng của anh đã khác, anh chấp nhận cuộc sống nơi đây một cách chân thành hơn, cởi mở hơn.

Trong cuốn tiểu thuyết mới của Lê Lựu, cuốn Thời xa vắng, nhân vật trung tâm là một thanh niên những năm chống Mỹ, và mối quan hệ giữa người thanh niên này với Hà Nội là một mảng truyện rất đậm, ở đó có những sắc thái ngọt ngào, nhưng có cả vị cay đắng.

Còn Triệu Bôn, gần đây nhất, anh chuyển về công tác ở Hội Văn nghệ Hà Nội và đang cùng với một số anh em trong Hội lo làm tờ Người Hà Nội.

Riêng việc Triệu Bôn tự nguyện chọn Hà Nội làm “chiến trường hôm nay” của anh, nơi anh làm việc và thực tế để anh viết… đã chứng tỏ rằng, trong nhận thức của lớp nhà văn như Triệu Bôn, vai trò của Hà Nội đang được “phục hưng” không những nó không có gì đáng để cho các nhà văn ngại ngần mà ở đó, có tất cả các vấn đề của đời sống đất nước, các nhà văn cần viết, nên viết. Từ chuyện sản xuất đến chuyện sinh hoạt gia đình, từ những cuộc đấu tranh tư tưởng tinh vi mà không kém phần quyết liệt đến những mẫu người mới đang hình thành… bấy nhiêu khía cạnh làm nên đời sống hàng ngày của mỗi người dân Thủ đô, thực tế cũng là điều bạn đọc đông đảo trong cả nước mong chờ văn học quan tâm và giải đáp.

+

+  +

Trong phần cuối của chương này, chúng tôi dành để nói về sự gắn bó với Hà Nội của mấy cây bút phụ nữ tương đối trẻ.

Dương Thị Xuân Quý.

Nhà chị trước ở 195 Hàng Bông. Gia đình vốn thuộc loại nền nếp, ông bố là Dương Tự Quán, từng làm báo, Xuân Quý lớn lên đi học phổ thông, học trung cấp mỏ, rồi chuyển sang một lớp báo chí, và về công tác ở báo Phụ Nữ. Cũng tập viết văn từ đó.

Hà Nội có đóng góp gì trong việc hình thành cuộc đời viết văn ngắn ngủi nhưng vẻ vang của Xuân Quý?

Ngày nay tác giả không thể trả lời câu hỏi đó nữa, nhưng tất cả bạn bè đều nói: Chính không khí Hà Nội những năm 1954-64 đã khơi gợi ở Xuân Quý những ước mơ trở thành nhà văn. Đối với lứa học sinh như Xuân Quý, nhà văn bấy giờ là những con người rất thiêng liêng. Những con người có khả năng cải tạo xã hội. Những người có khả năng mang cuộc đời thật vào trang sách làm cho nó đẹp lên, óng ánh lên không biết bao nhiêu lần….

Mọi người đều nhớ Xuân Quý rất mê Goor-ki. Trên bàn Xuân Quý có để tranh, tượng nhà văn Nga vĩ đại này, và trên giá sách có gần đủ các sách dịch của ông. Xuân Quý không tuyên bố, nhưng hầu như ai cũng hiểu, Xuân Quý muốn trở thành một thứ Goor-ki ở Việt Nam.

Phan Thị Thanh Nhàn còn ghi trong sổ tay lời bạn mình tâm sự:

Tao chán cái lối văn chương hoa lá cành của các ông, các bà bây giờ lắm rồi. Tao sẽ viết như cuộc đời thực này chúng ta đang sống. Như Goor-ki đã viết.

Hà Nội trở thành một thứ môi trường rất tốt, giúp cho Xuân Quý thực hiện ươc mơ của mình.

Theo sự phân công của báo, Xuân Quý có dịp đi nhiều địa phương trên miền Bắc lúc đó. Đi về, bao giờ cũng trốn vào một chỗ ngồi viết.

Viết rồi lại đi.

Và đợt đi quan trọng nhất, đối với cuộc đời Xuân Quý, là đợt từ giã Thủ đô, lên đường vào Khu Năm (1968)

– Văn xuôi không có đời sống thì không thể viết được… Mày bảo nước mình bây giờ làm gì có ai sống yên ổn?

Trên nhưng trang nhật ký của Xuân Quý lúc vào chiến trường, có hai nỗi nhớ tha thiết, nhớ con và nhớ Hà Nội. Con cái là cuộc đời riêng. Là tình cảm gia đình. Còn Hà Nội là công việc, là ước mơ trở thành nhà văn viết hay, cống hiến nhiều cho nhân dân, đất nước.

Nguyễn Thị Ngọc Tú

Có một dạo, thấy Ngọc Tú viết một ít truyện ngắn về vùng mỏ, và người ta dễ dàng gặp chị trong một buổi họp mặt các cây bút viết về công nghiệp. Một thời gian sau, với các tiểu thuyết Đất làng, Buổi sáng… Ngọc Tú lại thường được xếp vào diện các cây bút chuyên về nông thôn. Thế thì tác giả người ở đâu? Số báo Văn Nghệ đặc biệt “Các nhà văn Việt Nam” 1983 đã ghi rõ chị quê quán Hà Nội. Nghĩ cũng thấy có lý, chẳng phải đó cũng là một nét tính cách người Hà Nội, tức khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh, để trưởng thành và xứng đáng hơn với Hà Nội.

Ngọc Tú kể với tôi đầy đủ hơn: Chị sinh ra và lớn lên ở ngõ chợ Khâm Thiên. Gia đình rất nghèo. Nhớ lại những kỷ niệm hồi nhỏ, chỉ riêng chuyện Tết đã thấy thấm thía. Mẹ chuyên đi gói bánh chưng thuê. Trở về, dáng mệt mỏi, hai bàn tay nhăn nhúm vì lạnh, người chỉ toàn mùi lá dong, vậy mà cả nhà chỉ được có dăm cái bánh là công người ta thí cho.

– Thế thì làm sao chị lại nảy ra ý nghĩ trở thành người viết văn?

– Nhà nghèo, nhưng tôi vẫn cố gắng theo học, cho đến lớp đệ tam (cũ) ở trường Tây Sơn. Vả chăng chính ông bố tôi trước kia cũng có làm báo. Cụ viết cho Trung bắc tân văn và một số báo khác. ở nhà, cụ dạy con cái rất cẩn thận.

– Vậy chị có ý định viết văn, ngay từ trước khi chuyển đi công tác ở các tỉnh xa?

