Ngã Ba Đồng Lộc – Wikipedia Tiếng Việt

Bài viết này cần được viết lại toàn bộ để thỏa mãn tiêu chuẩn chất lượng của Wikipedia. Bạn có thể giúp. Có thể có thêm thông tin tại trang thảo luận.
Bài viết này có những đoạn sử dụng từ ngữ tâng bốc cho chủ thể một cách chủ quan mà không đưa ra dẫn chứng thực sự. Xin hãy xóa các từ ngữ đó hoặc viết lại. Thay vì dùng từ tâng bốc, hãy tập trung vào các sự kiện đã xảy ra và dẫn nguồn đầy đủ.
Bài viết này hiện đang gây tranh cãi về tính trung lập. Có thể có thảo luận liên quan tại trang thảo luận. Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề này.
Văn phong và cách dùng từ trong bài hoặc đoạn này không bách khoa. Xin vui lòng giúp biên tập lại.
Globe icon.Các ví dụ và quan điểm trong bài viết này có thể không thể hiện tầm nhìn toàn cầu về chủ đề này. Vui lòng giúp cải thiện bài viết này hoặc thảo luận về vấn đề này tại trang thảo luận, hoặc tạo bài viết mới sao cho phù hợp.
10 cô gái đang lấp hố bom ở ngã ba Đồng Lộc (ảnh được nhà báo Hoàng Văn Sắc chụp trước khi các cô hi sinh một tuần)

Ngã ba Đồng Lộc là di tích lịch sử gắn liền với việc 10 nữ thanh niên xung phong thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam hy sinh trong chiến tranh Việt Nam trong một trận oanh tạc của Không lực Hoa Kỳ tại đây. Vào 2013, Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt trên hệ thống Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh của Việt Nam.[1]

Vị trí địa lý và sự kiện lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh xuyên qua dãy Trường Sơn ở tỉnh Hà Tĩnh, là giao điểm của quốc lộ 15A và tỉnh lộ 2 của Hà Tĩnh, thuộc địa phận thị trấn Đồng Lộc, huyện Can Lộc.

Đây là một trong những điểm giao thông quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam, vậy nên quân đội Hoa Kỳ đã tập trung nhiều máy bay thả bom nhằm cắt đứt đường hành quân của lực lượng quân Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Nơi đây có một tiểu đội thanh niên xung phong có nhiệm vụ canh giữ giao điểm, phá bom và sửa đường thông xe khi bị bom phá. Tiểu đội 4, Đại đội 552 (được chốt chặn đoạn từ Cầu Tối trở vào Truông Kén khoảng 2 km, đặc biệt là 300 mét từ Cầu Tối đến Trường Thành) gồm 10 cô gái trẻ, tuổi từ 17 đến 24.

Trưa ngày 24 tháng 7 năm 1968, như mọi ngày 10 cô ra làm nhiệm vụ. Vào 16h30', trận bom thứ 15 trong ngày dội xuống Đồng Lộc. Một trong số những quả bom đã rơi xuống ngay sát miệng hầm, nơi các cô đang tránh bom. Tất cả đã qua đời khi tuổi đời còn rất trẻ, phần lớn trong số họ chưa lấy chồng.

10 cô gái Đồng Lộc

[sửa | sửa mã nguồn]
Thắp hương trước mộ 10 cô gái ở Đồng Lộc, Hà Tĩnh

Vào thời điểm 24/7/1968, Tiểu đội 4 của chị Võ Thị Tần gồm 12 người. Chị Lê Thị Hồng (Đức Lạc, Đức Thọ) được cử đi Quảng Bình lấy gỗ về làm hầm, còn chị Nguyễn Thị Thanh thì bị ốm nằm ở nhà, không ra hiện trường nên ngày 24/7/1968, Tiểu đội 4 chỉ có 10 người ra mặt trận và đều hy sinh. Bà Nguyễn Thị Diệu Lan (TP Hà Tĩnh), cựu thanh niên xung phong thuộc Tiểu đội 3 đã tham gia vào cuộc tìm kiếm thi thể 10 nữ thanh niên xung phong. 1 hầm có ba người, 1 hầm có sáu người, trong đó chị Võ Thị Tần ở hầm có sáu người. Còn thi thể chị Cúc thì các lực lượng thay phiên nhau tìm, chỉ thị là phải dùng tay đào bới chứ không dùng máy xúc để tránh gây hại cho thi thể. Đến ngày thứ 3 thì tìm được thi thể chị Cúc, các anh ở Tiểu đội 8 đã dùng tay bới đất đưa thi thể chị Cúc lên[2].

