NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN CA VÍ, GIẶM NGHỆ TĨNH NHÌN TỪ ...

Dân ca ví, dặm là nghệ thuật ca nhạc độc đáo của Việt Nam nói chung, là một disản tinh thần vô cùng quý giá, kết tinh trí tuệ, tình yêu và tài hoa của bao thế hệ cộngđồng dân cư, của các dân tộc anh em trên quê hương Nghệ An – Hà Tĩnh nói riêng. Cóthể xem đó là một thứ “rượu” đặc biệt, được chưng cất từ những nụ cười, những giọtnước mắt, từ những nỗi vất vả trong lao động thường ngày, và cả từ trong tính cách bìnhdị, chất phác của con người nơi đây…, nó đã hòa quyện lại làm một làm cho người tasay đắm mỗi khi nghe những câu ví, điệu dặm được cất lên.Nhắc đến văn hóa Xứ Nghệ không thể không nhắc đến dân ca Xứ Nghệ và ngượclại, khi nói đến dân ca Xứ Nghệ là đang nói đến một biểu hiện đặc trưng của văn hóatruyền thống Nghệ Tĩnh. Nói đến đặc trưng dân ca của một vùng thì một trong nhữngyếu tố quan trọng cần phải nhắc tới là ngôn ngữ. Cùng với nhạc, lời ca làm nên giá trị,đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ, trong đó, một trong những nhân tố tạo nên dấu ấn, sắcthái riêng đó là tiếng NghệDân ca ví, dặm đã trở thành một nhu cầu, một bộ phận không thể thiếu đối với cưdân vùng xứ Nghệ. Với những nét đặc sắc về nội dung trữ tình và làn điệu dân ca ví dặmnhư dòng sữa ngọt ngào đã nuôi dưỡng tâm hồn cốt cách bao thế hệ người dân nơiđây.Câu ví dặm quê mình vừa ân tình sâu lắng, vừa trang trải mênh mang, vừa đượm đàdung dị nó là tấm gương phản chiếu rõ mọi mặt của cuộc sống, bộc lộ và diễn đạt mọicung bậc tình cảm, tâm hồn, khát vọng của nhân dân xứ Nghệ. Là một phần của mảnhđất xứ Nghệ, tôi luôn mang trong mình tình yêu tha thiết với quê hương, với những làmdiệu dân ca gần gũi, thân quen nơi quê nhà mà mõi khi nghe những âm điệu dân ca ấylòng tôi trào lên bao nỗi niềm thương nhớ, với những kí ức buồn vui, ngọt bùi, đắng cay.Phải chăng dân ca là tinh hoa của đất mẹ là hồn nước tình quê “ Ai biết nước sông Lamrăng là trong là đục Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh Thuyền em lên thácxuống ghềnh Quê hương là nghĩa là tình ai ơi”Với tất cả những lý do trên, tôi chọn đề tài “Phương ngữ Nghệ Tĩnh – nét độc đáotrong dân ca ví dặm” làm đề tài nghiên cứu của mình.

Trang 1

ĐỀ TÀI: NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN CA VÍ, GIẶM NGHỆ TĨNH NHÌN

TỪ PHƯƠNG DIỆN NGÔN NGỮ

⃰ ⃰

Trang 2

MỤC LỤC

TỔNG QUAN _ 3

1 Lý do chọn đề tài _ 3

2 Mục đích nghiên cứu đề tài _ 3

3 Đối tượng nghiên cứu. 4

4 Phương pháp nghiên cứu _ 4

5 Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu _ 4

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 5

CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN _ 5

1 Cơ sở lý luận 5

2 Cơ sở thực tiễn _ 6 CHƯƠNG II DÂN CA VÍ, DẶM NGHỆ TĨNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN _ 6 NGÔN NGỮ _ 6

I Vài nét về mảnh đất và con người xứ Nghệ _ 6

2.1 Ngữ âm tiếng Nghệ Tĩnh tạo nên nét sắc thái riêng về "giọng Nghệ" trong ví, dặm 10 2.2 Từ địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung và nghệ thuật của dân ca xứ Nghệ, tạo nên sắc thái địa phương đậm đà _ 13 2.2.1 Từ ngữ địa phương được sử dụng với số lượng lớn _ 13

Trang 3

2

2.2.2 Đa dạng cách xưng hô trong hát ví, hát dặm 16 2.2.3 Sự phong phú trong ngôn ngữ Nghệ được thể hiện qua cách chơi chữ vừa độc đáo vừa mang tính bác học 17