– Đúng thế. Năm 1958, mới 16 tuổi, tôi đã viết một số truyện, nhưng không biết gửi đi đâu. Bèn đến gõ của Nhà xuất bản Sự thật và nói thác đi. “Đây là chị cháu viết, sai cháu mang đến” Độ một tháng sau, mới dám đến hỏi, và cũng nói thác đi tương tự. “Chị cháu đi công tác vắng, chị cháu bảo đến xem các bác có nhắn gì không” Dĩ nhiên, Nhà xuất bản gói ghém trả lại đầy đủ.

Ngọc Tú kể tiếp: Khi thấy chị lớn lên, mơ ước của mẹ chỉ là kiếm cho con gái một cửa hàng nào đó buôn bán, như các cụ ở Hà Nội xưa vẫn mong như vậy. Đối với Ngọc Tú, chị lại thấy đó là chuyện đâu đâu, không dính dáng gì đến mình.

Bởi vậy để tránh những phiền phức của sự thúc ép gia đình, sau khi học xong trường trung cấp sư phạm Ngọc Tú xin chuyển về một vùng nông thôn ở Hà Sơn Bình. Cuộc sống ban đầu thật vất vả. Lương không có là bao, cô giáo phải học thêm nghề đan thúng lấy tiền mua dầu để tối có ngọn đèn làm việc. Bên cạnh công việc ở trường, là việc tích luỹ tài liệu. Một số  gọi là ghi chép sau này còn được dùng trong các tiểu thuyết Đất làng, Buổi sáng. Còn trước mắt, Ngọc Tú kể một phần chuyện mình trong Huệ, cuốn truyện xinh xắn in năm 1964.

Sau Huệ, Ngọc Tú về học ở trường viết văn khoá một. Nhưng đấy chỉ là đợt “tạm trú” vì ở trường ra, Ngọc Tú còn về Hội Phụ nữ Hải Phòng, báo Vùng mỏ mãi từ 1967, mới trở về hẳn “quê cũ”.

– Nhưng chị viết còn ít về Hà Nội?

– Cũng có đấy chứ. Câu chuyện dưới tán lá rợp, Ngõ cây bàng liên quan đến những kỷ niệm hồi thơ ấu. Hạt mùa sau là câu chuyện về những cuộc đấu tranh tư tưởng ở một cơ sở khoa học vùng ngoại thành. Tới đây tôi còn viết về một bệnh viện, với khuôn mặt đa dạng của những người làm nghề y tế ở thủ đô.

Nét đặc biệt trong lao động của một người viết như Ngọc Tú, là viết rất chăm, có thể nói là rất “lì”, đã định viết là kiên nhẫn ngồi đến cùng, viết bằng được mới thôi, và không ngại viết dài. Ai đó thường nói người Hà Nội phải tài hoa. Nhưng Nguyễn Thị Ngọc Tú phần tài hoa ấy chỉ là cái ngọn, cái gốc của nghề văn phải là  chăm chỉ, kỹ càng, nếu bảo là lao động nặng cũng được.

Một lần nào đó, bàn về tiểu thuyết, nhà văn đã phát biểu. “Viết tiểu thuyết cũng giống như là nấu cỗ. Một người đầu bếp đã có tài ba đến mấy cũng đành bó tay nếu trong bếp chỉ có rau và ớt. Mà phải có thật nhiều thứ. Không phải chỉ có những thứ chính như thịt, cá, gà vịt, mà thậm chí cả đến củ tỏi và rau húng cũng không thể thiếu.

Qua sự ví von chúng ta cảm thấy người viết ở đây rõ ràng là một người kỹ tính và có những yêu cầu cao về mặt nghề nghiệp. Nhưng đấy lại chính là một phương diện làm nên chất Hà Nội ở ngòi bút Nguyễn Thị Ngọc Tú.

Phan Thị Thanh Nhàn

Theo cách phân chia khu vực địa lý hiện nay, nội thành Hà Nội khá rộng, bao gồm hết cả những vùng trước kia (1954) là ngoại thành, như làng Bưởi, làng Hồ, Yên Phụ v.v… Nhưng đối với người làm thơ như Thanh Nhàn, thì ý niệm rằng mình vốn dân “ven nội”, “ngoại thành” không phải một lúc phai mờ ngay được. Trong đời cũng vậy mà trong thơ cũng vậy. Một trong những bài hay nhất của Thanh Nhàn , bài Xóm đê mở đầu bằng những câu:

Xóm đê ngày trước  gọi nhau

Mụ còng bới rác

Mẹ con nhà lông gà giẻ rách

Lão Tư say

Thằng bé đánh giày

Ông già mù tẩm quất

Chính từ một trong những xóm nghèo đó – nay là phố Yên Phụ – mà Thanh Nhàn lớn lên, và ước mơ trở thành một người làm thơ, viết văn cũng ngày một chín dần lên.

Sổ tay của Nhàn còn ghi.

– Đi cắm trại ở Đa Hoà, một làng ở Khoái Châu ven sông Hồng. Đi chùa Trầm, chùa Thầy.

– Mê truyện. Những năm đó, đã đọc Những người khốn khổ, đọc Dế mèn phiêu lưu ký. Phố có một bà gọi là bà Kẹo, cho thuê sách. Toàn những sách cũ còn lại. Hồn bướm mơ tiên, Vàng và máu, v.v… Có ấn tượng nhất là Những ngày thơ ấu. Mình khóc ghê quá. Nói với cái Vân, “Giống cảnh tao thật. Vân ạ…Nhưng mẹ tao còn hay hơn mẹ ông Nguyên Hồng nhiều”.

– Cạnh hàng xóm có cụ đồ Mít. Cụ hay gọi sáng đọc hộ thơ.

Một vùng cỏ áy bóng tà

Gió hiu hiu thổi một và bông lau

Rút trâm sẵn giắt mái đầu

Vạch da cày vịnh bốn câu ba vần

Đọc Kiều, Chinh phụ ngâm, Tống Trân Cúc Hoa. Toàn chuyện những người tài sắc mà khổ.

v.v…

Hoá ra, những xóm nghèo Hà Nội cũng có khả năng hun đúc cho người ta ham muốn viết văn. Ngày trước những Tô Hoài, Nguyễn Đình Lạp… đã vậy, ngày nay thêm nhiều bạn trẻ khác, trong đó có Thanh Nhàn. Công việc phóng viên báo hàng ngày khiến chị rất bận. Nhưng nhờ là phóng viên báo Hà Nội Mới hai mươi năm nay, nên Thanh Nhàn lại có dịp tiếp xúc với nhiều mặt đời sống Thủ đô. Và chị làm thơ.