Nhà thơ Yến Thanh nhớ lại: một quả bom tấn từ máy bay Mỹ lao xuống nổ trùm lên căn hầm mà cả Tiểu đội ẩn nấp, lúc ấy là 16 giờ ngày 24/7/1968. Từ đài quan sát, Đại đội trưởng Nguyễn Thế Linh chạy xuống, Tiểu đội 5, Tiểu đội 8 và các anh lái máy ủi gần đó đều chạy lại. Sau hai tiếng đồng hồ đào bới thì bới được chị Võ Thị Tần. Lần lượt bới lên 6 người ẩn nấp hầm ngoài cùng là chị Nguyễn Thị Xuân (Vĩnh Lộc), rồi đến Nguyễn Thị Nhỏ, Võ Thị Hà, Trần Thị Rạng và cuối cùng là Trần Thị Hường. Đào tiếp hầm thứ hai vuông góc với hầm lúc nãy thì tìm thấy Dương Thị Xuân, Võ Thị Hợi và Hà Thị Xanh. Cả chín người được đặt lên 9 cáng xếp một hàng ngang như khi còn sống Tiểu đội tập hợp. Riêng chị Hồ Thị Cúc - Tiểu đội phó không tìm thấy. Đêm 24/7, 9 cô được mai táng sau eo núi Bãi Dịa, nhưng phải đợi tìm được thi thể chị Cúc mới làm lễ truy điệu. Đến gần 10 giờ ngày 26/7 thì Tiểu đội 8 đã tìm được thi thể chị Cúc. Chị Cúc ngồi trong chiếc hố cá nhân chiều hôm trước do tay chị đào, đầu đội mũ, vai vác cuốc, hai tay chị bầm dập, máu đọng lại đã khô. Có lẽ sau khi bom vùi lấp, chị đã cố gắng để nhoi lên nhưng đành bất lực trước khối đất đè lên[3].

10 cô gái hy sinh tại đây bao gồm:[4][5]