3 Bảo tồn và phát huy “ đặc sản” xứ Nghệ 21 3.1 Bảo tồn _ 21 3.2 Phát huy _ 22

TỔNG KẾT 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO 26

Trang 4

dị, chất phác của con người nơi đây…, nó đã hòa quyện lại làm một làm cho người ta say đắm mỗi khi nghe những câu ví, điệu dặm được cất lên

Nhắc đến văn hóa Xứ Nghệ không thể không nhắc đến dân ca Xứ Nghệ và ngược lại, khi nói đến dân ca Xứ Nghệ là đang nói đến một biểu hiện đặc trưng của văn hóa truyền thống Nghệ Tĩnh Nói đến đặc trưng dân ca của một vùng thì một trong những yếu tố quan trọng cần phải nhắc tới là ngôn ngữ Cùng với nhạc, lời ca làm nên giá trị, đặc trưng của dân ca Xứ Nghệ, trong đó, một trong những nhân tố tạo nên dấu ấn, sắc thái riêng đó là tiếng Nghệ

Dân ca ví, dặm đã trở thành một nhu cầu, một bộ phận không thể thiếu đối với cư dân vùng xứ Nghệ Với những nét đặc sắc về nội dung trữ tình và làn điệu dân ca ví dặm như dòng sữa ngọt ngào đã nuôi dưỡng tâm hồn cốt cách bao thế hệ người dân nơi đây.Câu ví dặm quê mình vừa ân tình sâu lắng, vừa trang trải mênh mang, vừa đượm đà dung dị nó là tấm gương phản chiếu rõ mọi mặt của cuộc sống, bộc lộ và diễn đạt mọi cung bậc tình cảm, tâm hồn, khát vọng của nhân dân xứ Nghệ Là một phần của mảnh đất xứ Nghệ, tôi luôn mang trong mình tình yêu tha thiết với quê hương, với những làm diệu dân ca gần gũi, thân quen nơi quê nhà mà mõi khi nghe những âm điệu dân ca ấy lòng tôi trào lên bao nỗi niềm thương nhớ, với những kí ức buồn vui, ngọt bùi, đắng cay Phải chăng dân ca là tinh hoa của đất mẹ là hồn nước tình quê “ Ai biết nước sông Lam răng là trong là đục/ Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh/ Thuyền em lên thác xuống ghềnh/ Quê hương là nghĩa là tình ai ơi!”

Với tất cả những lý do trên, tôi chọn đề tài “Phương ngữ Nghệ Tĩnh – nét độc đáo trong dân ca ví dặm” làm đề tài nghiên cứu của mình

2 Mục đích nghiên cứu đề tài

Đề tài nghiên cứu này sẽ chỉ ra được những nét đặc trưng ngôn ngữ trong các làn điệu dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh, từ đó giúp cho người đọc có cái nhìn khái quát hơn và

rõ nét hơn về dân ca xứ Nghệ Cung cấp một số thông tin về loại hình âm nhạc vừa dân gian vừa bác học của người Việt nói chung và con người Nghệ Tĩnh nói riêng Từ đó

Trang 5

4

giúp mọi người hiểu rõ hơn tính cách người dân xứ Nghệ qua những câu ví, câu dặm Đồng thời, đề tài nghiên cứu này góp một phần nhỏ đưa dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh đến gần hơn với mọi người

3 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là lĩnh vực văn hóa nghệ thuật Cụ thể là các làn điệu dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh

4 Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:

- Trong nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết này, tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp tư liệu từ nhiều nguồn tìm được…

- Vận dụng lý thuyết cấu trúc luận trong ngôn ngữ của nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Ferdinad de Saussure ( 1587-1913) làm cơ sở lý thuyết nghiên cứu cho đề tài Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

- Sử dụng phương pháp tham khảo ý kiến của các nghệ nhân, nghệ sĩ, từ đó xây dựng luận điểm nghiên cứu cho mình

5 Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu

Về lý luận: Tôi mong muốn đề tài sẽ là nguồn động lực góp phần bảo tồn và phát huy dân ca Nghệ Tĩnh Ngoài ra những đúc kết, đánh giá, nhìn nhận đúng đắn hơn về sức lan tỏa của các làn điệu dân ca ví dặm trong đời sống văn hóa vùng đất Nghệ Tĩnh

có thể sẽ trở thành cơ sở để từ đó đề xuất hướng phát huy các giá trị âm nhạc truyền thống Việt Nam trong xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay

Về thực tiễn: Đề tài này có thể đóng góp một phần nhỏ làm tư liệu tham khảo cho những người muốn tìm hiểu, nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh, đồng thời giúp cho người đọc có thể hiểu thêm về con người xứ Nghệ qua những lời ca câu ví

Trang 6

5

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

1 Cơ sở lý luận

Dân ca Việt Nam là một thể loại âm nhạc cổ truyền, qua việc truyền khẩu, truyền ngón các bài dân ca, mỗi người diễn xướng có quyền ứng tác tự do, góp phần sáng tạo của mình vào tác phẩm trong quá trình biểu diễn Do vậy họ gần như là “đồng tác giả” với những người sáng tác mà người sáng tác ban đầu không rõ là ai Một bài dân ca thường tồn tại với một bản coi như bản gốc, gọi là lòng bản và nhiều bản được ứng tấu thêm hay sửa đổi gọi là dị bản Những bài dân ca được nhiều người yêu thích sẽ được truyền bá đi khắp nơi

Quả thật khó để ta có thể nêu ra được một định nghĩa chính xác, thỏa đáng về dân

ca Với người Đức dân ca được gọi là volkslied (tạm dịch: bài ca của nhân dân), người Pháp thì dùng 2 nhóm từ: chanson populaire (tạm dịch: “bài ca phổ cập trong quần chúng”) hay chanson folklorique (tạm dịch: bài ca mang tính nhân dân), trong khi đó người Anh gọi dân là folk song theo nghĩa như chanson folkorique, còn người Ý cuối thế kỷ XX lại dùng từ etnofonia (tạm dịch: bài ca mang tính dân tộc hay sắc tộc) để gọi dân ca Trong một số tài liệu ngoại quốc, và ngay cả trong các tài liệu Việt Nam về dân

ca hay công trình nghiên cứu trên 500 trang:“Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam” của

Gs Vũ Ngọc Khánh cũng không hề thấy một khái niệm cụ thể hay một định nghĩa công thức về dân ca như các định nghĩa về những phạm trù khác

Theo GS.TS Trần Quang Hải làm việc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học

về Sơ lược về dân ca Việt Nam: “Dân ca là những bài hát, khúc ca được sáng tác và lưu truyền trong dân gian mà không thuộc về riêng một tác giả nào Đầu tiên bài hát có thể

do một người nghĩ ra rồi truyền miệng qua nhiều người từ đời này qua đời khác và được phổ biến ở từng vùng, từng dân tộc… Các bài dân ca được gọt giũa, sàng lọc qua nhiều năm tháng bền vững với thời gian”

Để tiện cho việc nghiên cứu, ta có thể hiểu khái niệm về dân ca tạm thời như sau: Dân

ca là những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác

Theo wikipedia – bách khoa toàn thư mở phương ngữ (hay phương ngôn, tiếng Anh: dialect) là hệ thống ngôn ngữ được dùng cho một tập hợp người nhất định trong xã hội, thường là phân chia theo lãnh thổ.Phương ngữ được chia thành phương ngữ lãnh thổ và phương ngữ xã hội

Trang 7

6

Về thể loại hát ví, hát dặm thì theo cuốn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, 2011) thì hát dặm là “lối hát dân gian ở Nghệ Tĩnh, nhịp điệu dồn dập, lời dựa vào thơ năm chữ, hai câu cuối bao giờ cũng lặp lại về

âm vận và cao độ”[7, tr 409], còn hát ví là "Một loại dân ca trữ tình ở vùng Nghệ Tĩnh đặc biệt thịnh hành ở các làng xã thuộc vùng trung lưu và hạ lưu sông Cả và các sông con ở phía Nam sông Cả" [6, tr 96]

2 Cơ sở thực tiễn

Dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, tuy nhiên do đặc trưng, tính chất của dân ca Việt Nam nói chung và dân ca Nghệ Tĩnh nói riêng được lưu truyền chủ yếu là bằng hình thức truyền miệng do đó dân ca ví dặm dần trở nên mai một, như trong công trình nghiên cứu trước đây của PGS Ninh Viết Giao - người đã gắn bó nhiều năm với công việc sưu tầm và nghiên cứu Dân ca ví, dặm, từng chỉ ra: “Kho tàng Dân

ca ví, dặm trước đây rất phong phú, từ lịch sử hàng trăm năm, đã có biết bao lời hát được cất lên, nhưng cũng chính vì hình thức của Dân ca ví, dặm là ứng đáp trong đời sống lao động nên có rất ít tài liệu ghi lại trọn vẹn tất cả những câu hát này Cũng bởi hình thức lưu truyền là truyền miệng nên hiện nay, những lời hát ví, dặm còn lại chỉ là một phần nhỏ trong kho tàng vốn rất phong phú của Dân ca ví, dặm xứ Nghệ”