Đây là tên một số bài thơ đã in. Với sông Hồng, Bên hồ, Một vòng Hồ Tây, Mùa mưa Hà Nội, Thành phố và tôi. Rồi Xóm đê, Khâm Thiên. Rồi Trong một hiệu ảnh thủ đô, Những ngôi chùa Hà Nội…

Mấy ai trong chúng ta, khi đi qua đường Thanh niên, nhận ra rằng ven chùa Trấn Quốc có một vài bóng thông. Vậy mà Thanh Nhàn đã mang những cây thông đó vào thơ. Thơ Thanh Nhàn mộc mạc, giản dị và “ăn” ở những nét duyên thầm như thế.

Ngoài thơ, Thanh Nhàn còn viết truyện  Hoa mười giờ đi vào một số nét sinh hoạt của làng Chuông hồi kháng chiến chống Pháp. Xóm đê ngày ấy là thiên truyện viết cho thiếu nhi, trong đó có lồng vào một ít kỷ niệm tuổi thơ của tác giả. Có lần, Thanh Nhàn đã kể trong một bài báo, mặc dù bây giờ chị đã chuyển sang một chỗ ở mới, nhưng mỗi lần về thăm mẹ, chị lại chứng kiến cái cảnh cảm động. “Các em học sinh tôi chưa hề quen biết rụt rè đi qua, nghé đầu vào cười rồi chạy biến di trên hè phố, miệng gọi Chị Thanh Nhàn”

Tác giả Xóm đê thật đã giành được sự công nhận của bà con hàng xóm và đông đảo các bạn đọc nhỏ tuổi nơi chị từng lớn lên. Một lúc nào đó, Thanh Nhàn đã kêu lên niềm tự hào chung cho nhiều nhà văn chúng ta.

– Được là một người viết của Hà Nội, đó thật là một hạnh phúc lớn lao.

Xuân Quỳnh

Đầu những năm 50, khi Thanh Nhàn, Ngọc Tú học ở Hà Nội, thì Xuân Quỳnh  còn học ở Hà Đông và chỉ thỉnh thoảng đi tàu điện ra với những phố lớn ở trung tâm thành phố. Nhưng có lẽ chính vì còn xa lạ với Thủ đô một khoảng cách nào đó, dù là rất nhỏ, nên tình yêu Hà Nội trong lòng người con gái này mạnh mẽ thêm.

Xuân Quỳnh kể trong số những kỷ niệm về Hà Nội thời nhỏ, chị nhớ nhất những lần ra chữa răng ở bệnh viện Phủ Doãn (nay là bệnh viện Việt Đức). Từ trên gác nhìn xuống đường, thấy nhiều người phụ nữ  đẹp đi qua, chỉ ước lớn lên mình cũng đàng hoàng đẹp đẽ như vậy. Tình yêu Hà Nội trong Xuân Quỳnh được bền chắc còn do ông bố chị hun đúc. Trước 1954, ông cụ sống ở phố Tô Hiến Thành và rất mê đường nét Thủ đô, đã để nhiều phim ảnh chụp lại thành phố. Có lần cụ đưa cho con gái xem một bức ảnh Quỳnh chẳng hiểu gì bố phải chỉ mãi mới nhận ra những ánh đèn trên hồ Thuyền Quang.

Từ sau 1954, Xuân Quỳnh chuyển về công tác ở một đoàn văn công . Từ đó, người con gái La Khê (Hà Đông) mới chính thức nhập tịch Hà Nội. Sau 1965, chị chuyển về báo Văn Nghệ. Từ nay tình yêu Hà Nội với chị còn có thêm một ý nghĩa nữa. Hà Nội là môi trường hoạt động văn học, nơi có nhiều bè  bạn, đồng nghiệp.

Xuân Quỳnh kể:

Những năm chống Mỹ, chúng tôi mới thật phát hiện ra Hà Nội. Đi sơ tán ít ngày, càng thấy yêu thêm Thủ đô, y như một ít ngày sốt nhẹ, giúp cho người ta thêm yêu đời thường hơn. Rồi sau khi sơ tán trở về: Nếu như bây giờ chủ yếu chúng tôi sống với gia đình, cuộc sống thu gọn trong mấy bức tường, thì thuở ấy, khi còn hai mươi, hai nhăm, chúng tôi đã thật sự sống với phố xá. Cùng với bè bạn, tôi đã đi khắp Hà Nội, ra ngoại thành, và Hà Nội không chỉ thu vào mấy khu phố cũ, mà mở ra đến vùng ven sông Hồng, Hồ Tây và nhiều cảnh đẹp khác” Những làng hoa hương thoảng xa gần – Vườn hoa trẻ như khi mười sáu tuổi”. Những làng hoa ấy, đã bao nhiêu lần chúng tôi đi về yêu mến.

Lại còn những lần đi công tác xa Hà Nội nữa chứ! Việc đi là rất cần thiết, chúng tôi đã tự nguyện đi . Nhưng trong khi đi, mới hiểu mình đã gắn bó với Hà Nội biết ngần nào! Tôi nhớ những lần vào Vĩnh Linh, có khi đi một mình giữa cánh đồng tự nhiên muốn nói lên mấy lời, để mình nghe được chính giọng mình, và cảm thấy Hà Nội đã là một bộ phận của con người mình rồi. Trong những lần đến với các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, ngay giữ núi rừng, bom đạn, tôi nghiệm ra một điều là mọi người rất muốn cùng mình ôn lại một ít kỷ niệm về quê hương, gia đình, cái thời bình, mà từ đó, mọi người đã ra đi và mong mỏi trở về. Trong cái thời bình đó. Hà Nội bao giờ cũng hiện lên rạng rỡ.

Hai cuộc phỏng vấn ngắn

Phạm Tiến Duật

Trong một bài viết mang trên Nhà thơ trẻ và cánh rừng già in năm 1973, nhà văn Nguyễn Minh Châu từng tả lại chỗ ở của Phạm Tiến Duật. Đó là một ngôi nhà thuộc khu phố “ồn ào đông đúc”  Nguyễn Minh Châu phải “dắt chiếc xe đạp lách qua dãy xích-lô, dãy hàng vỉa hè, những dãy gà trống, gà mái của những người đàn bà và những anh bộ đội phục viên mang từ thôn quê lên bán”. ý Nguyễn Minh Châu muốn nói là chỉ ngồi ở đây, giữa chốn kinh thành sôi nổi và náo nhiệt này, Phạm Tiến Duật mới lắng nghe hết trong mình những gì anh đã tiếp nhận được ở chiến trường và như vậy, phố xá Hà Nội là một thứ máy lọc rất tốt giúp cho anh viết hay hơn về những vùng rừng không dân, về đời sống chiến trường mà anh đã từng nhiều năm lăn lộn.