Họ tên Năm sinh Tuổi lúc qua đời Chức vụ Nguyên quán
Võ Thị Tần 1944 24 Tiểu đội trưởng Thiên Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh
Hồ Thị Cúc 1944 24 Tiểu đội phó Sơn Bằng, Hương Sơn, Hà Tĩnh
Võ Thị Hợi 1948 20 Chiến sĩ Thiên Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh
Nguyễn Thị Xuân 1948 20 Chiến sĩ Vĩnh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh
Dương Thị Xuân 1947 21 Chiến sĩ Đức Tân, Đức Thọ, Hà Tĩnh
Trần Thị Rạng 1950 18 Chiến sĩ Đức Vĩnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh
Hà Thị Xanh 1949 19 Chiến sĩ Đức Hòa, Đức Thọ, Hà Tĩnh
Nguyễn Thị Nhỏ 1944 24 Chiến sĩ Đức Lạng, Đức Thọ, Hà Tĩnh
Võ Thị Hà 1951 17 Chiến sĩ Thị trấn Đức Thọ, Đức Thọ, Hà Tĩnh
Trần Thị Hường 1949 19 Chiến sĩ Thị xã Hà Tĩnh, Hà Tĩnh
  • Tiểu đội trưởng Võ Thị Tần: Chị sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo. Năm 1963–1964, chị là Phó bí thư chi đoàn địa phương. Trước khi nhập ngũ, chị Tần có cảm tình với anh Nguyễn Đức Hồng, bạn học cùng lớp từ thuở ấu thơ. Trước lúc anh Hồng nhập ngũ, 2 người đã tổ chức lễ đính hôn. Tần trao cho anh Hồng lọn tóc thề thay lời hẹn ước. Kỷ vật ấy của Tần theo anh Hồng suốt những tháng năm chinh chiến và sau này đã được bàn giao lại cho Ban quản lý Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc. Giữa năm 1968, anh Hồng bị trọng thương trong một trận chiến đấu tại đảo Cồn Cỏ, hiện còn 6 mảnh đạn trong người. Mẹ chị Tần cũng đã mất vì bị bom Mỹ đánh sập hầm sau ngày chị hy sinh không lâu. Anh Hồng sau này đã rước ảnh chị Tần về thờ trong ngôi nhà của mình [6]
  • Tiểu đội phó Hồ Thị Cúc: Chị sinh trong một gia đình nông dân nghèo, được 7 tháng tuổi thì cha và bà nội chết trong nạn đói năm 1945, 4 tuổi thì mẹ tái giá. Cúc sống với ông nội, ông qua đời rồi ở với cô chú. 18 tuổi, chị Cúc lấy anh Cứ, người Sơn Tây trong huyện. Chồng chị cũng mồ côi cả cha lẫn mẹ, lại bị bệnh tâm thần. Nhà của đôi vợ chồng là một cái lều tranh nép bên chân đồi, chồng chị Cúc những lúc lên cơn tâm thần là đập phá và đánh chị. Rồi anh Cứ trong một lần đi chở vôi cho hợp tác xã về đến Hói Động bị lật thuyền và tử nạn. Chị Cúc lại về ở với cô chú. Tháng 7 năm 1965, chị Cúc tình nguyện lên đường gia nhập thanh niên ba sẵn sàng. Chị và chị Võ Thị Tần cùng ở chung đơn vị suốt 3 năm, cùng được kết nạp vào Đảng vào ngày 3/2/1967. Lúc hy sinh, chị Cúc nấp vào hố cá nhân nên người ta chỉ tìm được 9 cô gái trong hầm, phải ba ngày sau mới tìm được thi hài chị ở cách chỗ 9 cô gái kia hy sinh vài chục mét[7][8].
  • Võ Thị Hợi: Chị sinh trưởng trong một gia đình nông dân ở xã Thiên Lộc – Can Lộc, Hà Tĩnh, là con thứ 5 trong gia đình. Năm 1965, học xong lớp 7, Hợi xung phong đi "Ba sẵn sàng". Thi thoảng Hợi mới có dịp về thăm nhà, chị kể: "Bom đạn dội xuống ghê gớm lắm mẹ ạ! Tiếng bom nổ, tiếng máy bay gầm xé suốt đêm ngày, đất đá bụi tung mù mịt. Nhưng tất cả bọn con đều không sợ. Cứ đợi dứt đợt bom là chúng con ra đường ngay, để xe khỏi bị tắc trên đường vào Nam mẹ ạ!"[9]
  • Nguyễn Thị Xuân: Chị nhập ngũ năm năm 1967. Tại mặt trận, chị quen anh Vĩnh, tiểu đội phó Đơn vị bộ đội công binh phá bom. Anh Vĩnh là một đảng viên, một tiểu đội phó dũng cảm và kiên quyết, chị Xuân càng quý và tin anh, 2 người viết cho nhau nhiều lá thư giữa các trận đánh. Chị Xuân tâm sự với bạn bè: "Nhiều đêm nằm em thấy anh Vĩnh về thăm. Bẵng đi một thời gian không có thư anh về, em đã lo. Em nghĩ đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Nhưng em vẫn đợi...". Sau này Xuân mới biết anh Vĩnh nhiều lần bị thương. Mối tình giữa 2 người vừa chớm nở thì chị Xuân hy sinh[10].
  • Dương Thị Xuân: Chị sinh ra và lớn lên ở vùng quê Đức Tân - Đức Thọ, trong một gia đình đông con. Trước khi đi thanh niên xung phong, chị Xuân có quen anh Tân người cùng xã. Cũng như mối tình chị Tần – anh Hồng, Xuân và anh Tân đã không thực hiện được lời hẹn ước vì đất nước có giặc, chuyện riêng tư đành gác lại. Xuân mến anh Tân nhưng chưa muốn vấn vương chuyện gia đình, cô hẹn anh khi nào thống nhất đất nước thì sẽ liệu. Anh Tân nghĩ vậy là đúng. Trước khi Xuân lên đường, anh trao cho Xuân một quyển điều lệ Đảng mà anh vẫn dùng và lấy sợi ni lông xanh, đỏ buộc vào cổ tay Xuân rồi nói: "Màu đỏ là của anh, màu xanh lam này là của em. Khi nào nhớ đến anh, em hãy nhìn chiếc vòng này"[11].
  • Trần Thị Rạng: Chị sinh ra tại xóm chài Thọ Thủy - Đức Vĩnh – Đức Thọ, thời thơ ấu theo cha mẹ làm nghề chèo lái trên sông La. Ngày ngày 3 tháng 11 năm 1967, chị vào Thanh niên xung phong. Ngoài giờ ra trận địa, Rạng cùng chị em làm toán, làm văn, tập hát, lúc nghỉ giải lao lại trêu đùa đại đội trưởng và mấy anh lái xe ủi. Chị hy sinh khi 18 tuổi[12]
  • Hà Thị Xanh: Chị Xanh đậm người, khoẻ mạnh, làm việc gì cũng xốc vác, hay nhận việc khó về mình. Một lần được nghỉ phép, chị Xanh đã rủ chị Hà về nhà mình chơi. Chị Hà nói với mẹ chị Xanh: "Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước chúng con thực hiện phong trào "ba khoan", nghĩa là khoan lấy chồng"[13].
  • Nguyễn Thị Nhỏ: Bố mẹ chị mất sớm, nhà chỉ có 2 chị em gái: chị Miên và Nhỏ. Chị Miên thay bố mẹ nuôi chị Nhỏ từ bé. Khi chiến tranh phá hoại của Mỹ ngày một ác liệt, chị Nhỏ xin vào Thanh niên xung phong. Chị hy sinh năm 24 tuổi, khi chưa lập gia đình.
  • Võ Thị Hà: Chị sinh ra ở thị trấn Đức Thọ, là con thứ ba trong gia đình có năm con. 17 tuổi, chị lên đường vào TNXP. Có hôm Hà về thăm nhà, ăn vội ăn vàng để đi kẻo chậm. Lúc nào về Hà cũng mang theo một vài quyển truyện để đọc và nói "Không có sách, ngoài giờ ra trận địa con buồn lắm mẹ ạ". Hà ít tuổi nhất tiểu đội nên bao gìơ cũng được chị Tần, chị Cúc, chị Nhỏ coi như em út, không cho làm việc nặng. Sau đó mẹ Hà gửi mấy con gà con đến Đồng Lộc để chị em nuôi, rồi có lần Hà đem về nhà một con gà mái. Một hôm tự nhiên con gà mái vỗ cánh gáy như gà trống, mẹ của Hà bảo "thế nào chị Hà cũng có chuyện rồi". 2 ngày sau thì nghe tin chị Hà hy sinh[14].
  • Trần Thị Hường: Chị Hường là con của một liệt sĩ chống Pháp. Cha chị hy sinh năm 1953 ở mặt trận, khi Hường mới 4 tuổi. Hai năm sau, mẹ đi lấy chồng khác, Hường ở với bà ngoại và cậu mợ tại xóm Đông Quế, thị xã Hà Tĩnh. Chị có giọng hát hay, được mệnh danh là "chim sơn ca" của tiểu đội và của cả Đại đội 522[15].