Những câu hát dân ca ví, dặm hiện đang lưu truyền có thể coi chỉ là số ít so với nguồn dân ca ví, dặm trước đây Điều đó, đặt ra cho chúng ta nhiều việc cần làm trong công tác sưu tầm, lưu giữ và bảo tồn, phát huy các giá trị của loại hình nghệ thuật dân gian này Nhưng chúng ta tự tin hơn khi vào ngày 27/11/2014 dân ca ví, dặm đã được cả thế giới công nhận là Di sản và có thể kỳ vọng nhiều hơn vào sự phát triển của Dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh khi có nhiều nhạc sỹ đương đại đang lấy đó làm chất liệu để sáng tác nhiều bài hát đi vào lòng người, như các ca khúc: Xa khơi, Chào em cô gái Lam Hồng,

Cô dân quân làng Đỏ, Trông cây lại nhớ đến Người, Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác, Lời Bác dặn trước lúc đi xa, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh, Hương cau vườn Bác, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Thương về xứ Nghệ, Giận mà thương, Dòng sông đa tình,… Điều đó khẳng định tầm ảnh hưởng của Dân ca ví, dặm đối với nền âm nhạc đương đại và là nền tảng quan trọng để Dân ca ví, dặm tiếp tục lan tỏa trong cuộc sống hôm nay và mãi mai sau

CHƯƠNG II DÂN CA VÍ, DẶM NGHỆ TĨNH NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN

NGÔN NGỮ

I Vài nét về mảnh đất và con người xứ Nghệ

1 Mảnh đất xứ Nghệ

Trang 8

7

Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu cũ từ thời nhà Hậu Lê tức là hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay, hai tỉnh này còn được biết đến về mặt văn hóa với tên gọi văn hóa Lam Hồng, bởi có chung núi Hồng, sông Lam

Danh xưng Nghệ An có từ năm 1030 thời nhà Lý, niên hiệu Thiên Thành thứ 2 đời

Lý Thái Tông Lúc đó gọi là Nghệ An châu trại, sau đó thì đổi thành trại Nghệ An rồi Nghệ An phủ, Nghệ An thừa tuyên Năm 1490, vua Lê Thánh Tông (niên hiệu Hồng Đức thứ 21) đổi tên từ Nghệ An thừa tuyên thành xứ Nghệ An (gọi tắt là xứ Nghệ) đồng thời với các đơn vị hành chính khác lúc bấy giờ như: xứ Kinh Bắc, xứ Sơn Nam, xứ Đông, xứ Đoài, xứ Thanh Hóa, xứ Lạng Sơn Sau cuộc cải cách hành chính của chính quyền vua Minh Mạng năm 1831, phạm vi hành chính của xứ Nghệ bị thu hẹp lại, tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh Tuy nhiên đến năm 1976, chính phủ nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam sáp nhập hai tỉnh Nghệ An Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh Đến năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh và duy trì cho đến nay

Nghệ Tĩnh ( Nghệ An và Hà Tĩnh nay) nằm ở vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam với phía bắc giáp Thanh Hóa , phía nam giáp Quảng Bình, phía tây giáp nước Lào và phía đông giáp vịnh Bắc Bộ

Xứ Nghệ là mảnh đất có nguồn tài nguyên, khoáng

sản phong phú Không ngoa khi có thể nói rằng nới đây

như là một nước Việt Nam thu nhỏ Xư Nghệ là vùng

đất có địa hình núi rừng trùng điệp với đồi núi chiếm

phần lớn diện tích, núi trải dài ở phía Tây, bốn mùa mây

phủ Dân gian thường gọi là núi Giăng Màn Tuy nhiên,

do địa hình chủ yếu là đồi núi cũng như điều kiện tự

nhiên khắc nghiệt được cùng với thiên tai, dịch bệnh

liên miên nên đời sống của người dân nơi đây có phần

khó khăn hơn những địa phương khác

ă ồ

2 Con người xứ Nghệ

Nói đến con người của mảnh đất Nghệ Tĩnh đầy nắng đầy gió này chắc hẳn người ta

sẽ nhớ đến ngay những con người bình dị, chất phác, thẳng thắn thủy chung, giàu tình cảm Con người nơi đây luôn thể hiện một ý chí vượt khó, khắc phục hoàn cảnh với tinh thần kiên cường, quyết tâm cao Không những thế, nơi đây từ xưa đến nay luôn được