Sự thực, Phạm Tiến Duật từng cùng với gia đình ở trong một ngõ nhỏ khá yên tĩnh, có điều, chỉ bước ít bước là anh có thể ra ngay phía sau ga hoặc đường Nguyễn Thái Học, cả hai đều thuộc loại phố ồn ào như Nguyễn Minh Châu vừa nói.  Vả chăng, Hà Nội lâu nay với anh không phải là nơi ghé lại giữa những chuyến đi mà thực sự là quê hương thứ hai, là nơi ở thường xuyên, có đi đâu thì cũng phải quay trở lại.

Chúng tôi bắt đầu câu chuyện bằng cách nói về những nhà người quen, những cơ quan mà Phạm Tiến Duật đã ở qua, những ngôi nhà này phác ra đã cho thấy cái tầm rộng mà một Hà Nội để lại trong lòng nhà thơ trẻ.

– Vâng, chính tôi cũng thấy là mình có một cái may nào đấy, trước khi có gia đình riêng, đã ở gần như đủ các phố, các loại nhà khác nhau. Khoảng mấy năm 1966-1967 cơ quan Cục Vận tải thuộc Tổng cục Hậu cần của tôi ngay ở trong ngôi nhà của báo Độc Lập ở phố Lý Thường Kiệt. Có một hồi, một bộ phận cơ quan lại đóng ngay ở căn nhà chỗ ngã tư đường Tràng Thi gặp đường Quán Sứ. Mấy năm sau, ở chiến trường về, nhiều lần tôi được nhường hẳn một buồng trong toà soạn Văn nghệ quân đội. Về nhà riêng thì có khi ở với Trần Tự đường Lý Thái Tổ, khi với anh bạn Thiên Đĩnh trong trường Kinh Tài, khi đâu Khâm Thiên nhà Trần Trương, khi theo anh em kéo nhau xuống nhà Tô Hoàng ở sau chùa Láng.

Nghĩa là ngay ở Hà Nội, tôi cũng luôn luôn được xê dịch được đổi chỗ, nó làm cho mình biết thêm Thủ đô ở nhiều góc cạnh khác nhau, và tự mình có thể tin là mình tạm đủ kiến thức về Thủ đô để khỏi ngại khi nói chuyện với bất cứ ai, dù là người đó sinh ra ở đây từ nhỏ.

– Tính cho chính xác thì anh “gặp Hà Nội” lần đầu vào lúc nào?

– Trước khi học Đại học Sư phạm, tôi đã có về Hà Nội một hai lượt, lượt về chơi, lượt về mua một cái xe đạp. trong những năm chúng tôi bước vào tuổi thanh niên, một cái xe đạp đã là cả một niềm ao ước của các bạn trẻ và việc mua được một cái xe đạp như vậy đã có thể coi như một sự kiện trong đời, phải không anh?

Vậy là lần đầu tôi đến Hà Nội, là khoảng cuối những năm 1950.

– ấn tượng của anh trong những lần gặp gỡ đầu tiên này ra sao?

– Tôi là người thích cái lạ. Cái lạ nhất của Hà Nội đối với tôi lúc bấy giờ là nhịp điệu. Thành phố này có một nhịp điệu khác hẳn trung du quê tôi. Đấy là  nói chung.

– Còn ấn tượng cụ thể?

– Lần đầu về Hà Nội, tôi ở với một bà chị ở ngõ Vọng Đức. Từ cái ngõ vắng này tôi đi rộng ra chung quanh, gì cũng muốn ngó một chút. Hà Nội kỳ diệu với tôi như cánh cửa quay bằng thuỷ tinh, với cái khung bằng gỗ mun chắc nịch ở cửa khách sạn Thống nhất.

Nhưng những năm đầu về Hà Nội và sau đó những năm đầu sống ở Hà Nội – thậm chì cả những năm về sau, khi đã có thơ đăng báo và có nhiều bạn bè người Hà Nội – tôi vẫn cảm thấy nơi đây có một chút gì khiến mình ngần ngại. Tôi cho là tôi gần với anh em ở các tỉnh khác đến hơn là những anh em sinh trưởng nơi đây. Chúng tôi thường xô bồ mà không có cái hào hoa phong nhã như người ta vẫn nói. Mãi gần đây ý nghĩ tôi mới thay đổi. Càng ngày, tôi càng hiểu Hà Nội rất bao dung, tự bản thân Hà Nội có rất nhiều vẻ khác nhau. Bên cạnh một Hà Nội xưa cũ nền nếp – bây giờ ta vẫn cố giữ gìn và phát triển những khía cạnh tốt đẹp đó – Hà Nội còn là đường phố rộn rã bụi bậm, tất cả còn ngổn ngang chưa thành hình gì cả… Chính đấy là chỗ chúng tôi thấy mình gắn bó với Hà Nội và trở thành người Hà Nội lúc nào không biết nữa.

– Nhưng dù sao thì anh cũng đã liên tục viết về Hà Nội viết ngay từ lúc cảm thấy mình là người ngoài cuộc như trên đây anh vừa nói. ý tôi muốn trở lại từ Đàn tam thập lục thủ đô ta. Hàng cây yêu đương, tới Phố chéo. Buổi sáng qua Hồ Tây … anh đã viết. Anh có thể kể lại trường hợp ra đời cụ thể của một bài nào đó?

– Lấy bài Hàng cây yêu đương chẳng hạn. Hồi đó, trong một đợt giặc Mỹ đánh vào Hà Nội, các đơn vị cao xạ của ta được phép về triển khai trận địa ngay trên đường Thanh Niên để tạo thế bất ngờ đánh trả địch. Một số cây ở đường phải cưa đi để lấy chỗ đặt ụ pháo. Một bữa đã khuya lắm rồi, tôi đang nghỉ tạm ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, 4 Lý Nam đế, thì Lưu Quang Vũ, và Đỗ Chu đến bảo phải ra ngay để chứng kiến giờ phút thiêng liêng, khi cây trên con đường nổi tiếng này hi sinh vì việc nước. Ra đến nơi không phải tất cả các cây đều bị hạ như chúng tôi tưởng, nhưng đúng là một số cây đã ngã xuống rồi thực, tôi chỉ kịp cảm nhận hăng hắc một mùi gỗ mới và sờ lên mặt gỗ ứa nhựa. Đã ngả xuống rồi hàng cây tình tự… câu thơ đầu tiên trong bài nảy ra một cách tự nhiên ngay lúc ấy, mở cho tôi một dịp may gắn Hà Nội với một ít kỷ niệm của đời mình.