Ngày 23/7/2009, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức lễ khởi công phụng tượng 10 nữ thanh niên xung phong ngã ba Đồng Lộc",[16] ngày 19/8/2010 đã tổ chức trọng thể lễ khánh thành cụm tượng đài.[17] Công trình phụng tượng 10 nữ thanh niên xung phong ngã ba Đồng Lộc là công trình có giá trị lịch sử, tâm linh sâu sắc, được xây dựng bằng sự tự nguyện đóng góp của các viên chức ngành giáo dục, học sinh, sinh viên trong cả nước.[16]

Phim ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Tượng đài 10 nữ Anh hùng liệt sỹ

Năm 1997, hãng phim truyện Việt Nam đã phát hành phim Ngã ba Đồng Lộc của đạo diễn Lưu Trọng Ninh, với diễn xuất của Thúy Hường, Hương Dung, Ngọc Dung, Yến Vy, Xuân Bắc, kịch bản của Nguyễn Quang Vinh.[18][19][20]

Thơ ca, âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thơ ca cũng có nhắc đến sự kiện Ngã ba Đồng Lộc:

  • Sau khi bom Mỹ nổ, đồng đội đào bới tìm được thi thể 9 người nhưng vẫn chưa tìm được chiến sĩ Hồ Thị Cúc. Yến Thanh (tên thật là Nguyễn Thanh Bính, hội viên Hội văn học nghệ thuật Hà Tĩnh), kỹ sư kinh tế từng làm trưởng nhiều phòng ở Công ty đường 4. Tác giả là người thân quen của Hồ Thị Cúc, đau đớn và xúc động trước sự mất mát này, trong 3 ngày trời mà chưa tìm thấy xác người em, người đồng đội.[21] Tại ban chỉ huy đại đội 552, mười các hòm đã khiêng đi chín cái, còn cái hòm của Cúc phải khiêng ra ngoài vườn để đợi. Nỗi xúc động thương xót dâng trào trong lòng, Nguyễn Thanh Bính chạy ra vườn nhà ban chỉ huy C55, ngồi cạnh hòm của Cúc vừa khóc vừa viết. Viết nhưng chưa đặt được tên bài, sau tác giả tính đặt là "Hồn Trinh nữ ở đâu"[22] và sau này được nhà thơ Bùi Quang Thanh góp ý với nên sửa lại tên bài thơ là "Cúc ơi!". Sau này, bài thơ trên cũng có xuất hiện trong bộ phim Ngã ba Đồng Lộc của đạo diễn Lưu Trọng Ninh [21] và đã được phổ nhạc. Vào một đêm tháng 8/1968, Đài tiếng nói Việt Nam vang lên bài thơ "Cúc ơi" qua giọng đọc của nghệ sĩ Văn Thành:
Tiểu đội đã xếp một hàng ngang Cúc ơi em ở đâu không về tập hợp? Chín bạn đã quây quần đủ hết Nhỏ - Xuân - Hà - Hường - Hợi - Rạng - Xuân - Xanh A trưởng Võ Thị Tần điểm danh Chỉ thiếu mình em Chín bỏ làm mười răng được! Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng Cúc ơi! em ở đâu? Đất nâu lạnh lắm Da em xanh. Áo em thì mỏng! Cúc ơi! em ở đâu?
  • Năm 1995, khi đến Ngã ba Đồng Lộc, nhà thơ Vương Trọng làm bài thơ Lời thỉnh cầu ở Nghia trang Đồng Lôc. Bài thơ này đã được khắc trên bia đá trong khu tưởng niệm mười cô gái Đồng Lộc. Nội dung như sau:
Mười bát nhang hương cắm thế đủ rồi Còn hương nữa hãy dành phần cho đất Ngã xuống nơi này đâu chỉ có chúng tôi Bao xương máu mới làm nên Đồng Lộc Lòng tưởng nhớ xin chia đều khắp Như cỏ trong thung, như nắng trên đồi. Hoa cỏ may khâu nặng ống quần, kìa! Ơi các  em tuổi quàng khăn đỏ Bên bia mộ xếp hàng nghiêm trang quá Thương các chị lắm phải không, thì hãy quay về Tìm cây non trồng lên đồi Trọ Voi cùng bao vùng đất trống Các chị nằm còn khát bóng cây che. Hai mươi bảy năm qua chúng tôi không thêm một tuổi nào Ba lần chuyển chỗ nằm lại trở về  Đồng Lộc Thương chúng tôi, các bạn ơi, đừng khóc Về bón chăm cho lúa được mùa hơn Bữa ăn cuối cùng mười chị em không có gạo Nắm mì luộc chia nhau rồi vác cuốc ra đường. Cần gì ư, lời ai hỏi trong chiều Tất cả chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu Ngày bom vùi tóc tai bết đất Nằm xuống mộ rồi mái đầu chưa gội được Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang Cho mọc dậy vài cây bồ kết Hương chia đều trong hư ảo khói nhang.[23]