Trang 9

8

mệnh danh là mảnh đất hiếu học Con dân xứ Nghệ bao đời nay luôn chăn chỉ chịu khó học tập đạt được những thành công trên con đường khoa cử trong các triều đại phong kiến còn lưu danh sử sách Nhiều học giả, tên tuổi văn hóa lừng danh trong thời hiện đại, đó là niềm tự hào không phải vùng đất nào cũng có được như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu…và đặc biệt trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh – người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam Truyền thống đó vẫn được tiếp nối trong từng gia đình xứ Nghệ không phải chỉ trong những gia đình có hoàn cảnh nghèo khó mà ở những gia đình thành đạt, giàu có thì họ vẫn ý thức rất rõ giá trị của học vấn, của sự thành đạt bằng con đường học vấn Có thể cho rằng ham học, hiếu học đã đi vào từng nếp nhà, nếp nghĩ của người dân xứ Nghệ Như GS Phong Lê, nguyên Viện trưởng Viện Văn học, người lớn lên từ mảnh đất Hương Sơn (Hà tĩnh), cho rằng: "Anh đồ Nghệ với hình ảnh con cá gỗ cũng là biểu hiện cho tinh thần hiếu học, cũng là biểu hiện của tính gàn Tính gàn không phải là một cái gì đó xấu xa, nó là một

cá tính đặc trưng của người Nghệ, đó là cái ngông của kẻ sĩ, của người có học Người Nghệ ngông, gàn nhưng lại được nhiều người quý mến vì họ cũng là người sống thẳng thắn, khẳng khái và nhiều khi cũng hào phóng, không hay tính toán lợi ích cho bản thân"

II Nét độc đáo của dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh dưới góc nhìn từ ngôn ngữ địa

phương

1 Đôi nét về dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh

Ví, dặm là linh hồn, là một trong những nét đẹp văn hóa tiêu biểu trong kho tàng văn hóa dân gian đáng tự hào của con người xứ Nghệ Không có ở thể loại nào, cuộc sống vật chất và tinh thần, sinh hoạt văn hóa dân gian của người Nghệ Tĩnh lại được phản ánh với nhiều sắc độ, đặc trưng, đậm chất dân gian Nghệ Tĩnh như những tác phẩm này Dân

ca Nghệ Tĩnh được hình thành trong môi trường diễn xướng hết sức đặc biệt gắn liền với cuộc sống, lúc ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc dệt vải, xay lúa (những năm gần đây ví dặm được đưa vào sân khẩu để biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, để biểu diễn trong các chương trình biểu diễn lớn của tỉnh cũng như của đất nước) Các lối hát,

vì vậy, được gọi tên theo các hình thức lao động và sinh hoạt như: Ví phường vải, Ví phường đan, Ví phường nón, Ví phường củi, Ví trèo non, Ví đò đưa, Giặm ru, Giặm kể, Giặm khuyên,… Nhà soạn giả dân ca HoàngVinh đã nói trong một bài phóng sự: “ví dặm như là tâm hồn, khí phách, bản lĩnh của người dân xứ Nghệ, được khuôn đúc trong lao động sản xuất, trong chiến đấu xây dựng và trong ứng xử cuộc sống”

Trang 10

9

Hát ví thường là hát tự do, phóng khoáng không có tiết tấu từng khuôn nhịp, người hát

có thể co dãn một cách ngẫu hứng, ví dụ như ta có thể hát ví từ đầu đến cuối của truyện Kiều Âm điệu cao thấp ngắn dài có khi còn tuỳ thuộc vào lời thơ (ca từ) bằng hay trắc,

ít từ hay nhiều từ Âm vực của ví thường không quá một quãng 8 Ví thuộc thể ngâm vĩnh, bằng phương pháp phổ thơ dân tộc (lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể, song thất lục bát…) Ví có nhiều cách hiểu đó là ví là với, là lời đối đáp của bên nam đáp với bên nữ được thể hiện qua câu hát; ví là vói, bên này hát vói qua bên kia, hát vói từ bên này sang bên này đồng, bên kia núi; ví là ví von chẳng hạn như “Da em như đọt chuối non/ Eo lưng thắt đáy như con tò vò” Tùy vào từng bài hát mà một bài ví có thể mang tính dạt dào, mênh mang, sâu lắng, ân tình, bâng khuâng xao xuyến đôi khi lại hài hước,

dí dỏm, tươi trẻ Nội dung của hát ví là để giao duyên, thổ lộ tình cảm sâu kín của trai gái với những cung bậc, mức độ khác nhau theo các chặng hát, ví dụ như lời đối đáp giữa nam và nữ trong câu ví đò đưa như sau:

Nữ: Ơ… Chiếc thuyền trôi là chiếc thuyền đạo ngại

Chiếc thuyền lại là chiếc thuyền buôn Anh ra đi em ở lại cũng buồn

Bốn phương trời chuyển động cái ngọn nguồn âm u Nam: Ơ… Người đồng tâm chèo con thuyền đạo ngại

Thuyền đạo ngại có tay lái đồng tâm

Em ươm dâu xanh chăm bón nong tằm

Em về ươm tơ dệt lụa, ta kết bạn tri âm với thuyền

Trang 11

ví không có tiết tấu, nhịp điệu thì dặm là thể hát có tiết tấu rõ ràng, nhịp phách mạnh nhẹ khác nhau tùy từng đoạn từng phần hay từng bài Thông thường một bài hát dặm thường có 5 khổ, mỗi khổ có 5 câu thơ mỗi câu thơ có 5 chữ Câu thơ thứ 5 bao giờ cũng nhắc lại câu thơ thứ 4 Nhưng xuất phát từ cách biến hóa của giai điệu nên lời thơ ở âm thứ 3 cũng phải thay đổi từ âm không dấu trở thành âm có dấu huyền Ví dụ như câu Hát dặm cổ truyền sau đây: “Mự nó biết tui mô/ Tui nỏ biết mự mô/ Sóng ngoài bể đồn vô/ Mây rừng xanh kéo lại/ Mây đại ngàn kéo lại”, hay trong lời bài dặm ru 2 (Mẹ dòng than thở cùng con): “ Thấy người ta sàm sợ (sỡ)/ Mẹ chực tiết lòng son/ Mẹ ngồi lại nuôi con/ Thật trăm đường tủi khổ/ Thật ngàn đường tủi khổ” Có thể coi hát dặm là con người xứ Nghệ bởi ngay trong lời bài hát giàu tính tự sự, phản ánh rõ cuộc sống lao động, sinh hoạt thường ngày với những câu chuyện, những biến cố, bày tỏ thái độ tình cảm, tư tưởng riêng của người xứ Nghệ Ngoài ra, còn có dặm khôi hài, dí dỏm, châm biếm và cũng có cả dặm trao duyên

Nếu như nghe Hát giặm ta có thể nhận cảm được sự vất vả đến khắc khổ nhưng cứng rắn, khỏe khoắn, trầm hùng của tâm hồn người lao động Nghệ Tĩnh thì ngược lại, nghe hát ví ta lại rung cảm bởi tâm hồn thi vị yêu thương, tính cách hiền hòa, sự dịu dàng, duyên dáng của con người xứ Nghệ Đó là tâm hồn, tính cách, là cuộc sống lao động gian lao và tình cảm nồng hậu, tình yêu tha thiết đối với quê hương đất nước, chan chứa trong điệu dân ca ví, giặm xứ Nghệ miền Trung Cùng với nhạc, lời ca là tiếng Nghệ với đặc trưng riêng về ngữ âm và từ ngữ địa phương đã tạo nên các làn điệu dân ca mang hương sắc riêng như vậy

2 Các yếu tố phương ngữ làm nên nét đặc sắc trong dân ca ví dặm Nghệ tĩnh 2.1 Ngữ âm tiếng Nghệ Tĩnh tạo nên nét sắc thái riêng về "giọng Nghệ" trong

ví, dặm

Theo như thuyết cấu trúc luận về ngôn ngữ của Fedinand de Saussure thì ông cho rằng “ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu biểu hiện sinh động các mối quan hệ giao tiếp trong đời sống xã hội kí hiệu đó không phải không phải là sự hợp thành các yếu tố tách

Trang 12

11

biệt mà là một chỉnh thể của nhiều yếu tố được kết cấu chặt chẽ, có quy kuật nội tại riêng Đặc biệt, khái niệm cái biểu đạt (signfiant) và cái được biểu đạt (signifed) đã khơi gợi nhiều vấn đề đối với ngành nghiên cứu ngôn ngữ như kí hiệu học, ngữ pháp học, âm

vị học…” Mặt khác ông cũng cho rằng “Phong tục của một dân tộc có tác động đến ngôn ngữ, và mặt khác, trong một chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ làm nên dân tộc” thì ta cũng có thể suy ra, ngôn ngữ địa phương mang trong nó bản sắc văn hóa địa phương, của từng khu vực dân cư Do ví giặm được sáng tác và diễn xướng bằng ngôn ngữ địa phương (tức phương ngữ Nghệ Tĩnh) nên nó mang trên mình được toàn bộ đặc trưng về ngôn ngữ của địa phương đó