Nói chung các bài khác cũng vậy, mỗi bài một duyên cớ tương tự.

–  Những ngày B52 đánh Hà Nội cuối 1972, anh có mặt ở Thủ đô?

– Không, lúc đó tôi đang ở Bộ Tư lệnh 559, nhưng vì vậy, lại có dịp sống những giây phút này hết sức đáng nhớ. Nguyên đơn vị tôi luôn luôn được thông báo về tình hình chiến sự, đặc biệt là hoạt động của địch trên toàn chiến trường Đông Dương. Bởi vậy B52 đánh Hà Nội xuất phát từ các sân bay Thái  Lan lúc nào chúng tôi đều được thông báo đầy đủ.

Để tôi kể anh nghe một dự định viết của tôi, có liên quan đến đợt đánh B52 này. Có một lần, cách đây hai năm nhân dịp vào hè, tôi có đi chùa, lần này đến đền Nhà Hoả, và được biết rằng Hà Nội ngày xưa nhiều lần cháy lắm, có lần cháy ngay cả dinh Chúa Trịnh, vào khoảng khu vực Hà Nội bây giờ. Người ta phải làm cái chuông rất to để khi có hoả hoạn thì thỉnh thuông báo cho mọi người biết, chuông này đặt ở ngay đền Nhà Hoả và nay vẫn còn. Thế mà trong đợt B52 chuông cũng chỉ gõ đến ngày thứ hai rồi ông sư cũng đi sơ tán. Trụ lại để báo động cho Hà Nội, dĩ nhiên chỉ còn có hiệu còi trên nóc Nhà Hát Lớn.

Từ câu chuyện ở đền Nhà Hoả đó, tôi lần thêm vào lịch sử Hà nội. Rồi tôi nghĩ vân vi mọi chuyện khác, có một sự trùng hợp vui vui giữa cuộc chiến đấu chống B52 và sự sáng tạo ra thế giới. Cũng có lặp ngày lặp đêm, cũng có tách đất tách nước (việc mình gỡ thuỷ lôi) và cũng cả thảy 12 ngày. Tôi định đặt tên cho bài thơ dài tôi làm là Sáng thế kỷ cũng là vì lẽ ấy. Nhân tìm hiểu vụ B52, tôi có đọc kỹ lại báo Nhân dân cuối 1972 và nhặt ra được một ít tin như sau. Trong số những người bị thương trong đợt B52. Có một bà mẹ có thai đã sắp đến ngày đẻ. Người ta phải mổ. Bà mẹ bị chết. Nhưng đứa con đã được cứu thoát. Tôi đi tìm lại đứa trẻ nay đã mười tuổi đó. Nghe đâu có đến vài chục trẻ em ra đời tương tự như vậy. Rồi tôi trở lại lân la hỏi chuyện những gia đình ở phố Khâm Thiên bị bom hồi ấy. Có người giầu lên, có người nghèo đi. ở một gia đình nọ có một anh bộ đội tranh thủ về phép cũng bị chết, để lại một vợ và năm đứa con, người vợ hiện nay phải chạy vạy xoay xở không thiếu việc gì để nuôi đám con. Đây cũng là một dịp để ý nghĩ của tôi về Hà Nội có thể thay đổi. Hà Nội không chỉ hào hoa lịch thiệp, Hà Nội cũng có cái chất ghê gớm dữ dằn của nó, phải nhiều người đấu sức vào mới hiểu nổi và viết nổi, viết cho hết.

– Giờ đây, có thể nói là Thủ đô Hà Nội mang lại cho anh những đổi mới gì trong cách cảm cách nghĩ?

– Tôi nhớ từng mảng tường lở trên trần nhà bạn này, cây hồng bì với những chùm quả chín mọng ở nhà bạn kia. Tôi nhớ những lần chia tay bạn bè để vào chiến trường công tác trở lại, không lần nào có người đưa tiễn dưới năm người. Tôi cảm thấy mình đã giàu có lên trong tình nghĩa và thay đổi cách cảm cách nghĩ như anh nói. Chủ yếu tôi cảm thấy mình trở nên phóng khoáng tự do hơn, mà cũng nề nếp, ý nhị hơn, chỗ nào đi đáng chỗ ấy, không tuỳ tiện như trước. Tôi đã thoải mái sống giữa Hà Nội như con cá bơi trong nước.

Nếu được nói hết,  thì tôi đặc biệt nhớ những lần thức trắng đêm Hà Nội cùng bạn bè, trong đó có hai lần với Đỗ Chu. Một lần là Đỗ Chu nhận quyết định chuyển ra khỏi bộ đội. Một đêm khác vào mùa đông, trời lạnh kinh khủng, đang ngồi ở nhà thì thấy Đỗ Chu đến. Chu kể, đọc bài thơ chữ Hán Nguyễn Du, có câu đại ý “bao nhiêu gió lạnh dồn cả vào một người” thấy buồn quá nên mới chạy bổ đến đây. Đỗ Chu mang đến một ấm chè to hai đứa ngồi uống thật tỉnh táo rồi tha thẩn ra đường.

Đường Hà Nội ta đi đến sáng

Đêm khuya ơi tinh khiết vô cùng

Những câu thơ ấy chỉ mới nhắc qua được thôi chứ chưa nói hết cảm tưởng tôi đã sống qua. Chẳng hạn tôi nghiệm thấy trong đêm, người ta có dịp trở về với cả bề sâu thăm thẳm của Hà Nội. Năm sáu giờ chiều, thậm chí mười, mười một giờ đêm nữa, vẫn còn là Hà Nội hôm nay nhưng chỉ mấy tiếng đồng hồ sau người ta cảm thấy mình với Hà Nội trở về một quá khứ rất xa, xa lắc xa lơ.

– Tóm lại anh đã thấy mình thực sự là người Hà Nội?