  • Tháng 8 năm 1996, nhân dịp tiếp Nguyễn Quang Vinh (nay là Nhà văn, nhà báo, đại diện báo Lao động tại Quảng Bình) đi thực tế để viết kịch bản phim "Vầng trăng trinh nữ" nội dung về sự hy sinh của mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Nhà thơ Bùi Quang Thanh (Chánh văn phòng Hội Văn nghệ Hà Tĩnh) cùng với nhà văn Đức Ban cùng Nguyễn Quang Vinh lên Đồng Lộc rồi vào nghĩa trang liệt sĩ thắp hương. Trong hoàn cảnh đó, nhà thơ Bùi Quang Thanh đã viết bài thơ "Hà ơi!"[21]
  • Năm 2015, nhà soạn nhạc Oki Masao sáng tác Symphony No.6 "Mười cô gái Ngã ba Đồng Lộc". Oki Masao chia sẻ, lòng quả cảm và đức hi sinh của những nữ anh hùng trong thời chiến đã làm lay động tới trái tim ông. Symphony No.6 là một sự tri ân và đồng cảm với những người nữ anh hùng. Sáng tác trên đã được trình diễn trong chương trình Hòa nhạc hữu nghị Việt – Nhật (JVCA Japan – Vietnam Friendship Concert) vào ngày 14 tháng 11 năm 2015 tại Nhà hát Lớn Hà Nội.[24]
  • Nhân dịp kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ 27/7 năm 2016, ca sĩ Phạm Phương Thảo chính thức phát hành MV được quay tại Ngã ba Đồng Lộc với một sáng tác của chính cô "Mười đoá sen thơm" dành riêng cho 10 người con gái anh dũng.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Hà Tĩnh: Khu di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc đón nhận Bằng Di tích quốc gia đặc biệt”. Báo Tài nguyên & Môi trường. 25 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2024.
  2. ^ Thông tin sai lệch về sự hy sinh của 10 nữ TNXP Đồng Lộc - Báo Hà Tĩnh
  3. ^ “Cúc ơi” - Bài thơ gọi tìm cô gái Đồng Lộc bị chôn vùi dưới hố bom
  4. ^ Sự tích về 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc Lưu trữ 2014-11-19 tại Wayback Machine Chuyên đề Phụ nữ Việt Nam, phần 3: Chân dung người phụ nữ Việt Nam, Cổng Thông tin Điện Tử Tỉnh Hậu Giang
  5. ^ “Khu mộ 10 nữ anh hùng liệt sĩ TNXP hy sinh tại Ngã Ba Đồng Lộc”. Ban quản lý khu di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc.
  6. ^ “Chuyện tình liệt nữ Võ Thị Tần - Sắt son một lọn tóc thề”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  7. ^ Anh hùng Liệt sỹ Hồ Thị Cúc | Vô xứ Nghệ | Báo Nghệ An điện tử
  8. ^ Mười cô gái Đồng Lộc - Chị Hồ Thị Cúc
  9. ^ Mười cô gái Đồng Lộc - Chị Võ Thị Hợi
  10. ^ “Liệt sĩ Nguyễn Thị Xuân”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  11. ^ “Anh hùng liệt sĩ Dương Thị Xuân”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  12. ^ Mười cô gái Đồng Lộc - Chị Trần Thị Rạng
  13. ^ “Anh hùng liệt sĩ Hà Thị Xanh”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  14. ^ Mười cô gái Đồng Lộc - Chị Võ Thị Hà
  15. ^ “Liệt sĩ Trần Thị Hường”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  16. ^ a b Khởi công phụng tượng 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc
  17. ^ Khánh thành cụm tượng đài 10 nữ TNXP Ngã ba Đồng Lộc Lưu trữ 2010-09-23 tại Wayback Machine, báo Hà Nội mới