Như ta đã biết, tiếng Việt là loại ngôn ngữ đặc trưng, thống nhất của người Việt tuy nhiên nó lại có sự đa dạng đa dạng ở mỗi vùng miền Mỗi vùng miền khác nhau tiếng nói của họ ít nhiều sẽ có sự khác nhau Ở Việt Nam từ trước đến nay,các nhà ngôn ngữ học nhìn chung đều thống nhất trong việc chia ra 3 vùng phương ngữ chính: phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam Tiếng Nghệ thuộc về vùng phương ngữ Trung, bao gồm 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh Như vậy, phương ngữ Trung sẽ còn 2 khu vực nữa là phương ngữ Thanh Hóa và phương ngữ Bình Trị Thiên, đều có những khác biệt nhất định về mặt ngữ âm cũng như từ vựng so với phương ngữ Nghệ Tĩnh

Trong giao tiếp người ta có thể dễ dàng nhận ra được người này nói tiếng Hà Nội (phương ngữ Bắc), người kia nói “giọng” Nghệ (phương ngữ Trung) hay người này nói tiếng Sài Gòn (phương ngữ Nam)… Điều đó không riêng gì ở Việt Nam mới có sự khác biết trong tiếng nói như thế mà ngay ở các nước này khác cũng có điều tương tự xảy ra,ví dụ như người hàng xóm Trung Quốc cũng có sự khác nhau trong giọng nói giọng

ở Bắc Kinh thì khác giọng người ở Quảng Đông hay giọng của người Thượng Hải Sở

dĩ có sự khác biệt ấy là do sự thể hiện ở từ địa phương, ở cách nói, ở ngữ điệu phát ngôn

và ở ngay trong cách phát âm

Sự khác biệt về tiếng hay giọng của vùng này hay vùng khác là sự khác biệt về chất lượng âm thanh Sự khác biệt hay nét riêng đó được thể hiện qua hàng loạt yếu tố, như thanh điệu, âm đầu, vần, mà cụ thể hơn là ở các biểu hiện về âm vực (độ cao thấp của thanh điệu), âm điệu (sự biến thiên của cao độ - đường nét của thanh điệu theo thời gian tạo nên sự biến điệu hay không biến điệu của âm thanh), về cấu âm, về cường độ, trường độ, trong, đục; về âm sắc (bổng/ trầm), về âm lượng (lớn/ nhỏ, độ vang), của các đơn vị âm thanh, sự chuyển sắc, thiếu vắng hay biến điệu của các âm, so với phát

âm của vùng khác Tập hợp những nét khác biệt về phát âm của một vùng nào đó so với vùng khác tạo nên đặc trưng ngữ âm của vùng đó mà ta thường gọi là giọng, tiếng, như tiếng Huế, tiếng Nghệ Tĩnh…

Trang 13

12

Như ta biết, ngôn ngữ Việt Nam có 6 thanh gồm thanh huyền, thanh sắc, thanh nặng, thanh ngã, thanh nặng và thanh ngang tuy nhiên với tiếng Nghệ Tĩnh thì chỉ có 5 thanh (không phát âm được thanh ngã (~), thanh ngã (~) nhập với thanh nặng (.) Âm vực của hệ thanh điệu tiếng Nghệ cũng khác thanh điệu Bắc Bộ; người Nghệ phát âm

có độ cao thấp vì thế mà nghe trầm thấp hơn phương ngữ Bắc và phương Ngữ Nam Cũng do hệ thanh điệu được phát âm thấp nên sự đối lập về âm vực giữa hai nhóm thanh (cao/ thấp) không rõ ràng như hệ thanh điệu Bắc Bộ hay Nam Bộ; các thanh điệu có tuyến điệu gần giống nhau giữa hai nhóm càng xích lại gần nhau Vì thế mà sự phát âm các thanh này có sự khu biệt không rõ ràng, tạo nên sự "trọ trẹ", "lơ lớ" trong phát âm Cho nên, trong toàn vùng, thanh ngã (~) phát âm thành thanh nặng (.), nhiều nơi ở Nghệ Tĩnh, thanh huyền (\) và thanh ngang phát âm nghe như chập vào nhau như ở vùng Nghi Lộc (Nghệ An), thanh sắc ( /) và thanh hỏi (?) cũng biến điệu tạo nên một thanh "lơ lớ", không rõ là sắc ( /) cũng không hẳn là hỏi (?) như tiếng Bắc Bộ Những điều nói trên đã tạo nên sắc thái riêng biệt trong phát âm của người Nghệ, tạo nên đặc trưng "giọng Nghệ", "tiếng Nghệ" và đó cũng là một yếu tố tạo nên nét đặc trưng xứ Nghệ trong dân