– Không hẳn thế. Nếu nghĩ đến những người Hà Nội thật hạt mà thỉnh thoảng chúng ta vẫn gặp đây đó – thậm chí không gặp cả người mà chỉ gặp đôi nét nào đó còn sót lại mong manh thấp thoáng – thì tôi vẫn thấy một cái gì cao xa quá, mình không bao giờ trở thành, không bao giờ được nhuyễn như vậy. Nhưng tôi lại cảm thấy cùng với các bạn khác – gốc Hà Nội có, từ các tỉnh về có làm nên một Hà Nội hôm nay, xô bồ, nhiều vẻ, thu vào mình rất nhiều thứ nhưng vẫn có một cốt cách trộn không lẫn và ngày càng biến chuyển, để trở thành thật là mình hơn. Một Hà Nội như thế đã vào tôi, vào thơ tôi và ở lại mãi mãi.

Trần đăng khoa

– Đọc thơ của và những bài viết về thơ anh tuổi nhỏ, chúng tôi hiểu đối tượng khơi nguồn cho xúc cảm của anh hồi ấy là bờ tre, cánh đồng, cảnh vật và con người nông thôn. Nhưng điều mà chúng tôi muốn biết thêm hồi đó anh hình dung ra sao về Hà Nội? Có ai kể chuyện với anh Hà Nội và qua lời kể đó, anh có những ý nghĩ gì?

– Trước hết, phải nói làng quê tôi tuy cách Hà Nội không bao xa, nhưng là một vùng nông thôn rất thuần ít người đi làm xa và cuộc sống Hà Nội gần như không có chút gì gọi là vang vọng tới nơi đây. Đối với những người dân bình thường, cả đến báo chí cũng hiếm, chỉ có chiếc đài ga-len mà chúng tôi áp tai vào nghe là có thể mách thầm với một cậu bé như tôi biết rằng ở đó có một cuộc sống khác mà tôi chưa từng biết… Và Hà Nội hiện ra trong tâm trí tôi như những tên đất, tên người tôi từng nghe trong các chuyện cổ tích. Hoặc nói theo chữ nghĩa bây giờ, thì đó là một Hà Nội được bao bọc trong một không khí huyền thoại. Có điều như các anh biết, chính cái đó lại làm cho tôi viết về Hà Nội dễ càng.

Nhân đọc tập thơ Tấm lòng chúng em do Nhà xuất bản Kim Đồng in ra năm 1964, tôi cảm thấy rằng nếu thơ là thế này thì mình cũng làm thơ được.

Và tôi bắt tay viết bài thơ đầu tiên của mình. Bác Hồ nói ở trên tủ, trong đó tôi tả Hà Nội là nơi Bác Hồ thân yêu ở, và Hà Nội này có tất cả những địa danh mà tôi từng nói, đại khái Nước Hồ Gươm xanh như một mảnh trời Ngọc Hoàng đánh rơi xuống đấy, hoặc Chiếc cầu sắt bắc qua những mái nhà – Xe lửa, ô-tô tầu đi không gẫy.

Các anh bộ đội qua làng là những người đọc đầu tiên và góp nhiều ý kiến cho thơ tôi, một anh để ý nhận ra xe lửa tức là tầu rồi, không việc gì phải lặp lại như vậy nữa. Hoá ra, hai từ đó để chỉ một thứ chứ không phải hai như tôi vẫn nghĩ. Tôi phải bỏ ngay chữ tầu trong câu thơ nói trên.

ấy hiểu biết của tôi về Hà Nội những năm ấy còn thô thiển như vậy, nó gắn liền với sự nhận thức ít ỏi nếu không nói là không biết gì về cuộc sống ở các thành thị.

– Nhưng rồi khi đã có thơ đăng báo, chắc anh cũng hay về để còn trao đổi về bài vở hoặc nhiều chuyện quan hệ khác?

– Cũng không hoàn toàn như vậy. Chuyến đầu tiên tôi về Hà Nội là chuyến đi do nhà trường tổ chức dành cho những học trò tương đối khá hơn cả của năm học đó. Chúng tôi đến Hà Nội giữa mùa hè. Ngày đi thăm quan, tôi về ngủ nhờ ngay trong phòng làm việc của Nhà xuất bản Kim Đồng. Năm đó tôi mười một tuổi và những cái để lại ấn tượng nhiều nhất trong tôi về Hà Nội là kem, quạt máy và tiếng ve kêu suốt dêm. Lúc ấy về tôi có làm vài bài thơ, trong thơ có nói đến quạt máy. Hà nội có chong chóng – tự quay ở trong nhà – không cần trời nổi gió – không cần bạn chạy xa. Nhân được đến thăm quảng trường Ba Đình tôi viết: Bác ơi, cháu đến đây rồi – Ba Đình phượng đỏ một trời tiếng ve… Cháu nghe Hà Nộ vào hè…

Nnưng suốt thời niên thiếu, tôi cũng chỉ lên Hà Nội có lần ấy. Học hết phổ thông, tôi chuyển đi bộ đội, cũng không có dịp nào qua Hà Nội, chỉ từ 1976 trở đi được gọi về học ở trường viết văn, tôi mới lên đây ở lâu hơn. Nhưng chuyến ấy tôi cũng chưa đi học ngay mà còn được bố trí mấy năm đi thâm nhập ở các đơn vị hải quân, thành ra cứ đi đi về về chứ cũng chưa bao giờ ở hẳn.

– Sau lần về Hà Nội, anh có cảm tưởng gì đặc biệt?

– Bấy giờ những cái mà tôi nhìn nhận đuợc chủ yếu là những khía cạnh bên ngoài, chứ gần như chưa thâm nhập được vào đời sống bên trong của Hà Nội. Nhưng bảo có gì đấy choáng ngợp thì không! Ngay cả những di tích lịch sử như Hồ Gươm. Tháp Rùa, hôm qua tôi hình dung phải ghê gớm hơn, nay đến, thấy cũng rất gần gũi. Tôi nhớ lúc ấy tôi chỉ chớm nghĩ là Hà Nội có gì vừa cổ xưa vừa ồn ào và con người thì sao lúc nào cũng tất bật, vội vã, không thanh thản từ tốn như trước đây tôi từng được nghe kể: (nghĩ cũng lạ, bây giờ về quê, thì vùng quê rất thuần của tôi như trên đây tôi vừa nói, con người mấy năm nay cũng trở nên tất bật, vội vã, mặc dầu đấy vẫn là một làng quê thực thụ. Nhưng thôi, đấy lại là chuyện khác).

– Nhưng như thế tức là anh công nhận có những người đậm chất Hà Nội hơn, và viết ra không khí Hà Nội hơn?

– Có chứ. Chưa nói các bác, các chú ở tuổi lớn hơn hãy nhìn ngay lứa nhà thơ gọi là lớp trẻ trong chống Mỹ, các anh Vũ Quần Phương, Bằng Việt. Mấy câu thơ Bằng Việt in trong tập Bếp lửa.

Từ ánh nê-ông pha biếc buổi chiều

Đến hơi mưa trong khóm hoa màu tím

Gáy sách cũ xếp chồng như kỷ niệm

Lá thiếp mừng đám cưới mất trên tay

đối với tôi rất rõ chất Hà Nội, cái phần Hà Nội bên trong

– Hà Nội vẫn có cái phần nội chất của nó mà không gần tự nhiên như phần vốn liếng cũ của anh, có lẽ nên nói thế chăng? Nhưng theo tôi hiểu, người ta cũng hay nói đến cây cối ở Hà Nội…

– Không, đấy chính là một phía của Hà Nội làm tôi rất thích. Cây cối và sách vở! – ở Hà Nội tôi thường thích thức khuya và càng khuya hình như Hà Nội càng trở lại với chính mình. Đường phố thưa vắng, con người thanh thản, nếu ban đêm có dịp ra đường, đi bộ, bao giờ tôi cũng tìm cách tận hưởng một thứ không khí riêng mà chỉ Hà Nội ban đêm mới có được. Thậm thí lúc đó thành phố lại như được bao bọc trong một không khí huyền thoại mà thuở nhỏ tôi vẫn nghĩ tới.

Còn như về mặt sách vở, nói chung là về phần kiến thức ở đây có rất nhiều điều tôi có thể học tập được. Đời sống một làng quê như làng tôi, có cái gì đó tự nó đã đủ, có thể cắt hết mọi mối liên hệ với bên ngoài, nó vẫn sống được. Nhưng sống trong đó nhiều khi con người không thể tự hiểu nó đang ở đâu – mà đó là một điều phải nói là nguy hiểm! Còn một ngày ở Hà Nội, người ta có thể biết rất nhiều thứ, người ta có thể học được rất nhiều.

– Anh có hay đọc các sách vở viết về Hà Nội?

– Có chứ, nhất là các sách thuộc loại tài liệu nghiên cứu như Bóng nước Hồ Gươm, Người và cảnh Hà Nội, Người Hà Nội thanh lịch. Đọc để hiểu một Hà Nội nghìn năm văn vật đôi khi có bị khuất đi sau một Hà Nội sôi động bây giờ.

Hiện nay chưa thấy công bố những thống kê xem trong dân số các quận nội thành Hà Nội hôm nay bao nhiêu phần trăm là người Hà Nội gốc, bao nhiêu phần trăm là người các tỉnh đến mới nhập cư trong vòng ba chục năm nay. Nhưng bằng cảm tính chủ quan, chúng ta dễ đoán số người từ những vùng quê khác nhau về đóng góp cho Hà Nội rất đông, và cái xu thế mà người ta gọi nôm na là xu thế thành thị hoá có là điều đặt ra trong suy nghĩ của nhiều người, với cả mặt thuận và mặt nghịch của nó. Trường hợp nhà thơ  Trần Đăng Khoa chỉ là một trong muôn vàn trường hợp đó. Đã có rất nhiều người có cách nhìn nhận như anh, mà cũng có rất nhiều người có cách nhìn nhận khác anh.

Vả chăng tất cả là đang ở một trong quá tình biến chuyển.

Chia tay với Trần Đăng Khoa, tôi nghĩ là mình vừa được anh chia xẻ những suy nghĩ rất thành thực. Nhưng cảm tưởng của anh về Hà Nội là đúng với thơ anh thuở nhỏ, một thứ thơ Trần Đăng Khoa mà lâu nay chúng ta vẫn đọc. Nhưng chính vì thế, khi nhìn bước đường phát triển sắp tới về thơ của Trần Đăng Khoa – một vấn đề đang được đặt ra ở anh hết sức quyết liệt- tôi tưởng mình sẽ không nói vơ vào nếu bảo chắc chắn trong đó có phần đóng góp của những nhận thức của Trần Đăng Khoa về Hà Nội. Biết đâu một vài năm tới khi gặp nhau câu chuyện của chúng tôi sẽ đi theo một hướng khác hẳn, và cái tình yêu nhiều mặc cảm của anh với Thủ đô hôm nay sẽ chuyển thành một tình yêu thoải mái như chính anh mong mỏi?

đoạn kết

Trong tập sách nhỏ này, chúng tôi mạnh dạn làm công việc ghi lại một số nét thuộc về quá trình thưởng thành, hoạt động của một số nhà văn hôm nay, cụ thể là mối quan hệ của các đời văn đó với Hà Nội. Mong sao giúp bạn đọc hiểu thêm nghề văn. Và cũng mong sao nói được một phần dù là rất nhỏ, đời sống văn hoá Hà Nội mấy chục năm nay, bước đầu gợi ra vai trò của Thủ đô trong việc hình thành sinh hoạt văn hoá trong cả nước và chứng tỏ rằng trên phương diện văn hoá Hà Nội có rất nhiều điều có thể tự hào được.

Sau khi nhắc lại một vài khía cạnh làm nên một ít đời văn như trên, một điều chúng tôi hoàn toàn có thể yên tâm là nhìn cho kỹ, những đời văn ấy nào có khác gì những mẫu người Hà Nội khác? Nếu Ngô Tất Tố cho ta hình dung lại quá trình đến với Thủ đô của lớp nhà nho từ thời Tản Đà trở về trước, thì Xuân Diệu, Bùi Hiển… cho ta thấy quá trình đến với Hà Nội của lớp trí thức gần đây. ý nghĩ cho rằng Hà Nội là một nơi lập nghiệp thiêng liêng, ý nghĩ ấy không phải của riêng Nguyên Hồng ngày nào, mà là của rất nhiều người khác, kể cả những người không viết văn. Cảm thấy mình là Hà Nội thì tất phải viết về Hà Nội thôi, đó là cảm nghĩ quán xuyến từ Tô Hoài đến Lưu Quang Vũ, Bằng Việt… Nguyễn Bính tưởng là sống cách biệt Hà Nội, kỳ thực chỉ trong sự “đôi lập” với kinh thành – đối lập trong sắc thái thẩm mỹ, chứ không phải trong tình cảm, – thơ ông mới rõ chất chân quê vốn có. Nam Cao càng “giãy giụa” càng chứng tỏ ông đã bị Hà Nội thuyết phục biết là ngần nào! Ai dám bảo tiếng thơ bi tráng Trần Huyền Trân không tiêu biểu cho Hà Nội, như những giọng thơ vui trẻ khác? Và cũng là Hà Nội cách mạng, nhưng Nguyễn Huy Tưởng khác Nguyễn Đình Thi bao nhiêu, như sau này Xuân Quỳnh khác với Thanh Nhàn bao nhiêu! Cuộc sống luôn luôn có sự tự điều chỉnh của nó. Cũng trên mảnh đất Hà Nội, mà mỗi cây bút mang một sắc thái riêng, và vì vậy, mỗi người mới có lý do tồn tại.

Một đời văn không chỉ được tính bằng những  trang sách đã được viết ra. Một đời văn còn là bao nhiêu thăng trầm mà người cầm bút đã chịu, bao nhiêu mồ hôi nước mắt nơi ấy đã sống, để dồn tụ cho sáng tác – ở đó, có sự năng động của cá nhân nhưng lại có sự chi phối của hoàn cảnh, tới mức, có khi, chỉ nhắc đến một người thôi, người ta nghĩ ngay tới cả một thời, với bao số phận khác cũng cùng một hoàn cảnh tương tự.

Bởi vậy, một lần nữa, phải nói lại là bản thân chúng tôi rất tiếc chưa có dịp nhắc tới ở đây một số tác giả có cuộc đời rất hay và sự gắn bó với Hà Nội cũng lâu dài, uyển chuyển. Văn Cao từng hoạt động trong phong trào Việt Minh từ trước tháng 9-1945. Văn Cao viết Tiến quân ca cũng là Văn Cao tác giả bài thơ Chiếc xe xác đi qua phường dạ lạc, diễn tả một nét khó quên của đời sống Hà Nội trước cách mạng.

Một lửa lang thang ma đói sa trường.

Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc

Quang Dũng thuộc về thế hệ các nhà văn viết từ kháng chiến, song từ trước 1945 ông đã theo học ở Hà Nội, và ở một bài bút ký như bài Cống trắng Khâm Thiên (in trong tập Nhà đồi), ông đã trình bày một ít những khía cạnh sinh hoạt của Hà Nội cũ từ bên trong, nhất là cái phía vừa tài hoa vừa chua xót của cuộc sống nơi đây. Lại nữa, Quang Dũng cũng rất thông thạo các vùng ngoại thành, từ Bãi Sậy phía bắc Hồ Tây đã bị triệt phá từ 1951. Ông voi làng Láng, các đội cá ở Yên Duyên… cho mãi tận Sườn bắc Tản Viên, và chân núi Ba Vì nhiều chim ngói. Trong thơ, hai  bài Quang Dũng được nhiều người nhắc nhở là Tây tiến và Đôi mắt người Sơn Tây đều viết từ kháng chiến. Mỗi bài ấy mang một phía của Hà Nội, ở bài trên, cái chí xông pha đôi khi nhuốm màu sắc anh hùng cá nhân của lớp trai trẻ Thủ đô 1945-1950. Bài dưới, những đau xót, trong lưu lạc thời chinh chiến và niềm ao ước thiết tha về một thuở thanh bình  sẽ tới. Đối với nhiều người dân Thủ đô, vùng xứ Đoài mà Quang Dũng nói ở đây (Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm,) bao giờ cũng rất gần gũi, như một vùng quê nhiều kỷ niệm.

Nhân đây, cũng xin nói thêm, từ Hoàng Ngọc Phách (sinh 1896) đến Trần Đăng Khoa (sinh 1959), những người viết văn được nhắc ở các phần trên thuộc những thế hệ thật khác nhau. Sống trong một thời đại có những biến động long trời lở đất, mỗi người có một số phận riêng, không ai giống ai. Nhưng một tình yêu chung đã liên kết họ lại với nhau, tình yêu Hà Nội.

Tập sách của chúng tôi dừng lại ở Trần Dăng Khoa. Đứng về mặt lứa tuổi đến nay, Trần Đăng Khoa còn thuộc loại trẻ trong các nhà văn, nhà thơ ở ta. Nhưng  về tuổi nghề, Trần Đăng Khoa đâu có “nhỏ” tí nào. Từ cuối những năm sáu mươi, nghĩa là gần hai chục năm nay, thơ Trần Đăng Khoa đã được nhiều người biết tới và trước 1975, nhà thơ đã có vị trí rõ ràng. Bởi vậy, kết thúc ở Trần Đăng Khoa thật ra chủ đề các nhà văn Việt Nam hôm nay và Hà Nội vẫn dừng lại ở một giai đoạn lịch sử đã ổn định. Từ mười năm gần đây, đất nước bước sang một giai đoạn mới, về mặt văn hoá, đã có nhưng đổi mới ghê gớm: bên cạnh Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đang nổi lên như một trung tâm văn hoá có khả năng hoạt động đa dạng, sức thu hút mạnh mẽ và về văn hoá vật chất, có một tiềm lực lớn lao hỗ trợ cho hoạt động báo chí, xuất bản nghĩa là những phương tiện hành nghề trục tiếp của người cầm bút rất phát triển. Chỉ riêng việc đó thôi, đã gợi ra nhiều vấn đề phải suy nghĩ. Về phần mình, mười năm qua, đời sống Hà Nôi cũng biến động theo những hướng hoàn toàn mới. Các vấn đề kinh tế – xã hội luôn luôn được đặt ra cấp bách. Tâm lý con người có thay đổi, tự nhiên là tâm lý người sáng tác cũng thay đổi, dù người sáng tác đó đang ở đâu cũng vậy. Những Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu… hôm nay sống và viết không hoàn toàn giống hôm qua. Những Dương Thu Hương, Thái Bá Lợi,… mới viết, có rất nhiều nét đổi khác. Đặc biệt lại có sự xuất hiện của Nguyễn Mạnh Tuấn, một học sinh Chu Văn An cũ, mới vào thành phố Hồ Chí Minh từ sau 1975 v.v… mối quan hệ giữa những đời văn này với Hà Nội ra sao? Tất cả những biến động này nếu sớm được ghi nhận, chắc không kém phần thú vị.

Hè 1985

(1 ) Tài liệu của Nguyễn Đức Dân

Chia sẻ:

  • Facebook
  • X
Thích Đang tải...

Từ khóa » Các Tác Giả ở Hà Nội