  18. ^ Phim Ngã ba Đồng Lộc (1997)
  19. ^ Ngã ba Đồng Lộc trên Internet Movie Database
  20. ^ Phim lịch sử Ngã Ba Đồng Lộc Khu di tích lịch sử Ngã Ba Đồng Lộc - Huyện Can Lộc - Du lịch Hà Tĩnh đăng ngày: 14/9/2012
  21. ^ a b c “Về hai bài thơ viết ở Ngã ba Đồng Lộc”.
  22. ^ “Tôi viết bài thơ "Cúc ơi" ở ngã ba Đồng Lộc - Yến Thanh”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
  23. ^ “Bài thơ và những cây bồ kết ở Đồng Lộc”. Báo Nhân Dân. 23 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2024.
  24. ^ “Nhạc sĩ người Nhật sáng tác giao hưởng về 10 cô gái Đồng Lộc”.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Khu di tích lịch sử Ngã Ba Đồng Lộc - Huyện Can Lộc - Du lịch Hà Tĩnh
  • Ngã Ba Đồng Lộc Full HD trên YouTube Phim Hay Điện ảnh Xuất bản 28 tháng 7, 2016
  • Về Đồng Lộc nghe chuyện mười cô gái anh hùng Đồng Văn Thanh Niên 23:36 - 20/07/2006
  • Huyền thoại 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc[liên kết hỏng] HN (tổng hợp) Báo Phụ Nữ Việt Nam Thứ năm, 28/07/2016
  • x
  • t
  • s
Du lịch Việt Nam
8 Di sản thế giớitại Việt Nam
  • Vịnh Hạ Long
  • Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng
  • Thành nhà Hồ
  • Hoàng thành Thăng Long
  • Quần thể di tích Cố đô Huế
  • Phố cổ Hội An
  • Thánh địa Mỹ Sơn
  • Quần thể danh thắng Tràng An
70 Khu du lịchcấp quốc gia
  • Sa Pa
  • Đền Hùng
  • Trà Cổ
  • Tam Đảo
  • Mũi Né
  • Tuyền Lâm
  • Núi Sam
  • Mộc Châu
  • Côn Đảo
  • Đồng Văn
  • Ô Quy Hồ
  • Điện Biên Phủ – Pá Khoang
  • Hồ Sơn La
  • Sìn Hồ
  • Thác Bà
  • Mù Cang Chải
  • Hồ Hòa Bình
  • Công viên Cao Bằng
  • Ba Bể
  • Tân Trào
  • Na Hang – Lâm Bình
  • Mẫu Sơn
  • Hồ Núi Cốc
  • Xuân Sơn
  • Ba Vì
  • Hương Sơn
  • Hoàn Kiếm & phố cổ
  • Cát Bà
  • Vân Đồn – Cô Tô
  • Yên Tử
  • Hồ Đại Lải
  • Côn Sơn – Kiếp Bạc
  • Tràng An
  • Kênh Gà – Vân Trình
  • Tam Chúc
  • Sầm Sơn – Hải Tiến
  • Kim Liên
  • Vinh–Diễn Châu
  • Thiên Cầm
  • Phong Nha – Kẻ Bàng
  • Cửa Việt – Cửa Tùng – Cồn Cỏ
  • Lăng Cô – Cảnh Dương
  • Sơn Trà
  • Bà Nà
  • Cù lao Chàm
  • Lý Sơn
  • Mỹ Khê
  • Phương Mai
  • Vịnh Xuân Đài
  • Vịnh Cam Ranh
  • Vịnh Vân Phong
  • Ninh Chử
  • Măng Đen
  • Biển Hồ
  • Chư Đăng Ya
  • Yok Đôn
  • Hồ Tà Đùng
  • Đankia – Suối Vàng
  • Cần Giờ
  • Long Hải – Bình Châu
  • Hồ Trị An
  • Núi Bà Đen
  • Bà Rá – Thác Mơ
  • Ninh Kiều
  • Thới Sơn
  • Măng Thít
  • Lung Ngọc Hoàng
  • Tràm Chim
  • Hà Tiên
  • Nhà Mát
  • Mũi Cà Mau
3 cực tăng trưởng10 trung tâm du lịch
  • Hà Nội
  • Thành phố Hồ Chí Minh
  • Đà Nẵng
  • Hạ Long
  • Ninh Bình
  • Huế
  • Hội An
  • Quy Nhơn
  • Nha Trang
  • Đà Lạt
  • Vũng Tàu
  • Cần Thơ
  • Phú Quốc
8 khu vực động lựcphát triển du lịch
  • Hà Nội–Hải Phòng–Quảng Ninh–Ninh Bình
  • Thanh Hóa–Nghệ An–Hà Tĩnh
  • Quảng Bình–Quảng Trị–Thừa Thiên Huế–Đà Nẵng–Quảng Nam
  • Khánh Hòa–Lâm Đồng–Ninh Thuận–Bình Thuận
  • Thành phố Hồ Chí Minh–Bà Rịa – Vũng Tàu
  • Cần Thơ–Kiên Giang–Cà Mau
  • Sơn La–Điện Biên (sau 2030)
  • Hòa Bình–Lào Cai–Hà Giang (sau 2030)
6 Vùng du lịch
  • Trung du và miền núi phía Bắc
  • Vùng đồng bằng sông Hồng
  • Bắc Trung Bộ – Duyên hải Nam Trung Bộ
  • Tây Nguyên
  • Đông Nam Bộ
  • Tây Nam Bộ

An Giang • Bà Rịa – Vũng Tàu • Bạc Liêu • Bắc Giang • Bắc Kạn • Bắc Ninh • Bến Tre • Bình Dương • Bình Định • Bình Phước • Bình Thuận • Cà Mau • Cần Thơ • Cao Bằng • Đà Nẵng • Đắk Lắk • Đắk Nông • Điện Biên • Đồng Nai • Đồng Tháp • Gia Lai • Hà Giang • Hà Nam • Hà Nội • Hà Tĩnh • Hải Dương • Hải Phòng • Hậu Giang • Hòa Bình • Thành phố Hồ Chí Minh • Hưng Yên • Khánh Hòa • Kiên Giang • Kon Tum • Lai Châu • Lạng Sơn • Lào Cai • Lâm Đồng • Long An • Nam Định • Nghệ An • Ninh Bình • Ninh Thuận • Phú Thọ • Phú Yên • Quảng Bình • Quảng Nam • Quảng Ngãi • Quảng Ninh • Quảng Trị • Sóc Trăng • Sơn La • Tây Ninh • Thái Bình • Thái Nguyên • Thanh Hóa • Thừa Thiên Huế • Tiền Giang • Trà Vinh • Tuyên Quang • Vĩnh Long • Vĩnh Phúc • Yên Bái

  • x
  • t
  • s
Di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam
Trung du vàmiền núi phía Bắc(22 di tích)

ATK Chợ Đồn · ATK Định Hóa · ATK II Hiệp Hòa · Chi Lăng · Chùa Bổ Đà · Chùa Vĩnh Nghiêm · Đền Hùng · Địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950 · Địa điểm Chiến thắng Xương Giang · Điện Biên Phủ · Hồ Ba Bể · Khu BTTN Na Hang – Lâm Bình · KDT cách mạng Việt Nam – Lào · KDT khởi nghĩa Bắc Sơn · KDT khởi nghĩa Yên Thế · KDT Kim Bình · Nhà tù Sơn La · Pác Bó · Ruộng bậc thang Mù Cang Chải · Rừng Trần Hưng Đạo · Tân Trào · Hang xóm Trại và Mái đá làng Vành

Thủ đô Hà Nội(21 di tích)

Chùa Hương · Chùa Tây Phương · Chùa Thầy · Đền – Chùa – Đình Hai Bà Trưng · Đền Hai Bà Trưng (Hạ Lôi) · Đền Hát Môn · Đền Phù Đổng · Đền Sóc · Đình Chèm · Đình Đại Phùng · Đình Hạ Hiệp · Đình So · Đình Tây Đằng · Đình Tường Phiêu · Gò Đống Đa · Hồ Hoàn Kiếm · Hoàng thành Thăng Long · Phủ Chủ tịch · Thành Cổ Loa · Thăng Long tứ trấn (Đền Bạch Mã · Đền Voi Phục · Đền Quán Thánh · Đền Kim Liên) · Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Đồng bằng sông Hồng(trừ Hà Nội, 34 di tích)

Chùa Bút Tháp · Chùa Dâu · Chùa Đọi Sơn · Chùa Keo Hành Thiện · Chùa Keo Thái Bình · Chùa Phật Tích · Chùa Thái Lạc · Cố đô Hoa Lư · Cụm đình Hương Canh · Côn Sơn – Kiếp Bạc · Đền An Xá · Đền Đô · Đền Trần Nam Định – Chùa Phổ Minh · Đền Trần Thái Bình · Đền Trần Thương · Đền Xưa – Chùa Giám – Đền Bia · Đình Thổ Tang · KDT Nguyễn Bỉnh Khiêm · Phố Hiến · Núi Non Nước · Quần đảo Cát Bà · Quần thể An Phụ – Kính Chủ – Nhẫm Dương · Quần thể Tràng An – Tam Cốc – Bích Động · Tháp Bình Sơn · Tây Thiên · Văn miếu Mao Điền · Bạch Đằng · Đền Cửa Ông · Đình Trà Cổ · KDT nhà Trần tại Đông Triều · Khu lưu niệm Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô · Thương cảng Vân Đồn · Vịnh Hạ Long · Yên Tử

Bắc Trung Bộ(19 di tích)

Cố đô Huế · Di tích lưu niệm Hồ Chí Minh ở Thừa Thiên Huế · Đền Bà Triệu · Đền thờ Lê Hoàn · Đền thờ Mai Hắc Đế · Địa đạo Vịnh Mốc · Đình Hoành Sơn · Đường Trường Sơn · Hang Con Moong · Hiền Lương – Bến Hải · KDT Kim Liên · KDT Nguyễn Du · KDT Phan Bội Châu · Lam Kinh · Lăng mộ và đền thờ Nguyễn Xí · Sầm Sơn · Thành cổ Quảng Trị · Thành nhà Hồ · VQG Phong Nha – Kẻ Bàng

Tây Nguyên vàDuyên hải Nam Trung Bộ(18 di tích)

Khu di chỉ văn hóa Sa Huỳnh · Đền Tây Sơn Tam Kiệt · Địa điểm Chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh · Gành Đá Đĩa · KDT khởi nghĩa Ba Tơ · KDT khảo cổ Cát Tiên · Ngũ Hành Sơn · Nhà đày Buôn Ma Thuột · Phật viện Đồng Dương · Phố cổ Hội An · Rộc Tưng – Gò Đá · Tây Sơn Thượng đạo · Thánh địa Mỹ Sơn · Thành Điện Hải · Tháp Dương Long · Tháp Hòa Lai · Tháp Nhạn · Tháp Po Klong Garai

Miền Nam(17 di tích)

Căn cứ Cái Chanh · Căn cứ Tà Thiết · Căn cứ Trung ương Cục miền Nam · Di tích Chiến thắng Chương Thiện · Dinh Độc Lập · Địa đạo Củ Chi · Địa điểm Chiến thắng Ấp Bắc · Đồng Khởi Bến Tre · Gò Tháp · Rạch Gầm – Xoài Mút · KDT Tôn Đức Thắng · Lăng Nguyễn Đình Chiểu · Mộ cự thạch Hàng Gòn · Nhà tù Côn Đảo · Nhà tù Phú Quốc · Óc Eo – Ba Thê · VQG Cát Tiên · Di tích khảo cổ Vĩnh Hưng · Các địa điểm khởi nghĩa Trương Định

  • Di tích quốc gia đặc biệt
  • Hang động
  • Thác nước
  • Chùa
  • Đình
  • Đền
  • Nhà thờ
  • Tháp cổ
  • Tháp Chăm

Từ khóa » Kể Chuyện Về 10 Cô Gái Ngã Ba đồng Lộc