ca ví, giặm, làm cho dân ca vùng này không trộn lẫn với các vùng khác Như NSND Hồng Lựu - giám đốc Trung tâm bảo tồn và phát huy dân ca Xứ Nghệ từng nói trong một bài phóng sự “ Ai mà nói được tiếng Nghệ thì hát được dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh” Bởi vậy mà đối với người Nghệ Tĩnh thì âm thanh, giọng nói ấy như là hiện thân của chính con người họ, nó đã thấm sâu vào máu thịt, cho nên nghe dân ca ví, giặm là nghe thấy sự gần gũi, sự tha thiết thân thương như nghe tự lòng mình

Khi quan sát về mặt ca từ trong các bài dân ca hoặc ca khúc mang âm hưởng dân

ca, ta sẽ thấy rất rõ đặc trưng ngữ âm vùng miền được thể hiện trong đó Khi người ca

sĩ thể hiện một bài dân ca Nghệ Tĩnh hoặc một ca khúc mang âm hưởng dân ca Nghệ

Trang 14

13

Tĩnh, cũng phải làm rõ được điều này thì mới ra chất Nghệ, thì mới được coi là hát thành công Có thể lấy một vài ví dụ về các ca khúc dân ca Nghệ Tĩnh, ta sẽ thấy được đặc trưng ngữ âm tiếng Nghệ được thể hiện ra sao Ví dụ như trong bài Giận mà thương, khi hát các nghệ sĩ sẽ hát những từ có thanh ngã (~) thành thanh nặng (.)

“Ơ ớ ơ Muối ba năm muối đương còn ơ ơ mặn

Gừng chín tháng thì gừng hạy (hãy) còn ơ ơ cay

Đôi ta tình nặng ngại (ngãi (nghĩa)) dày

Dù có xa nhau đi chăng ơ ơ nựa (nữa)

Ơ ớ ơ Thời ba vạn sáu ngàn ngày mà nọ (không) phai”

Trong ca khúc Hồn quê xứ Nghệ soạn lời An Ninh có câu:

“Quanh quanh đường vô xứ ơ Nghệ

Ôi sơn thủy hữu ơ tình

Miền nước biếc non ơ xanh

Mênh mang câu ví ơ dặm

Sâu nặng nghịa (nghĩa) tình câu ví ơ dặm.”

Hay trong một số ca khúc nổi tiếng mang chất liệu dân ca xứ Nghệ cũng đã thể hiện được đặc trưng này của dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh Chẳng hạn như bài Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh của Trần Hoàn, ngay từ câu đầu, chữ “giữa” hát lên giống như “giựa”, chính là thể hiện đặc trưng thanh ngã và thanh nặng nhập làm một Hay bài Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác của nhạc sĩ An Thuyên, trong câu “bát ngát nhớ thương mà thoảng hương giữa đời”, chữ “giữa” cũng được hát lên như chữ “giựa”

2.2 Từ địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung và nghệ

thuật của dân ca xứ Nghệ, tạo nên sắc thái địa phương đậm đà

2.2.1 Từ ngữ địa phương được sử dụng với số lượng lớn

Từ ngữ địa phương là phương diện dễ dàng và đơn giản nhất để ta biết được người

đó thuộc vùng miền nào Cùng vì thế mà nó được đưa vào những câu hát ví dặm rất nhiều Bởi đối với người xứ Nghệ thì Nghệ ngữ là thứ ngôn ngữ tự nhiên, hồn nhiên dễ dàng, rất gần với khẩu ngữ, không hề mang vẻ đẹp của một công trình chế tác công phu Nhưng chính cái hồn nhiên, chân chất, mộc mạc, thô ráp ấy lại là cái đẹp riêng đối với người dân Xứ Nghệ, bởi đó là tiếng nói “thật lòng” của họ; họ nói cho họ nghe và chính người trong môi trường sáng tác, lĩnh xướng ấy mới cảm hết được

Từ khóa » đặc điểm Dân Ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh